Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 66

Tổng truy cập: 1440910

LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG

LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG

 

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Trường sinh bất tử là một ước mơ của con người mọi thời. Các bậc vua chúa, những người lắm tiền, nhiều của xưa nay vẫn tìm mọi cách thế, nhiều phương dược để mong được cải lão hoàn đồng hay kéo dài tuổi thọ nhưng đã hoài công. Dù biết rằng ít có ai can đảm đối diện với sự chết, nhưng rồi người ta vẫn phải chân nhận sự thật là kiếp người đã có sinh thời có tử. Chúng ta không lạ gì chuyện người Do Thái xưa kia cảm thấy chướng tai khi nghe Chúa Giêsu nói về lương thực trường sinh, vì Abraham đã chết và các ngôn sứ cũng đã chết (x.Ga 8,52). Vậy thế nào là trường sinh?

Là Kitô hữu, chúng ta tin nhận rằng sự sống đời đời là được hiệp thông với Thiên Chúa. Ai ở trong Thiên Chúa, ai có Chúa ở cùng thì đó là người đang sống, nghĩa là có sự sống như thuở ban đầu tạo dựng. Khi tội lỗi xuất hiện thì mới có sự chết. Ngày nay ít có ai hiểu sự chết về mặt thể lý, mà sự chết ở đây có nghĩa là tình trạng chối từ Thiên Chúa, cắt đứt sự hiệp thông với Người. Đến thế gian, sứ vụ của chính yếu của Chúa Kitô chính là nối kết mối dây hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người vốn đã bị cắt lìa ấy.

Thiên Chúa đã tự nguyện đi bước trước trong việc trao ban chính mình qua Người Con Một nhập thể làm người. Và Chúa Kitô đã thể hiện việc trao ban ấy cách cụ thể và trọn vẹn qua bí tích Thánh Thể. Hãy cầm lấy mà ăn…Hãy cầm lấy mà uống…nghĩa là hãy đón nhận chính Đấng vốn là Thiên Chúa nhưng đã đi bước trước để nối lại mối dây giao hòa, thông hiệp. Được giao hòa với Thiên Chúa thì nhân loại chúng ta được hiệp thông với Người và sự sống đích thực sẽ lại ban cho chúng ta. Có sự sống trong mình thì đương nhiên sẽ không còn ở trong bóng tối sự chết và như thế tội lỗi đã được thứ tha.

Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã so sánh cách cụ thể rằng xưa máu con dê, con bò được rảy trên dân còn có sức thanh tẩy những người nhiễm uế thì huống là máu cực thánh châu báu Chúa Kitô. “Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9,14). Chính Chúa Kitô đã minh nhiên phán trong đêm Tiệc ly: Máu Người là máu giao ước mới, đổ ra cho anh em và muôn người đựơc tha tội (x.Mt 26,28). Được tha tội là được hiệp thông với Thiên Chúa và đương nhiên là có sự sống đời đời.

Để có sự sống đời đời, Chúa Kitô cũng đã từng mời gọi là hãy tin vào Người là Đấng mà Thiên Chúa sai đến (x.Ga 6,29). Và Người khẳng định: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ (Ga 6,35). Đón nhận Chúa Kitô, đặc biệt trong Bí Tích Thánh Thể, đòi hỏi phải có niềm tin và tiếp nhận Thánh Thể cũng là cách thế tuyên xưng đức tin. “Đây là mầu nhiệm đức tin”. Câu xướng sau khi truyền phép khẳng định chân lý này. Thánh Tông đồ dân ngoại đã phiền trách một số tín hữu thành Côrintô, vì say xỉn, vì chia rẽ, nên đã không có thái độ đức tin mỗi khi tham dự Lễ Bẻ Bánh, và vì thế sẽ chẳng nhận được ơn ích mà trái lại còn gánh lấy án phạt (x.1Cor 11,17-33).

Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật lời khẳng định của Chúa Kitô: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17; x. Mt 9,13; Lc5,32). Trong phần hiệp Lễ, các tín hữu thành khẩn: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con…”, và còn thú nhận: “con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con…”. Những lời này nhắc nhủ đoàn tín hữu về thân phận tội lỗi và bất xứng của mình. Chỉ nhờ quyền năng và tình yêu của Đấng Cứu Độ, qua việc Người trao ban chính Người thì chúng ta mới nên xứng đáng, tức là nên lành mạnh. Đọc Tin Mừng, đặc biệt qua câu chuyên của Lêvi, của Giakêu, Mađalêna, chúng ta thấy được sự thật này: không phải vì chúng ta xứng đáng nên Chúa mới ngự đến, nhưng nhờ Chúa đoái thương ngự đến nên chúng ta mới nên xứng đáng.

