Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 63
Tổng truy cập: 1443353
Ý NGƯỜI VÀ Ý CHÚA
Ý người và ý Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Dường như không ai không gặp sự dữ trên đời; và cũng chẳng ai muốn mình bị sự khó. Một số người tưởng lầm Thiên Chúa muốn con người phải sự khó và đau khổ. Thật sự, Thiên Chúa luôn muốn con người hạnh phúc; những đau khổ con người gặp phải hoặc bị, là do con người mà ra.
1. Điều dữ con người làm cho nhau
Đức Yêsu tỏ cho các tông đồ biết về tương lai của Ngài: Ngài sẽ lên Yêrusalem, sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Nghe vậy Phêrô lên tiếng với Đức Yêsu: Thiên Chúa không muốn Thầy như vậy đâu, không bao giờ điều dữ đó xảy ra cho Thầy đâu. Một điều chắc chắn: Thiên Chúa yêu Đức Yêsu vô cùng, nhưng Đức Yêsu vẫn gặp bao điều ác và Ngài đã bị chết nhục nhã trên thập giá.
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Ngài không muốn ai phải chịu sự dữ, Ngài luôn muốn con người được hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Tuy nhiên, Thiên Chúa cho con người tự do; và nhiều người bị lòng ham muốn danh lợi chức quyền chi phối, nên thường làm khổ và gây hại cho nhau. Đức Yêsu chết vì người ta muốn giết Ngài, cho rằng Ngài lộng ngôn xúc phạm Thiên Chúa. Để giết Đức Yêsu, người ta đã tố cáo Ngài muốn nổi loạn chống đế quốc Roma đang cai trị, bằng việc xưng mình là vua. Nhiều khi người ta làm khổ nhau và thậm chí giết nhau, nhân danh điều tốt và công ích. Điều dữ con người làm cho nhau, vẫn thường xảy ra dù rằng Thiên Chúa không muốn.
Thiên Chúa không muốn điều dữ cho con người, nhưng vì con người tự do và cơ cấu thể xác, nên con người và Đức Yêsu vẫn bị khổ và bị giết. Chính con người làm khổ nhau, chứ Thiên Chúa không làm khổ con người. Ngay cả hoả ngục, nơi bất hạnh vĩnh cửu, cũng do con người tạo nên cho mình. Chính khi con người sống trong thù ghét oán hận, con người bất hạnh và đau khổ.
2. Ý của Thiên Chúa
Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc. Ngài tạo dựng con người để chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài cho con người. Ngài tìm mọi cách giúp con người sống bình an hạnh phúc, không chỉ ở đời sau mà ngay cả ở đời này. Cả khi con người phạm tội, Ngài vẫn giúp con người hối hận trở lại để Ngài tha thứ.
Khi ai đó bị kẻ khác hành hạ và đàn áp bất công, thì Thiên Chúa vẫn giúp người đó bình an trong hoàn cảnh của mình, bằng việc nhận ra ý nghĩa và chấp nhận cảnh túng cực đó. Ngài cho họ biết rằng, cuộc đời này sẽ qua đi, và đời sau họ sẽ được đền bù những gì đời này họ bị mất. Một số người hiểu lầm giáo lý này, cho rằng đây là giáo lý làm con người yên tâm sống trong nô lệ và cam chịu người khác bóc lột. Thật ra Thiên Chúa không muốn con người bị bóc lột bởi bất cứ ai, Ngài không muốn con người làm khổ nhau. Nếu ai đó thấy cần phải nổi dậy chống cường quyền để thoát bất công, thì người đó cứ làm như họ thấy phải làm. Thiên Chúa vẫn nói với con người qua lý trí và lương tri mỗi người. Mỗi người phải sống theo lương tâm mình. Đức Yêsu là gương mẫu cho con người: Ngài nói điều phải nói cho dù nguy hiểm đến tính mạng, cho dù vì đó người ta ghét và giết Ngài.
Thiên Chúa ở với con người, muốn con người hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa muốn cả những người bị áp bức mà không thể thoát khỏi hoàn cảnh đó, cũng được hạnh phúc. Thiên Chúa muốn những người bị áp bức mà nổi lên chống lại cường quyền cũng được hạnh phúc trong việc phản kháng của họ. Với những người đang áp bức người khác, thì Ngài cho họ thấy: họ được gì nếu họ được tất cả ở đời này mà mất đời sau, phải khổ đời sau. Yêu thương và tôn trọng con người, mới làm con người hạnh phúc ở đời này, và cả ở đời sau.
3. Tôn thờ Thiên Chúa qua cuộc sống
Đức Yêsu vẫn làm điều Ngài phải làm, cho dù Ngài sẽ bị giết chết. Yoan Tiền Hô cũng đã làm điều phải làm, phản đối việc Hêrôđê lấy vợ người anh, cho dù vì đó Ngài bị ghét và bị giết. Yoan Tiền Hô vẫn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Cả tiên tri Yêrêmia cũng như vậy. Ngài được gọi làm tiên tri, để nói với dân những điều Thiên Chúa muốn, để họ bỏ đường tội lỗi và trở về với Thiên Chúa. Khi nói những gì Thiên Chúa truyền, là tiên tri phải loan báo những tai hoạ mà những người thời đó không muốn nó xảy tới. Và như vậy, tiên tri bị người ta ghét và hãm hại. Có nhiều lần Yêrêmia không muốn nói điều Thiên Chúa truyền, nhưng trong lòng tiên tri như lửa thiêu, và không thể nào cầm lòng được. “Lạy Chúa, Ngài đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ. Suốt ngày, khi nói, là tôi phải nói những lời về chém giết và điêu tàn.” Có lần tiên tri đã không làm theo Lời Thiên Chúa, nhưng rồi tiên tri lại được ơn trở lại, và lại làm theo điều Thiên Chúa muốn. Đức Yêsu cũng được ơn để sẵn sàng làm theo những gì Thiên Chúa muốn, cho dù bị người ta ghét và tìm cách giết Ngài.
Với những người chọn Thiên Chúa trên hết, sống lâu hay chết yểu không quan trọng. Điều chính yếu là làm theo thánh ý Thiên Chúa. Khi làm như vậy, cả cuộc đời họ trở thành của lễ tôn thờ Thiên Chúa. Họ tôn thờ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của họ. Tôn trọng người khác, và làm theo điều mình được soi sáng, là thái độ sống của người đặt Thiên Chúa trên hết.
Hạnh phúc mỗi người nhận được trên đời này, phần nào qua chính hành vi sống của họ. Trong một xã hội dễ dàng về vật chất, con cái vừa là một vinh dự, vừa là mối bận tâm và lo lắng của nhiều người. Nếu cha mẹ chỉ lo kiếm tiền và không dành thời gian để sống với và giáo dục con cái, thì người cha người mẹ đó sẽ bất hạnh khi con cái họ hư hỏng. Nếu bậc cha mẹ vì sợ trách nhiệm không dám sinh con, thì họ cũng không có được niềm vui của một gia đình có con cái, không cảm được sự đầm ấm tươi trẻ và hạnh phúc khi có con có cháu. Con người phần nào cũng được lãnh những gì tốt đẹp mình dâng hiến và xây dựng ngay trong cuộc sống này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự dữ nhất mà bạn đã phải chịu, là gì? Xin bạn chia sẻ nếu được.
2. Sự dữ là do con người làm cho nhau, hoặc do con người mà ra. Câu này đúng hay sai? Tại sao? Nó có đúng với những tai ương thiên nhiên không?
3. Cuộc đời của bạn và cuộc đời của Đức Yêsu, cuộc đời nào bạn thích hơn? Bạn có dám chọn cuộc đời của Đức Yêsu không? Tại sao?
7. Đầu tư cho cuộc sống mai sau – Lm Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Hầu như mọi hoạt động, mọi nỗ lực của nhiều người đều quy về việc củng cố, đầu tư cho thân xác, cho cuộc đời tạm thời vắn vỏi nầy.