“Hãy cầm lấy mà ăn! Hãy cầm lấy mà uống!” Chúa đã tự nguyện đến với chúng ta trước, nhưng phần chúng ta cũng cần phải biết tiếp đón Người thì hiệu quả mới phát sinh. Và thái độ tiếp đón Chúa Kitô đẹp lòng Người nhất, đó là khiêm nhu nhìn nhận sự yếu đuối, tội lỗi của mình và tin tưởng, phó thác vào tình yêu và quyền năng của Người. Được hiệp thông với Chúa Kitô Thánh Thể là được thông phần sự sống đời đời. Cho dù sự thông phần ấy có giới hạn trong thời gian hình bánh và rượu còn nguyên thể dạng trong lòng ta, nhưng đó chính là dấu chỉ bảo đảm cho sự trường sinh sau này. Được nếm trước chút thực tại vĩnh cửu là động lực giúp ta vững bước tiến về quê trời. Việc trao “của ăn đàng” cho người gặp cơn nguy tử hay đang hấp hối giúp ta thêm xác tín điều này.

Bí Tích Thánh Thể là bí tích biệt loại, vì dấu chỉ cũng là thực tại. Thánh Thể vừa là ân ban vừa là chính nguồn của mọi ân lộc. Trước mầu nhiệm cao cả, khôn dò này, mọi diễn suy chỉ là nước bỏ biển. Không gì hơn, hãy thẳm sâu tôn thờ, đón nhận Mình Máu châu báu của Đấng Cứu độ trong sự khiêm nhu và tín thác.

 

62.Danh Ngài Là Thương Xót

(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương, ĐCV. Vinh Thanh - Nghệ An)

Thánh Gioan định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8). Tình yêu đó đã trở thành thương xót khi Thiên Chúa tạo dựng và cứu độ loài người. Xuyên qua lịch sử, Thiên Chúa mạc khải Người là vị Thiên Chúa thương xót qua danh thánh Giavê, qua danh thánh Giêsu và qua Giáo Hội.

1- “Giavê,” vị Thiên Chúa thương xót

Cựu Ước đã nhiều lần ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ với vị Thiên Chúa thương xót, đặc biệt là kinh nghiệm của Môsê gặp gỡ vị Thiên Chúa tại núi Sinai. Sách Xuất Hành kể lại cuộc đàm đạo giữa Môsê với Thiên Chúa mà ông chưa biết tên. Ông hỏi tên Người là gì và Thiên Chúa mạc khải cho ông biết tên Người là Giavê, Đấng Tự Hiện Hữu, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápbraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp” (x. Xh 3,1-15).

Trong tiếng Do Thái, “Giavê” diễn tả vị Thiên Chúa sống động và hiện diện bên cạnh con người để giải phóng họ; đó là Thiên Chúa gần gũi và sẵn sàng đáp cứu con người gặp cảnh khó khăn. Khi Thiên Chúa mạc khải tên chính là lúc mạc khải bản tính Người. Đó là vị “Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6).

Lịch sử cứu độ là lịch sử của lòng thương xót mà Thiên Chúa thể hiện đối với con người, hơn là lịch sử của một vị Thiên Chúa nghiêm khắc, thích phạt và hủy diệt loài người.

Vì Thiên Chúa thương xót nên Người luôn sẵn sàng tha thứ mọi sự xúc phạm và tội lỗi của loài người. Thánh Vịnh gia nói: “Người tha thứ cho tất cả tội lỗi của bạn, Người chữa lành mọi bệnh tật của bạn, Người cứu chuộc bạn khỏi hố sâu, Người trao vương niệm cho bạn với tình yêu kiên định và lòng thương xót” (Tv 103,3-4).

Như thế, trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình là Đấng giàu thương xót. Đó chính là dung mạo đích thực của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta.

2- “Giêsu,” hiện thân lòng thương xót

Với mầu nhiệm nhập thể làm người, lòng thương xót của Thiên Chúa có một dung mạo cụ thể và rõ ràng qua dung mạo của Đức Kitô.

Bởi thế, bắt đầu Tông Chiếu Misericordiae Vultus, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có những lời rất ý nghĩa: “Chúa Giêsu Kitô chính là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Mầu nhiệm Kitô giáo được tóm tắt đầy đủ trong mệnh đề này. Lòng thương xót đã trở nên sống động và hữu hình nơi Ðức Giêsu thành Nadarét, và đạt đến đỉnh cao nơi Người. Chúa Cha, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2,4)… đã sai Người Con duy nhất đến thế gian… để mạc khải cho chúng ta biết trọn vẹn tình yêu của Người. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (Ga 14,9). Đức Giêsu Nadarét đã mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và bằng cả bản thân Người (Misericordiae Vultus, số 1).