Cái tôi như một quả bong bóng mà cá nhân mỗi người cố thổi cho phồng lên tối đa.
Cái tôi như một trung tâm điểm mà tất cả mọi năng lực của bản thân đều quy về đó.
24 giờ mỗi ngày đều được người ta dành trọn vẹn cho thân xác: giờ để ăn, giờ để ngủ, giờ để giải trí vui chơi, giờ để làm việc nuôi thân xác...
168 giờ mỗi tuần, 720 giờ của mỗi tháng cũng được dành trọn cho thân xác.
8,766 giờ của mỗi năm cũng chỉ được dành trọn để thổi phồng thân xác dòn mỏng nầy cho đến lúc nó nổ tung ra như quả bong bóng đầy hơi.
Châm ngôn của người ta là: Tất cả cho thân xác. Tất cả cho cuộc sống đời nầy.
Người ta cố đầu tư xây dựng cho cuộc sống đời nầy như những con dã tràng đua nhau xe cát, tạo nên những đụn cát nhỏ bé trên bãi biển bao la để rồi một lát sau sóng biển sẽ xoá đi chẳng để lại vết tích gì.
Người ta chăm lo vun quén cho thân xác thật sung mãn như những đứa bé thi nhau thổi ra những chiếc bong bóng xà phòng trông thật long lanh và hấp dẫn... nhưng rồi... bụp, bụp, bụp..., bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, đua nhau nổ tan tành chẳng còn chi.
Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực... đều được dốc ra để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời nầy, để rồi kết cuộc đời người, theo như thi hào Nguyễn Du, chỉ còn là một nấm đất:
"Trăm năm còn có gì đâu?
"Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì!"
Tiếc thay, ngay nay đất đai khan hiếm, kết cục đời người không còn được một nấm cỏ khâu như xưa, nhưng chỉ là một lọ nhỏ chứa nắm tro tàn sau khi thiêu xác!
Thế là đúng như lời Chúa Giêsu dạy: "quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất"; và cho dù người ta có thu tóm "được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
* * *
Đầu tư hết vốn liếng và khả năng để bồi đắp thân xác và xây dựng cuộc sống đời nầy để rồi rốt cục chỉ còn là "một nấm cỏ khâu" hay đơn giản hơn, là "một lọ tro tàn" thì kiếp người đúng là một thảm kịch bi đát nhất. Trong lĩnh vực kinh tế, có ai dại dột đến nỗi đầu tư kiểu đó không??
Nhưng làm sao để tránh khỏi thảm kịch bi đát nầy? Có giải pháp nào làm cho đời sống triển nở tốt đẹp hơn không?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề nghị một giải pháp tốt. Người dạy chúng ta đầu tư đúng hướng để được hưởng lợi nhuận vững bền. Đó là đầu tư theo hướng tâm linh, mà điều kiện tiên quyết là hãy từ bỏ mình và vác thập giá.
"Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?"
Phanxicô Xavie lúc còn thanh xuân quyết dồn mọi nỗ lực để phụng sự thân xác, muốn đầu tư hết tài trí, sức lực để chiếm hữu địa vị xã hội và vinh hoa thế gian.
May thay, Thiên Chúa đã gửi đến cho anh người bạn tốt, đó là thánh Inhaxiô, một người bạn lớn tuổi học cùng trường. Inhaxiô thường dùng câu lời Chúa chúng ta nghe hôm nay để nhắc bảo Phanxicô Xavie: "Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?"
Anh sáng của Lời Chúa đã loé lên trong tâm hồn chàng trai đầy tham vọng trần thế và đã làm xoay chuyển cuộc đời anh. Phanxicô giã từ việc theo đuổi phù du ảo ảnh đời nầy (đó là từ bỏ mình) để dấn thân không mệt mỏi vào những vùng đất xa xôi (đó là chấp nhận vác thập giá) để chinh phục các linh hồn cho Thiên Chúa nên đã được hạnh phúc vinh hiển muôn đời.
"Từ bỏ chính mình" tức là đừng lấy thân xác làm mục tiêu cho mọi phấn đấu, mọi nỗ lực của ta; cụ thể là không dành toàn bộ công sức, thời gian, tài năng, trí tuệ để phụng sự thân xác.
"Vác thập giá mình" là chấp nhận khổ chế, cụ thể là khước từ những đòi hỏi vô độ của thân xác- sự khước từ nào cũng là một thập giá, đều để lại đau thương - để dành thời giờ và nghị lực cho sự phát triển tâm linh.
Chúa Giêsu đã đầu tư đời Người theo hướng đó và Người đã đạt tới vinh hiển khải hoàn. Hôm nay, Người muốn chúng ta đầu tư theo hướng Người đã đầu tư, bước đi theo con đường Người đã bước, để chúng ta được chung hưởng vinh hiển như Người.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho Lửa Thánh Linh soi chiếu tâm hồn để chúng con nhận ra rằng con người gồm cả hồn lẫn xác. Thân xác nầy nay còn mai mất và rốt cục chỉ còn là tro bụi thì chỉ cần đầu tư vừa phải. Còn linh hồn trường tồn bất diệt thì phải đầu tư cho hồn nhiều lần hơn để mai sau được hưởng vinh phúc muôn đời với Chúa. Amen.
8. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII Thường Niên Năm A nêu bật một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người, vì thế người Kitô hữu phải có một lập trường dứt khoát là không chạy theo xu hướng thời đại, không tìm cách rập khuôn theo thói đời.
Gr 20: 7-9
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a vẫn nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa, cho dù sứ điệp ấy ngược lại với bản tính của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông.
Rm 12: 1-2
Thánh Phao-lô cảnh giác các tín hữu Rô-ma sống giữa môi trường dân ngoại: “Anh em đừng có rập theo đời nầy, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn Thiên Chúa”.
Mt 16: 21-27
Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô không thể nào chấp nhận ý định của Thiên Chúa theo đó Đấng Mê-si-a phải trải qua đau khổ và sự chết. Nhưng Đức Giê-su khẳng định với thánh nhân: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)
Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất.
1. Bối cảnh lịch sử:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị thiêu hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai quan tâm đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe. Ông trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam. Đó thật sự là một bi kịch diễn ra trong lòng của vị ngôn sứ.
2. Bi kịch nội tâm:
Đoạn văn hôm nay trích từ “lời trần tình” hay lời tự sự của vị ngôn sứ ngỏ với Thiên Chúa. Đây là một trong những đoạn văn thống thiết nhất. Đoạn trích nầy nói lên tất cả tấm bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: lãnh nhận sứ vụ mà không thể thoái thác, phân biệt ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với ý muốn của phàm nhân, nhất mực trung thành loan báo sứ điệp của Thiên Chúa mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a phân trần với Thiên Chúa về ơn gọi bất khả kháng của mình:
“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ để họ nhạo báng con” (20: 7).
Vốn bản tính hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với con người của ông và những kỳ vọng của những người đương thời với ông. Vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị các giới lãnh đạo cả đời lẫn đạo cũng như dân chúng sỉ nhục và chế giễu suốt ngày:
“Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,
phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’
Vì lời Đức Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày” (20: 8)
Đó thật sự là một sự thử thách nặng nề mà ông phải gánh chịu vì sứ mạng của mình. Đôi lần ông muốn thoái thác sứ mạng ấy:
“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa” (20: 9a)
Ông đã phải ra sức cố kiềm nén lại, nhưng vô ích, không sao cưỡng kháng được:
“Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa cháy bừng trong tim,
ầm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được” (20: 9b)
Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc thần linh của nó, và đồng thời quyền năng của nó ngự trị tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về với Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.
BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)
Với chương 12, khởi sự phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu, Do thái hay dân ngoại). Trong phần nầy, thánh Phao-lô vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế thánh nhân khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích dẫn hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên cô động của thánh nhân: “phụng thờ đích thật” và “đổi mới tâm thần”.