Trong suốt cuộc đời tại thế, Đức Giêsu xuất hiện như là sứ giả của lòng thương xót Chúa Cha: khi thấy đám đông dân chúng bơ vơ không người chăn dắt, Người chạnh lòng thương họ cách sâu xa (x. Mt 9,36); khi thấy những người đau yếu bệnh hoạn tật nguyền, bị quỷ ám, Người chữa lành cho họ (x. Mt 14,14 tt; Mc 5,19); khi thấy những người tội lỗi cần hoán cải, Người chủ động đến gặp gỡ và giúp họ trở về như trường hợp của Mátthêu của Giakêu hay của Mađalêna v.v...

Tuy nhiên, nghĩa cử thương xót ấy đạt tới viên mãn nơi biến cố Chết và Phục Sinh của Đức Kitô. Tại đây, Con Thiên Chúa đã tự hạ mình cho đến cùng, trở thành người Tôi Tớ đau khổ, chịu chết trên thập giá, đổ máu đào để cứu độ loài người. Nơi thập giá, Người Mạc khải lòng thương xót Thiên Chúa một cách tuyệt vời nhất: Thiên Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Thiên Chúa chịu chết thay cho chúng ta để chúng ta được sống dồi dào. Và sự phục sinh của Đức Kitô là chiến thắng của lòng thương xót Chúa trên tội lỗi và oán thù.

Như thế, Đức Giêsu chính là hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa. Người đến không để hủy diệt nhưng để cứu chữa, và tìm lại những gì đã mất.

3- Điều kiện để đón nhận lòng thương xót

Điều kiện 1: nhận biết mình có tội và cần đến lòng thương xót: để đón nhận ơn tha thứ và thương xót, chúng ta phải thực sự có lòng sám hối. Nhìn nhận mình có tội và xin Chúa tha thứ. Đức Giáo Hoàng Phanxicô khuyên: “Phải mở lòng với lòng thương xót, mở tâm hồn và bản thân ra, để Chúa Giêsu đến với mình bằng cách đi xưng tội trong Đức tin.”

Tất cả chúng ta đều là tội nhân cần đến lòng thương xót Chúa, chúng hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội” (Lc 18,13). Chỉ cần chúng ta hoán cải, Thiên Chúa sẽ sẵn sàng tha thứ cho chúng ta.

Điều kiện 2: Hoán cải và thay đổi đời sống: Thiên Chúa hay thương xót nhưng không vì thế mà chúng ta muốn làm gì thì làm, sống thế nào thì sống. Để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta phải sám hối và hoán cải đời sống mình.

Nếu thiếu hoán cải đời sống, chúng ta biến ân sủng quý giá của Thiên Chúa thành một thứ ân sủng “rẻ tiền.” Như Đức Hồng Y Kasper cảnh báo: “Sự nguy hiểm của những việc như thế là biến ơn thánh quí báu của Thiên Chúa, vốn phải mua bằng giá máu của Người trên thập giá, thành thứ ơn phúc rẻ tiền, biến ơn thánh thành món hàng bán rẻ ở tầng hầm.”

4- Nơi để đón nhận lòng thương xót

Nơi 1: Bí tích Hòa Giải là tòa của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến đó và xưng tội. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đi xưng tội một cách công khai dù ngài là giáo hoàng. Ngài làm gương cho chúng ta.

Nơi 2: Thánh Thể, nguồn mạch của lòng thương xót Chúa. Tại đây, Đức Giêsu trở thành lương thực cho chúng ta. Chúa ban sự sống thần linh cho chúng ta. Hãy đến tham dự Thánh Lễ hằng ngày và hằng tuần. Nơi đó, chúng ta sẽ gặp lòng thương xót Chúa.

5- Kitô hữu, tên của lòng thương xót

Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng thương xót như Chúa Cha” (Lc 6,36). Nếu tên của Chúa là thương xót thì tên của chúng ta cũng phải phản ánh lòng thương xót Chúa. Chúng ta được mời gọi hãy sống và thực thi lòng thương xót Chúa trong môi trường sống của mình. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta thực thi lòng thương xót đối với tha nhân bằng thái độ tôn trọng, cảm thương, bao dung và chia sẻ đối với những người xung quanh. Amen!

 

home Mục lục Lưu trữ