1. Phụng thờ đích thật:
Trong lời khuyên thứ nhất: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”, thánh Phao-lô đối lập “của lễ sống động”, tức là cả một đời sống được dâng hiến cho Thiên Chúa, với “của lễ chết”, tức là những tế vật được hiến dâng thành hy lễ trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một đời phụng vụ, đó mới thật sự là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính bản thân mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết của thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lo ám chỉ đến cái chết gần kề của mình khi viết: “Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Thiên Chúa, thì tôi vui mừng và chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2: 17).
Dâng hiến chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Tỉnh từ Hy lạp “logikon”, được dịch “xứng hợp”, thuộc về từ ngữ tôn giáo Do thái hay Hy lạp, được dùng để đánh dấu một sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người. Tế tự đòi hỏi dấn thân toàn thể con người là cách thức phụng thờ Thiên Chúa xứng hợp nhất.
2. Đổi mới tâm thần:
Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới tâm thần: “Anh em đừng có rập theo đời này, những hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”. Việc đổi mới tâm thần đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: đừng rập khuôn theo đời nầy nhưng hãy cải biến con người mình.
Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến: vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách thích nghi với đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Kitô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma. Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.
TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)
Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Sau khi đã nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Chúa Giê-su loan báo cho chỉ một mình các môn đệ thân tín của Ngài cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài luôn liên kết viễn cảnh Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.
Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây: “Người phải…”, không phải là cái tất yếu của một định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Cuộc Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa).
1. Phản ứng của Thánh Phê-rô:
Chúng ta hiểu phản ứng của thánh Phê-rô. Thánh nhân quan niệm về Đấng Ki-tô (Mê-si-a) vinh quang và toàn thắng. Trong tư tưởng của thánh nhân, những viễn cảnh về một vị vua Ki-tô trần thế bách chiến bách thắng chắc chắn vẫn còn hiện diện.
Rất tế nhị, thánh Phê-rô kéo Thầy mình ra khỏi các bạn đồng môn và nói riêng với Thầy: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Chắc chắn thánh nhân lầm khi muốn lôi kéo cả Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của thánh nhân không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng gói trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chắc chắn chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ và phải chết.
2. Phản ứng của Đức Giê-su:
Tuy nhiên, thánh Phê-rô gặp phải một phản ứng quyết liệt của Chúa Giê-su. Trước đây, Chúa Giê-su đã phản kháng triệt để cơn cám dỗ của Xa-tan trong hoang địa khi nó ra sức thuyết phục Ngài thực hiện sứ mạng của một Đấng Ki-tô đầy quyền năng chứ không một Người Tôi Trung chịu đau khổ: “Xa-tan, hãy xéo đi”, giờ đây Ngài cũng đáp lại thánh Phê-rô cũng tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy! Anh cản lối Thầy”. Từ “Xa-tan” theo tiếng Híp-ri có nghĩa “kẻ cản lối”, tự nguồn gốc là một danh từ chung.
Với diễn ngữ: “lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi vị tông đồ, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống trong tư thế của người môn đệ chứ không tìm cách cản lối Thầy. Ngài muốn thánh Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, cuộc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân trọn vẹn vào trong cùng một vận mệnh với Ngài. Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Ngài cũng nói với họ một cách như thế: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
2. Theo Đức Giê-su:
Sau nầy, mỗi lần gợi lên cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết số phận của các môn đệ vào với vận mệnh Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.
Khi sử dụng hình ảnh “thập giá”, không phải Đức Giê-su không gợi lên ở nơi các môn đệ của Ngài tất cả ý nghĩa của từ nầy sao? Trước đây, thánh Mát-thêu đã gợi lên hình ảnh thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Hình phạt đóng đinh vào thập giá được chính quyền Rô-ma hành hình tập thể đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem rồi. Thánh Lu-ca, trong một bản văn đối chiếu, đã thêm diễn ngữ chỉ thời gian: “hằng ngày” vào diễn ngữ “vác thập giá” đem lại cho lời công bố của Đức Giê-su nghĩa bóng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9: 23), nghĩa là chấp nhận mọi gian nan khốn khó xảy ra hằng ngày trong cuộc đời.
3. Bài học của mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh:
Lời khẳng định của Đức Giê-su: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang sâu đậm như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ý nghĩa của lời công bố này và ghi khắc lời công bố này vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Theo bối cảnh của những lần báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không bao giờ là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống, bởi vì cuộc Tử Nạn và Phục Sinh là kế hoạch Chúa Cha hoạch định cho Con của Ngài để cứu độ muôn người, như chính Đức Giê-su công bố: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là đảm bảo cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Nước Trời.
4. Đối lập giữa sự sống trần thế với sự sống Nước Trời:
Lời công bố của Đức Giê-su: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” để lại sự phân vân cho người đọc, bởi vì nó diễn tả điều quá thường tình. Tin Mừng không quen với những kiểu nói tầm thường như vậy. Có vấn đề về ngôn ngữ ở đây. Chữ “mạng sống” được dịch từ tiếng Hy lạp: “psyché” có nghĩa “linh hồn”, như cách dịch truyền thống: “Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất linh hồn, thì có lợi gì?”. Bản dịch hiện nay chọn từ “mạng sống” thay cho “linh hồn” bởi vì chữ “linh hồn” gợi lên nhị nguyên thuyết Hy-lạp, xa lạ với tư tưởng Kinh Thánh. Thực ra, Đức Giê-su đã sử dụng tiếng “sinh khí” như trong sách Sáng Thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh linh” (St 2: 7). Rõ ràng ở đây Đức Giê-su đối nghịch việc sở hữu của cải vật chất – mà diễn ngữ “người ta được cả thế gian” gói trọn tất cả ý nghĩa nầy – với việc thiệt mất của cải tinh thần, thiệt mất “mạng sống”, được hiểu theo nghĩa mạnh: “sự sống đời đời”. Vì thế, bản dịch sát ý nghĩa nhất phải là: “Vì nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất ơn cứu độ của mình, thì có lợi gì?”. Câu hỏi mà Đức Giê-su nêu lên: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”, cũng diễn tả theo cùng một tư tưởng: “ơn cứu độ” đời đời, vô giá. Vả lại, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày Quang Lâm của Ngài: “Bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.
Vì thế, để sở hữu Sự Sống Đích Thật, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ - và sau họ, cho tất cả các Kitô hữu không gì khác ngoài việc noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời khẳng định nghiêm túc, không hoa mỹ, nhưng chan chứa niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.
9. Mất đi để được lại – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trên Internet có kể câu chuyện như sau:
Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất tiêng líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô hay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tar a cô mới bang hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong long. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô , hót vang nhữngg giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thạt chặt. Trái lại, để giữ mãi ự yêu thương thì ta phải ân cần trao hco cuộc tình một đôi cánh tự do.
***
Cô gái chỉ “được lại” niềm vui khi cô bằng lòng chịu “mất đi” chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.
Bài tin mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25). Cần phải “Mất đi” để “được lại”.
Người Kitô hữu chỉ thực sự thật hạnh phúc khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để được lại cái trường tồn.
Người kito hữu chỉ thực sự khôn ngoan khi sẵn long “mất đi” của cải phù vân đê “được lại” gia tài vĩnh cửu, “mất đi” sự sống hay chết để “được lại” sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải “mất đi” và cái gì sẽ “được lại” đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn hơn.
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân thiết nhất, yêu quí nhất; nhưng cai mình dày công kiếm tìn, theo đuổi.
Đâu pahi dễ dàng, để mất đi những thú vui, khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo, tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về “cái được”, “cái mất” cũng là để khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghĩ chúng ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). “Theo thầy” là “phải từ bỏ chính mình” hẳn là không dễ dàng. “Theo Thầy là “vác thập giá mình mà theo” lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì ngày sau đó, Đếc Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16,27).
Các tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Teresa đã từ bỏ cả tuổi thanh xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustino đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng. Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
***
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con biết cái gì cần phải “mất đi”, cái gì cần phải “từ bỏ”, để chúng con được nhẹ nhàng bước theo Chúa trọn con đường mà Chúa muốn chúng con đi.
Xin cho chúng con trung thành theo Chúa đến cùng, cho dù là chông gai, đau khổ, vì chỉ có Chúa mới là cùng đích cuộc đời chúng con. Amen.
10. Trong họa có phúc - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Được và mất là hai điều luôn song hành với nhau. Đây là chân lý của cuộc sống con người. Trong cái được luôn tiềm tàng cái mất; và trong cái mất luôn mở ra cơ hội để được. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ học cách chấp nhận để bình an hơn khi mất và học cách trân trọng những cái mình đang được.
Trong đời sống đức tin giữa đón nhận và từ bỏ luôn song hành. Đón nhận theo ý Chúa thì phải từ bỏ danh lợi thú trần gian. Giữa đón nhận và từ bỏ không phải lúc nào cũng dễ dàng chọn lựa. Vì nhận cái này phải bỏ cái kia luôn làm cho con người tiếc nuối. Thế nên, cần phải biết học cách khi nào đón nhận, khi nào từ bỏ để được bình an. Đón nhận hay từ bỏ chỉ bình an khi làm theo thánh ý Chúa mà thôi.
Có lẽ chúng ta đều từng đọc câu chuyện “tái ông thất mã”. Câu chuyện như sau:
Xưa có một ông già sống ở vùng biên giới phía bắc. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Một hôm ông phát hiện ra rằng con ngựa của ông đã chạy mất sang nước Hồ láng giềng. Hàng xóm cảm thấy tiếc cho ông nhưng ông già nói, “biết đâu nó lại là mang đến một điều phúc?”
Vài tháng sau, con ngựa đã mất tích của ông đột nhiên quay trở về cùng với một con ngựa quý nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông vì điều may đó. Nhưng ông nói “biết đâu nó lại mang đến tai họa?”
Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, và rồi một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và bị què. Hàng xóm đến an ủi ông nhưng ông lại trả lời “biết đâu nó lại mang đến điều phúc?”
Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang xâm lược, và tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân ra trận – kết quả là cứ 10 người đi thì 9 người tử trận. Con trai ông bị què nên được ở nhà và thoát chết.
Nhận có thể trở thành họa, và rồi mất đó lại có thể chuyển thành phúc. Sự chuyển hóa này là vô tận và sự bí ẩn của nó mãi mãi là điều huyền bí đối với nhân loại. Tuy nhiên trong đức tin thì mọi sự cần phải phó thác nơi Chúa. Thiên Chúa có thể rút ra một điều tốt từ cái xấu. Anh em nhà Gia-cóp đã bán em sang Ai-cập là điều xấu. Thế mà, Thiên Chúa lại dùng điều ấy để cứu dòng tộc israel khi cho Giuse làm quan lớn trong triều đình Ai cập.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thanh. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Đôi khi chúng ta vẫn tự hỏi: tôi từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa thì tôi được gì? Tôi bước đi theo con đường của Chúa tôi sẽ được gì?
Thực ra, từ bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa không đương nhiên là nghèo khó mà chắc chắn là được Chúa chúc phúc đời này và cả đời sau. Vì ý Chúa luôn mời gọi con người hoàn thiện mình và sống có ích cho tha nhân. Vì ý của Chúa luôn mang lại niềm vui của tâm hồn an bình, thanh thản. Ý Chúa sẽ giúp chúng ta sống hạnh phúc hơn trong cuộc đời của mình. Chính sự bình an, hạnh phúc mới là giá trị đích thực mà con người phải tìm kiếm. Nó có giá trị cao hơn hẳn những danh lợi thú mà lại không có bình an.
Xin Chúa giúp chúng ta biết can đảm từ bỏ con đường dễ dãi của bản thân để đi theo tiếng nói của Chúa dạy bảo qua lời Chúa và qua tiếng lương tâm. Xin đừng vì những danh lợi thú mà đánh mất hạnh phúc đời này và đời sau. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam