Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 94

Tổng truy cập: 1445465

XIN CHO ĐƯƠCVJ BIẾN ĐỔI NHỜ THÁNH THẦN

Xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật II Mùa Chay, Phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm một mầu nhiệm vĩ đại, đó là biến cố biến hình của Chúa Giêsu.

Hôm nay, thánh sử Matthêu nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông. Và đây Môisen cùng với Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Những câu hỏi được đặt ra: tại sao Chúa Giêsu biến hình? Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Ngài đưa lên núi? Tại sao Môise và Êli lại có mặt lúc Chúa Giêsu biến hình?

Tại sao Chúa Giêsu biến hình?

Chúng ta biết rằng, sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no lần thứ nhất (x.Mt 14, 13-21) và chừng bốn ngàn người lần thứ hai không kể đàn bà con trẻ (x.Mt 15, 32-39). Các Tông đồ chưng hửng về tương lai tươi sáng, dân chúng thì mãn nguyện về Đấng Thiên Sai. Khi thăm dò ý kiến chung (x.Mt 16, 13-20), Chúa Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ nhất (x.Mt 16, 21-23): “Ngài phải đi Yêrusalem và chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục, và bị giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Như thế, Ngài đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Ngài đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh sáng vinh quang. Nhưng các ông đâu có chấp nhận, khi nghe vậy Phêrô liền can ngăn: “Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!” (Mt 16,23). Vì thế, để củng cố niềm tin các Tông đồ, đồng thời giúp các ông sẵn sàng chấp nhận và hiệp thông với cuộc khổ nạn của Ngài, nên Ngài đã biến hình sáu ngày sau đó (x. Mt 17, 1-9). Nhưng vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi cao (x.Mt 17, 4). Và như thế là Phêrô đã muốn biến cái tạm bợ trở thành vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với thập giá và khổ đau.

Tại sao Chúa Giêsu lại gọi Phêrô, Giacôbê và em ông là Gioan? Phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Về vấn đề này, thánh Gioan Kim Khẩu nói: Vì Phêrô đã từng tuyên xưng Chúa Giêsu là “Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16) và được Ngài trao cho chìa khóa Nước Trời “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời” (Mt 16, 19). Hơn nữa cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17)

Phần Gioan, vì Gioan đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là (người môn đệ Chúa yêu) (Ga 21, 20). Còn Giacôbê, ông đã cùng với em mình khi Chúa Giêsu hỏi:  “Các ngươi có thể uống chén Ta sắp uống không?” Họ nói với Ngài: “Thưa được” và ông đã giữ lời, đã đi đến cùng của lời cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về con người của Ngài. Có người cho rằng Ngài là Đấng Kitô, là Môisen hoặc Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mt 16,14). Chúng ta biết rằng, người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu là người vi phạm Luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang Thiên Chúa, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa chứ không thuộc về Chúa Giêsu. Họ nói: “Con người ấy không bởi Thiên Chúa được, vì hắn không giữ Hưu lễ!” (Ga 9, 16) Và chỗ khác họ nói: “Không phải vì một việc trọn hảo mà chúng tôi ném đá ông; nhưng vì một lời phạm thượng! Ông là một người phàm mà dám cho mình là Thiên Chúa” ( Ga 10, 33). Chúa Giêsu muốn cho mọi người biết, vì nghen tương mà họ gán cho Ngài hai tội danh ấy. Nên khi biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Ngài muốn khẳng định rằng, Ngài còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban Lề Luật cho dân chúng, nên người Do Thái không thể nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm Lề Luật. Còn Êlia xuất hiện với Chúa Giêsu, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Ngài biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Tin Mừng cũng khai mở cho chúng ta biết, Chúa Giêsu muốn cho các Tông đồ thấy vinh quang của thập giá, củng cổ niềm tin của Phêrô và các môn đệ trước cuộc khổ nạn sắp đến, giúp họ thêm can đảm. Vì Môisen, Êlia cùng với Chúa Giêsu, cả ba không im lặng, nhưng: “đàm đạo với Người…” (Mt 17 9, 3), về khổ nạn và thập giá. Đó chính là điều mà các tiên tri hay nói đến. Chúa Giêsu cũng muốn các Tông đồ mình noi theo Môisen và Êlia về những nhân đức trổi vượt trong quá khứ, và Ngài cũng muốn rằng: “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, phần Phêrô ông cũng đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Rút ra bài học

Đối với chúng ta ngày hôm nay, biến cố Chúa biến hình loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm Mầu Nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa trong lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn trong Mùa Chay này biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Chúa. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa trao mới được theo Chúa là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, để được hưởng vinh quang Phục sinh với Ngài.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng để nêu gương cho chúng ta, giúp chúng ta cũng biết biến đổi: từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của Thập Giá Chúa và xin ban ơn để chúng con biết sống Mầu Nhiệm Thập Giá Chúa trong cuộc đời chúng con, hầu mai ngày được sống lại với Chúa trong vinh quang với. Amen.

 

  1. Hãy vâng nghe lời ngài

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Truyền thống giáo dục trong mọi nền văn hóa đều nhấn mạnh đến sự vâng lời, trong gia đình con cái phải vâng lời cha mẹ, học trò vâng lời thày cô, người dưới vâng lời bề trên. Có người hỏi tại sao phải vâng lời cha mẹ và người trên? Thưa vì cha mẹ là người sinh ra ta và là người yêu thương ta và nhiều kinh nghiệm hơn ta. Đặc biệt với văn hóa Á đông việc vâng lời ông bà cha mẹ thày cô được nâng lên thành Đạo. Do đó một người con ngoan, thảo hiếu là người con biết vâng lời và làm theo lời dạy bảo của cha mẹ, bậc cha mẹ thì cảm thấy vui và hạnh phúc khi có những đứa con biết ngoan ngoãn vâng lời, và hãnh diện khoe với mọi người về sự thảo hiếu của con mình.

Cũng trong truyền thống văn hóa Á đông này, hôm nay có thể nói, Thiên Chúa tự hào về Người Con của mình là Đức Giêsu, Ngài đã “khoe” với mọi người: Đây là con ta rất yêu dấu, đẹp lòng ta, các ngươi hãy nghe lời Người.

Thưa quý OBACE, bước vào Chúa nhật thứ hai mùa chay, Lời Chúa mời gọi chúng ta học nơi Chúa Giêsu, đó là vâng nghe lời Thiên Chúa và trở thành người con làm đẹp lòng Thiên Chúa, có thái độ của một trẻ thơ, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng nghe lời Đức Giêsu dạy. Nghe là thái độ của một người con đối với lời dạy bảo của cha mẹ, của học trò đối với thày cô, nhưng nghe cũng có nhiều cấp độ, vì có khi tai chúng ta cố tình đóng lại thì chúng ta không thể đón nhận được âm thanh, hoặc có thể có nghe, nhưng không chú tâm, không hiểu, nên lời nói không đi vào được trong tâm hồn. Hôm nay Chúa muốn chúng ta có một thái độ chú tâm hơn đó là lắng nghe và tích cực hơn nữa, đó là biết vâng nghe lời Chúa. Lắng nghe là chú ý để nghe, để hồn tĩnh lặng đón nhận, và vâng nghe, là nghe và đón nhận trong thái độ khiêm tốn, tin tưởng và thực hành như một em bé vâng nghe theo lời chỉ bảo của cha mẹ.

Vâng nghe lời Chúa, đòi phải có một thái độ sẵn sàng, phó thác và từ bỏ ý riêng của mình, hoàn toàn tin tưởng vào lời của Chúa, và không cần biết lý do tại sao, vâng nghe là thái độ chấp nhận, thực hành, dù có nhiều điều mình chưa thể hiểu hết. Bài đọc một đã cho chúng ta một tấm gương về sự vâng nghe Lời Chúa của ông Abraham. Khi đó Abraham là một người giàu có, nhiều của cải đất đai và súc vật, thế mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với ông: Người hãy bỏ xứ sở, họ hàng nhà cha ngươi, mà đi tới đất ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, và sẽ chúc phúc cho ngươi. Với một lời mời gọi dường như mơ hồ như thế, vậy mà Abraham đã dám bỏ lại tất cả để lên đường đi theo lời chỉ dạy của Chúa, ông chấp nhận bỏ lại đàng sau ruộng đất, nhà cửa, cha mẹ, anh em, để đi đến một miền đất vô định chưa biết ở đâu, tất cà còn ở thì tương lai, vậy mà  ông cũng không hỏi Chúa một câu nào, chỉ biết vâng theo để lên đường. Chính từ thái độ ngoan ngoãn vâng lời như thế mà Thiên Chúa chúc phúc cho ông, trở nên bạn hữu với ông, và còn bênh vực ông: Ta chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi, và nguyền rủa những ai nhục mạ ngươi.

Trong Tin Mừng hôm nay, trước khi bước vào cuộc tử nạn thập giá, để củng cố đức tin cho các tông đồ, Chúa Giêsu cho các môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến giây phút hiển dung, chứng kiến gương mặt thánh thiện sáng ngời của mình để động viên tinh thần và củng cố lòng tin cho các ông. Các tông đồ hết sức ngỡ ngàng, đang khi còn ngây ngất với vinh quang ấy, thì có tiếng Thiên Chúa Cha, nói với các ông từ đám mây: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài. Thiên Chúa Cha hài lòng về sự vâng phục của Đức Giêsu, vì Ngài đã không chọn theo ý riêng mình, mà chọn sự vâng phục Thiên Chúa để đón nhận con đường cứu độ bằng thập giá. Còn các tông đồ, mặc dù đã đi theo Chúa nhiều năm, nhưng các ông vẫn chọn lựa theo kiểu thế gian, tìm kiếm quyền lực theo kiểu trần gian, chưa sẵn sàng để chấp nhận một Đấng Mêsia phải chịu đau khổ nhục nhã. Trong khi đó Chúa Giêsu cũng đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa Cha dẫn dắt và định liệu cho cuộc đời mình, dù có những lúc Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ để tìm một con đường riêng cho mình, như chúa nhật tuần trước chúng ta đã suy niệm, nhưng cuối cùng Ngài đã dùng Lời của Chúa, lời Kinh Thánh để chống trả lại cám dỗ đó, và sẵn sàng bước theo con đường của Chúa Cha đã định.

Các tông đồ khi chứng kiến vinh quang của Chúa, thì các tông đồ đã hạnh phúc ngây ngất, và muốn kéo dài tình trạng hạnh phúc này và quên đi thực tế trước mắt, nên các ông đã xin dựng ba lều để được ở lại trên núi, trốn tránh những thực tại của cuộc sống: Nếu Thày muốn, chúng con xin dựng ba lều. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho các tông đồ, qua biến cố này được thêm lòng tin để đón nhận cuộc khổ hình sắp tới mà chúa sẽ bước vào. Cuộc khổ hình này chắc chắn rất kinh khủng và vượt quá khả năng tưởng tượng của các ông, và vì thế các ông cần phải có một thái độ sẵn sàng, vâng phục. Chính vì thế có tiếng Chúa Cha từ trời nói với các ông: Hãy vâng nghe lời Người. Qua lời này, Chúa Cha một lần nữa muốn các tông đồ tin và đón nhận lời của Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa và là Đấng Mesia cứu thế, như con cái nghe lời cha mẹ, nhưng học trò vâng lời thày.

Từ trên núi xuống, Đức Giêsu bắt đầu nói với các ông về việc Con Người sẽ bị khổ hình và sẽ từ cõi chết sống lại. Chắc chắn lúc đó các tông đồ chưa hiểu hết những điều Chúa nói trước về cuộc khổ nạn, phần vì các ông không muốn nghe, phần vì dù có nghe, nhưng không muốn chấp nhận, để đón nhận và vâng nghe lời Đức Giêsu, để loan báo về Đức Giêsu và cuộc khổ nạn của Người, thì cần phải dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Cũng giống như ngày xưa Chúa đã gọi Apraham và làm cho ông trở thành cha của một dân tộc đông đúc, giống như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng nghe theo lời của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại bằng con đường thập giá, thì chúng ta cũng được kêu gọi để trở thành dân thánh của Thiên Chúa, trở nên những người thuộc về Đức Kitô, làm theo gương của Đức Giêsu và lời dạy của Ngài.

Thưa quý OBACE, Vâng nghe lời Chúa luôn là một thách thức cho chúng ta, vì nhiều khi Lời Chúa không như ý chúng ta muốn, có khi còn ngược lại với ý của chúng ta, có khi Lời Chúa đụng chạm đến những góc tối, những vết thương trong tâm hồn, khiến chúng ta sợ không dám để cho Lời Chúa đụng vào. Lời Đức Giêsu luôn đòi chúng ta từ bỏ và hy sinh, trong khi cuộc sống và xã hội lại khuyến khích chúng ta chạy theo sự thỏa mãn dễ dãi, chạy theo tiền bạc và danh vọng. Trong khi xã hội cổ võ lối sống tự do hưởng thụ, thì Chúa lại đòi chúng ta vác thập giá mình hằng ngày, vì thế mà chúng ta luôn bị giằng co, và đòi chúng ta phải quyết định chọn lựa.

Trong bổn phận làm vợ làm chồng, làm cha mẹ, sinh sản và giáo dục con cái, hãy vâng nghe Lời Chúa và các giáo huấn của Giáo Hội, phó thác tương lai của mình và gia đình cho Chúa để Chúa dẫn dắt, hãy vâng nghe Lời Chúa để làm chuẩn mực cho đời sống và cho công việc của mình, đừng để sự gian dối, tham lam điều khiển cuộc sống của mình, đừng để cho sự lười biếng bê tha rượu chè, cờ bạc làm trì trệ cuộc sống của gia đình, gây ra bất hòa bất hạnh cho nhau.

Cuộc sống sung túc, tiện nghi ngày hôm nay cũng đang là một cản trở khiến nhiều bạn trẻ khó có thể nghe được Lời Chúa, những âm thanh và cuộc sống ồn ào náo nhiệt khiến cho nhiều người không còn một khoảng lặng nào trong ngày để nhìn lại cuộc sống mình, những hấp dẫn và mời chào của xã hội khiến cho nhiều người từ chối Lời của Chúa, không chấp nhận thập giá và không dám vâng theo,… tất cả những điều đó đang là thách thức cho các bạn trẻ Công giáo trong đời sống đức tin.

Đức Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc vâng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, xin Mẹ cũng giúp mỗi chúng ta biết noi gương Mẹ, tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, sống xứng đáng là những người con ngoan, thảo hiếu, vâng lời Thiên Chúa. Amen.

 

  1. Vinh quang Thiên Chúa

Anh chị em thân mến,

Ở ngay giữa mùa buồn (Mùa Chay), Hội thánh lại cho chúng ta nghe một câu chuyện vui mang lại niềm hi vọng cho người Kitô hữu: Câu chuyện Chúa biến hình trên núi Tabor. Vậy đâu là ý nghĩa của nó? Cuộc biến hình này xảy ra khoảng tháng 8 năm 29, trên ngọn núi Tabor (theo truyền thống kể lại; giữa Nadareth và mạn Nam hồ Tibêriađê, miến Bắc Galilêa…). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

a/. Một vài điểm chúng ta cần lưu ý.

Đây là một phép lạ hiếm hoi trong nhiều phép lạ Chúa Giêsu làm; mục đích sau khi công bố cuộc khổ nạn Người sắp phải chịu, và thấy phản ứng thảm nảo của các môn đệ, Chúa Giêsu tỏ vinh quang Người qua phép lạ biến hình, để củng cố lòng tin cho các ông, để họ an tâm theo Chúa và vâng nghe lời Chúa dạy.

Điểm khác: khi Chúa biến hình, xuất hiện Môisen và Êlia, hai nhận vật trong Cựu Ước. Môisen, sống cách Chúa Giêsu đến 1250 năm. Êlia, lối 900 năm. Một người đại diện cho Luật pháp, một người đại diện cho tiên tri, như là sứ giả của Thiên Chúa. Viêc này xác nhận vai trò của Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã được loan báo trong Cựu Ứớc, muôn dân đang trông đợi. Trong khi biến hình, câu chuyện của ba vị nói với nhau, cũng là nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu sắp tới…

Khi các vị còn đang nói, thì có một đám mây bao phủ, và từ trong đám mây có tiếng phán, đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. Đám mây nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, như khi Môisen dẫn dân Do thái qua sa mạc. Tiếng nói của Chúa Cha, là để xác nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, luôn vâng phục và luôn đi theo chương trình cứu rổi nhân loại của Chúa Cha đề ra…

b/. Tại sao Chúa Giêsu để mình biến dạng, tỏ vinh quang Thiên tính mình ra cho môn đệ được thấy, một điều mà bao lâu nay Chúa Giêsu hằng giấu kín? Đây còn là mầu nhiệm; tuy nhiên, có điều chúng ta vẫn có thể hiểu được phần nào. Chúa Giêsu vì sứ mạng được Chúa Cha giao phó, đã che giấu tất cả uy quyền vinh hiển của một Thiên Chúa, trong thân phận của một con người bình thường. Như bao nhiêu người khác, Người vẫn gặp thử thách, cám dỗ, khó khăn. Người cũng vẫn lo buồn, sợ hãi trước ám ảnh của cái chết khủng khiếp mà Người phải chịu. Dù vậy, Chúa vẫn luôn vui lòng đón nhận và làm theo Thánh Ý Chúa Cha. Chúa biết việc mình làm; Chúa quyết tâm hoàn tất chương trình cứu rổi đã được vạch ra…Lúc này đây, để củng cố niềm tin cho các môn đệ, Người tỏ một chút vinh quang Thiên Chúa cho họ thấy, để họ an tâm, xác tín vào chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa và sẵn sàng tiến bước theo Người.

Thiên Chúa muốn chúng ta biến hình như Chúa Giêsu: rõ ràng chúng ta được sinh ra và được cứu chuộc không phải để hư mất đời đời, mà là để được biến hình vinh quang trong địa vị là con cái Thiên Chúa. Dĩ nhiên ở trần gian, người ta không thấy không hiểu được linh hồn sạch tội, đẹp đẽ thế nào, và chắc chắn nó phải đẹp đẽ, vì nó là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tinh ròng, sáng láng, tuyệt mỹ, vô tỳ tích. Các thánh nói: nếu Chúa cho người ta thấy được một linh hồn tinh sạch hoàn toàn, đẹp đẽ và sáng láng thế nào, người ta sẽ không dám phạm tội, và cũng không còn ao ước ở trần gian nữa…Vì thế, biến cố Chúa biến hình chính là để loan báo cho chúng ta cuộc biến hình mai sau sáng láng trên nước trời.

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu vì để cứu chuộc nhân loại, đã đành nhận thân phận một con người y như ta để gánh lấy tội ta, và thay ta đền tội trước mặt Chúa Cha. Dù vậy Người chính là Chúa Con, quyền năng ngang hàng như Chúa Cha. Chúng ta có tin Người là Thiên Chúa không? Câu chuyện biến hình này xác nhận điều đó.

 

  1. Gọi điện thoại trong địa phương

Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: “Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!” Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: “Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!”

Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.

Chúa Giêsu dẫn Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan “lên một ngọn núi cao” (Mt 17:1). Các ngài lên núi cao ấy để “cầu nguyện” như Thánh Luca đã thuật lại (Lk 9:28). Chúa Giêsu và ba môn đệ đã tách biệt nhau khi cầu nguyện. Mỗi vị có một nhu cầu riêng. Chúa Giêsu đã đi đến khúc ngoặc mới của cuộc sống và công việc truyền giáo của Ngài. Các kẻ thù đang toan tính ám hại Ngài, và do đó Ngài phải quyết định xem cần phải rời bỏ Đất Thánh hay tới thẳng Giêrusalem và thẳng thắn đối đầu với những kẻ muốn giết Ngài. Lúc này đây Chúa Giêsu cần biết rõ ràng Thánh Ý Chúa Cha trong vấn đề này: Ngài có đang làm công chuyện và quyết định đúng như ý Chúa Cha không? Ngài có đang làm tròn mục đích của đời Ngài không?

Còn ba vị môn đệ kia thì đây là lúc tìm sự hướng dẫn để có thể hiểu công cuộc của Chúa Giêsu. Chỉ mới tám ngày trước đó, Phêrô đã có một ánh nhìn tuyệt vời về Chúa Giêsu là: “Thầy là Đấng Thiên Sai”. Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu mặc khải về sự đau khổ và phải chết của Đấng Thiên Sai thì Phêrô đã từ chối không muốn nghe. Ngay còn tấm bé, Phêrô đã được nghe biết rằng Vị Thiên Sai sẽ là vị tướng anh hùng vĩ đại, bách chiến bách thắng. Bởi đó, lúc này đây thật là khó cho Phêrô có thể chấp nhận Chúa Giêsu như là “Người Đầy Tớ Đau Khổ”; và do vậy Phêrô đã nói với Chúa: “Điều ấy sẽ không xảy đến cho Thầy, lạy Chúa”. Nhưng Chúa Giêsu đã gay gắt mắng Phêrô: “Hãy lui ra sau Ta, Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta; vì ngươi chỉ theo ý loài người mà không theo ý Thiên Chúa” (Mt 17:22- 23). Chính vì thế, giờ đây ba vị môn đệ cần phải cầu nguyện xin được ơn soi sáng trong vấn đề này. Khi Chúa Giêsu và môn đệ đang cầu nguyện thì Môisê, đại diện cho Luật và ‘lia, đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra và đàm đạo với Chúa. Thánh Mátthêu muốn cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ đã phải suy ngắm sâu xa về truyền thống và quá khứ của họ hầu có thể tìm ra được Ý Thiên Chúa. Và chúng ta có thể dường như nghe được tiếng của Môisê và ‘lia xác định những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ngài nói đúng!… Hãy nghe lời Ngài! Hãy cùng đi với Ngài lên Giêrusalem mà đừng để ý tới những trắc trở.”

Khi mà một người được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trực tiếp như trên núi cao xưa thì thật khó mà tìm lời để diễn tả tâm tình mình. Trong trường hợp này, các Thánh Sử Tin Mừng đã diễn tả cách hay nhất cho chúng ta. Các ngài thuật rằng kìa có một đám mây xuất hiện, và mây trong quan niệm cổ thời bấy giờ được coi là có sự trực tiếp Hiện Diện Vinh Quang Thiên Chúa. Rồi từ đám mây ấy, Thiên Chúa trực tiếp phán ra. Nôm na cho vui, đây là cú điện thoại trong vùng nhưng nó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa đến với chúng ta trong muôn ngàn cách, nhưng không có cách nào quan trọng hơn khi Ngài tỏ Mình trực tiếp với chúng ta và chúng ta cảm nghiệm được sự đối diện trực tiếp ấy với Ngài cách rõ ràng mật thiết. Chúa Giêsu và ba môn đệ kia chắc chắn đã muốn trèo lên núi cao để có thể cảm nhận cách rõ ràng mật thiết sự Hiện Diện Linh Động của Thiên Chúa. Mối cảm nghiệm đó rồi nó cũng tự kết thúc, song các ngài còn trách nhiệm phải đáp trả. Phêrô đã muốn dựng mấy lều và lưu lại luôn trên núi đó. Điều này xảy ra chúng ta cũng dễ hiểu thôi, vì ngay như chúng ta chỉ mới được Thánh Thần soi sáng xoa dịu trong những cuộc tĩnh tâm thôi mà đã không muốn bỏ đi rồi. Chúa Giêsu đã tảng lờ lời đề nghị của Phêrô và dẫn các ông xuống núi trở về lại xóm làng. Khi các ngài trở lại thôn xóm đã nhìn thấy gì? Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu cần thiết của dân chúng. Ngay tức khắc, các ngài đã phải nghe lời van xin của một người cha cho con mình: “Xin Thầy hãy thương đến con trai tôi vì nó bị bịnh phong giật khổ sở lắm” (Mt 17:15).

Trong Giáo Hội có những dòng tu chuyên lo việc cầu nguyện và điều đó rất tốt! Song phần đông còn lại chúng ta chuyên chú trong việc cầu nguyện cần phải theo Chúa Giêsu xuống khỏi núi mà đi vào những thôn xóm đang cần sự giúp đỡ. Những người theo Chúa Giêsu phải biết trung thành và cân bằng trong việc cầu nguyện và hoạt động!

Nhiều lần Chúa Giêsu đã trách mắng đám đông theo Ngài vì họ chỉ muốn xem phép lạ. Ngài đã từ chối không muốn trở thành Vị Thiên Sai phù phép của họ. Thường xen kẽ giữa những lúc tuyệt vời của dấu lạ và phép lạ là những ngày dài khó khăn, bẩn thỉu, đói khát thực hành sự vâng phục đối với các môn đệ Chúa Giêsu. Nếu bốn cuốn Phúc Âm dài gấp ngàn lần cuốn hiện tại thì chúng sẽ ghi nhiều những công việc của Chúa Giêsu trong ba năm hoạt động công khai, và rất có thể chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những hoạt động của Chúa trong những ngày ấy thật bình thường. Chúng ta có thể chắc rằng giữa cuộc cảm nghiệm ngây ngất trên núi là những ngày gian nan khó khăn trong các xóm làng, đó là lúc các môn đệ Chúa phải vượt qua bằng đức tin chứ không phải bằng dấu lạ.

 

  1. Chúa biến hình – Lm. Thomas Túy

Năm mới nào cũng vậy, cứ vào thời gian ngay sau tết âm lịch, núi Bà Đen, Tây Ninh, nhộn nhịp hẳn lên vì khách hành hương từ các tỉnh tuôn đến xin xâm, bói quẻ ở chùa Bà, chùa Hang. Hai ngôi chùa ở lưng chừng núi, cách nhau hơn vài trăm mét. Nhưng tới được chúng quả là một hành trình vất vả, phải mất đến cả tiếng đồng hồ, leo các bậc thang bằng những viên đá đủ kích cở. Vậy mà hàng ngày có đến hàng ngàn hàng vạn khách đi xe đến viếng thăm. Những thanh niên khỏe mạnh có thể leo tới đỉnh núi, cao chừng hơn ba trăm mét. Nhưng tới được đỉnh thì quả là một phần thưởng: Không khí trong lành, mát mẻ, quang cảnh chung quanh bao la bát ngát, tầm mắt có thể phóng tới chân trời. Bên dưới là một bức tranh toàn cảnh đầy màu sắc: ruộng vườn, làng mạc, sông lạch, rừng rậm, cây cối xanh tươi, trâu bò làm đồng, người cầy cấy coi như con kiến. Quả là một bồng lai tiên cảnh. Thiết nghĩ đây là điểm du lịch hấp dẩn ngoài việc tín ngưởng, tâm linh.

Xin nhập đề như vậy để quí vị có thể tưởng tượng được nội dung biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor hôm nay, Phúc âm không định vị rỏ ở đâu. Thánh Matthêu chỉ viết: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông ra riêng một chổ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông”. Theo Luca thì việc này xẩy ra khi Chúa còn đang rao giảng ở Galilêa (Lc 9,28). Mathêu cũng đồng ý với Luca:” Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết”(Mt 16,21). Truyền thuyết cho rằng ngọn núi đó là núi Tabor, ở giửa cánh đồng, gần Nazareth, cao chừng 750 mét, đúng như vị trí của núi Bà Đen, nhưng cao gấp đôi, vì Bà Đen chỉ hơn 300 mét cũng ở giửa đồng bằng chung quanh là làng mạc, sông ngò và rừng rậm. Ngày nay Tabor có đường xe hơi lên tận đỉnh núi. Thời Chúa Giêsu làm chi đã có, nên phải leo bộ, chúng ta cùng leo núi với Chúa.

Chiều cao này có ý nghĩa biểu tượng và khi lên được tới đỉnh, người ta cũng ở trong tiên cảnh bồng lai. Thánh Phêrô sau này hồi nhớ lại nên bảo Marcô viết: “Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay”, nghĩa là các ông cũng giống chúng ta ở đỉnh núi Bà Đen, nhưng theo nghĩa thiêng liêng, tức là các ông đang ở trong toàn cảnh thánh thiện trước mặt Đấng là sự thánh thiện tuyệt đỉnh. Ai có thể không có ý nghĩ như vậy?

Nhưng leo lên được đỉnh núi với Chúa không phải là chuyện dể dàng. Các ông phải lao động vất vả cả về nghĩa vật chất lẩn tinh thần. Những ai muốn thử kinh nghiệm xin đi Tây Ninh và leo lên đỉnh Bà Đen. Bảo đảm nhiều người sẽ chào thua mà trở về chân núi. Leo núi thánh thiện với Chúa cũng vậy, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, chứ không phải như thiên hạ tưởng tượng.

Chắc chắn chúng ta phải leo cực nhọc, bước những bước khốn khổ trượt ngả trên đường đi đầy sỏi đá lởm chởm mới tới được ngọn núi thánh thiện. Rồi phải liên lỉ cầu xin ơn trợ giúp như Luca kể: “Đang lúc Người cầu nguyện, thì dung mạo bổng đổi khác”(ibi). Cho nên người ta phải vất vả leo núi Tabor thiêng liêng cùng với Chúa và ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan.

Vậy thánh thiện là gì, làm thế nào tới được bậc đó? Hôm qua thứ bẩy, Chúa nói:” Anh em hảy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”(Mt 5,48). Như thế Đức Giêsu định nghĩa thánh thiện là chính Đức Chúa Trời. Chúng ta phải rập theo khuôn mẩu đó mà sống. Cụ thể lối sống của Đức Giêsu khi còn ở trần gian. Chiều chuộng xác thịt, ăn cắp ăn trộm, lừa đảo, giả hình chắc chắn không phải là cuộc sống mà Đức Kito muốn. Chúng ta thường lấy mình ra làm “thước đo” mọi sự.

Thiên Chúa đã chỉ định cho ông Môsê ban lề luật cho tuyển dân mù quáng để họ biết đường hoàn thiện và thờ phụng Thiên Chúa cho phải đạo. Vì chính Thiên Chúa mới là “thước đo” và mẩu mực cho nhân loại. Bây giờ Môsê cũng ở trên đỉnh núi với Đức Giêsu trong cương vị ban lề luật để trao quyền lại cho Chúa mà ông đã hằng tiên tri từ lâu trước. Lúc này Đức Giêsu vừa là người trao ban lề luật vừa là luật pháp cho nhân loại. Chúng ta vâng phục lời Ngài ra sao? Thật là khó, vì Ngài là Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, làm sao loài người theo cho nổi?

Vì vậy Ngài phải “thích nghi” với điều kiện nhân loại trong biến cố nhập thể và Đức Chúa Cha đã phán: “Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng. Các ngươi hảy vâng nghe lời Ngài”. Như thế Đức Giêsu là lời giải thích, là lề luật cho mọi hành động của con người. Nhân loại phải suy tư về Ngài, học hỏi và bắt chước Ngài để nên trọn lành đích thực, chứ không giả hình lừa dối. Chính Ngài tự xưng là đường là sự thật, sự sống để chúng ta đi về với Thiên Chúa.

Việc thay hình đổi dạng khởi sự khi mổi linh hồn lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Lúc ấy chúng ta chết đi cho xác thịt để sống với Đức Kitô. Đời sống này không phải là tương lai, nhưng là hiện tại ngay lúc lãnh nhận thanh tẩy và là những nội dung chúng ta phải sống hàng ngày. Những ai suy nghĩ đời sống thánh thiện thuộc tương lai, thì hoàn toàn sai lầm và sai lầm thì phải trả giá. Chúa Giêsu không hề tuyên bố đời sống trọn lành thuộc về tương lai mà thôi. Ngài nhiều lần nhấn mạnh nó là cuộc sống hiện tại:” Xưa ta đói các ngươi không cho ăn, ta tù đày các ngươi đâu có viếng thăm ta?”. Cho nên vật lộn để sống đẹp lòng Thiên Chúa như Đức Kitô dạy là cấp thiết. Sự thực thánh thiện và cuộc sống vĩnh cửu đã ở nơi chúng ta ngay trong Bí tích Thánh Tẩy. Chúng ta phải phát triển nó từ tấm bé cho đến tuổi già. Giả dụ Thiên Chúa muốn chúng ta phải sáng tỏ sự thánh thiện của mình như Chúa Giêsu hôm nay trên núi Tabor, thì chúng ta cư xử ra sao và tiếng từ trời cũng phán: ông A, chị B, em C là những con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, liệu mấy ai khoe mình được như vậy? Hay chỉ bằng môi miệng, lừa dối thiên hạ.

Nói như vậy không phải là ngoa, nếu nghĩ đến mỗi lần rước lễ xong. Bí tich Thánh Thể là chính sự hoàn thiện đang ngự trong mỗi linh hồn tín hữu, linh mục, tu, sĩ. Nó phải được chiếu sáng ra nếu các dục vọng của mỗi người không ngăn cản, phủ lấp đi. Mỗi khi chúng ta tham dự thánh lễ, làm việc bác ái, lãnh nhận các bí tích là tăng cường vẻ sáng ngời thánh thiện của tín hữu cho thiên hạ chiêm ngưỡng như một biến cố biến hình vậy. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi bằng suy nghĩ, lời nói, việc làm là lớn lên trong cuộc sống thiêng liêng. Mỗi khi cố gắng chu toàn bổn phận là leo núi Tabor.

Và con đường là thánh giá. Môsê và Êlia hiện diện trên núi thánh bàn bạc với Đức Kitô về cuộc khổ nạn của Ngài? Làm sao chúng ta tránh khỏi? Liệu chúng ta được phép xưng mình là môn đệ Chúa mà không phải vác lấy thập tự hàng ngày? Thánh Phaolô khuyên Timôteô:”Hãy chịu đựng gian khổ mà Phúc âm đòi hỏi”. Qúi vị nghĩ sao? Tận hưởng cuộc đời dễ dãi đầy tiện nghi và vẫn coi mình là môn đệ Chúa rồi hùng hồn rao giảng thập giá Đức Kitô! Trớ trêu quá.

Thôi, xin bỏ ngọn núi vật chất để nói đến quả núi thánh thiện mà Đức Kitô đã leo trong suốt cuộc sống của Ngài. Quả núi ấy là gì? Chẳng phải là xe hơi nhà lầu, kẻ sai người bảo mà là yêu thương phục vụ theo ý Đức Chúa Cha cho đến chết, và chết trên thập tự, chứ không êm ái trên giường bệnh hay nhà thương sang trọng, đắt tiền. Chết nhục nhã, chịu lăng nhục chửi bới chứ không điếu văn, diễn từ ca tụng. Đó là con đường người môn đệ Chúa phải nương theo trong cuộc sống để chu toàn theo thánh ý Thiên Chúa. Cụ tổ Abraham của bài đọc 1, đã 75 tuổi lìa bỏ tất cả, quê hương, tài sản di theo tiếng gọi vô hình của Đức Chúa Trời, lang thang thiếu thốn nơi đất khách quê người, không quản ngại điều chi trước tôn nhan Đức Chúa mà ông hết lòng kính sợ. Chúa Kitô phải chịu đựng nhiều hơn khi chu toàn mệnh lệnh của Đức Chúa Cha. Ngài ở giữa một đám đông thù nghịch, phản đối, chê cười, hận thù và giết chết. Hai mẫu gương cho nhân loại noi theo mà nên thánh thiện, chứ không phải chăn ấm nệm yên, ngày ngày yến tiệc linh đình. Đây là mẫu mực để chúng ta tuân giữ mùa chay và con đường hoàn thiện. Đức Giêsu cầu nguyện, ăn chay, chống trả cám dỗ, sống trong cô tịch, phục vụ người nghèo khó bệnh tật, yêu thương, đau khổ và chết, là khuôn mẫu mùa chay của các tín hữu, xin đừng cắt nghĩa kiểu khác để trốn tránh con đường thiêng liêng. Đó là bí quyết duy nhất để leo núi Tabor của chúa. Đường lên núi thánh không đi được bằng xe hơi, ngủ trong quán trọ nhà lầu, ăn cao lương mỹ vị như thiên hạ ngày nay biện minh. Con đường của họ chỉ có thể đưa xuống hố sâu của những người mù, như Đức Kitô đã cảnh cáo.

Cho nên khuôn mẫu để sống đẹp lòng Đức Chúa Cha không bao giờ thay đổi, từ ông Abraham, các tổ phụ, các tiên tri cho đến Chúa Giêsu. Bao lâu còn có tội lỗi trên thế gian, thì bấy lâu kẻ theo con đường thánh thiện của Thiên Chúa còn phải gánh chịu khổ nạn, tử đạo, chối bỏ từ tay thế gian ngay cả từ tay bạn hữu, người thân như Chúa Giêsu đã phải gánh chịu.

Đức Giêsu tóm gọn các giới răn, bát phúc, và các tiêu chuẩn thánh thiện vào cuộc sống yêu thương và phục vụ. Liệu chúng ta được phép đi con đường khác mà vẫn nên thánh? Quả là hoang tưởng khi người ta từ bỏ ăn chay, hảm mình, làm phúc bố thí, bác ái, đau khổ và cái chết nhục nhả để giữ các hình thức khác trong mùa hồng phúc!

Đến đây chúng ta đụng đến vấn đề cốt lõi: Bí quyết để nên trọn lành. Các vĩ nhân đều có bí quyết để thành công. Thí dụ: Thương gia, buôn bán phát tài. Không có luật trừ cho việc nên thánh. Những thiên tài này đều có một cảm tính đặc biệt để thành công, nằm sâu trong trái tim họ. Riêng trong lãnh vực tôn giáo chúng ta gọi các chuyên viên này là các thánh và họ đả kín múc cảm tính của mình trong Thiên Chúa nhập thể. Vậy muốn nên trọn lành như họ, chúng ta phải noi gương họ: Học hỏi, yêu mến Chúa Giêsu. Con đường ngắn nhất để được gọi là con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đẹp lòng Ngài mọi đàng. Ước chi mùa chay này mọi tín hữu tìm được bí quyết và con đường ấy. Amen.

 

  1. Suy niệm của Đinh ngọc Thiệu

Câu hỏi gợi ý:

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?

Việc Chúa tỏ bày vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó, Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?

Suy tư gợi ý:

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài như thế nào?

Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng nhiều thể thức khác nhau:

Khi thì uy hùng lẫm liệt: như trong trường hợp Thiên Chúa ban bố 10 điều răn tại núi Si-nai trong tiếng sấm nổ rền vang, khói toả nghi ngút làm cho dân Do Thái phải khiếp sợ (Xh 20, 16-31); hoặc bằng cánh tay mạnh, Ngài đưa dân Do Thái vượt qua biển đỏ chân khô ráo trong khi binh hùng tướng mạnh của Ai Cập cùng với xa mã đuổi theo bị vùi dập trong làn nước biển (Xh 14, 15-31); trên đường dẫn đến Đa-mát, trong ánh sáng chói loà, Ngài đã làm cho Phao-lô ngã ngựa, mắt ông bị quáng ba ngày sau mới thấy lại được (Cv 9, 1-19)

Khi thì êm ái thân mật: trường hợp Ap-ram và Môi-sen đã gặp gỡ chuyện trò với Chúa mặt giáp mặt, Sa-mu-en được Chúa gọi ban đêm (1Sm 3,1-14), hay thánh Giu-se (Mt 1, 20; 2, 20) và các đạo sĩ Phương Đông đã được Chúa báo mộng (Mt 2,12).

Khi thì huy hoàng rực rỡ như trường hợp Đức Giêsu biến hình trên núi được diễn tả trong bài Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay.

Việc Chúa tỏ vinh quang mang lại lợi ích gì cho ta? Và qua đó,Ngài muốn nhắc nhở chúng ta điều gì?

Khi tỏ bày vinh quang bằng những dấu lạ điềm thiêng, Thiên Chúa luôn nhằm đáp lại một nhu cầu nào đó của con cái Ngài:

Để dẫn dắt: như cột mây dẫn đường cho dân Do Thái trong sa mạc (Xh 13,21-22;15,19-20).

Để cứu giúp dân khi gặp khó khăn hay khi bị quân địch vây khốn.

Để chữa lành các bệnh nhân, nâng đỡ, bồi bổ sinh lực cho những kẻ yếu đuối.

Và nhất là để củng cố niềm tin cho các tông đồ và dân chúng.

Trong bài sách Sáng Thế hôm nay, Ap-ram sở dĩ dám rời xứ sở, họ hàng và thân phụ để đi đến một vùng đất mới mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông vì ông đã được tiếp cận với Thiên Chúa. Ngài đã thiết lập giao ước với ông, và hứa sẽ làm cho ông thành một dân lớn (St 12,1-2). Nhờ lòng tin mạnh mẽ và nhờ ơn trợ giúp của Ngài, ông đã vượt qua mọi thử thách và đi đến cùng đích, để trở thành cha của những kẻ tin vào Thiên Chúa.

Trong thư thứ hai gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa đã sẵn sàng chịu mọi cực hình tù tội vì danh Đức Kitô. Thánh nhân đã khuyên ông Ti-mô-thê: “Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Đức Kitô Giêsu, nhưng giờ đây mới được biểu lộ, vì Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện” (2 Tm 1, 9-10)

Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, Ngài đã tỏ vinh quang bằng nhiều phép lạ: biến nước thành rượu (Ga 2,1-12), hoá bánh ra nhiều (Mt 14, 13-21; 16, 32-39), chữa lành các bệnh nhân: những người mù, què, câm, điếc (Mt 4, 23-24) phong hủi, cho người chết sống lại (Ga 11,1-44). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã biến hình trước mặt ba tông đồ thân tín: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng và kìa các ông thấy Môsê và ông Êlia hiện ra cùng đàm đạo với Người”. Nhìn thấy thế, các ông vô cùng sung sướng, nhưng khi nghe tiếng phán từ đám mây sáng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng lời Người” thì các ông đã kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất……

Mặc dầu được ở kề cận với Đức Giêsu, được Ngài trực tiếp huấn luyện, các tông đồ nhiều lần còn tỏ ra nghi ngại khi dấn thân vào cuộc sống phiêu lưu “rày đây mai đó”, “Con chồn có hang,con chim có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20). Và thậm chí – vì sợ bị thiệt thòi khi theo Chúa – có vị đã mạnh dạn đặt với Chúa một câu hỏi rất khó nghe: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27). Rồi khi Đức Giêsu loan báo về bí tích Thánh Thể: “ … ăn thịt và uống máu Con Người …..” (Ga 6,53), nhiều môn đệ lấy làm chướng tai nên đã rút lui, không còn đi với Ngài nữa. Dù đã quyết tâm theo Chúa, các tông đồ vẫn chưa dứt bỏ được những cố tật: tham lam chức quyền, địa vị, quyền lợi (Mt 20,20-23), thích dựa vào quyền lực, vũ khí (Mt 26,52).

Việc Chúa tỏ vinh quang là nhằm củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Việc Đức Giêsu biến hình trở nên sáng láng, hay những dấu lạ Ngài làm, như gián tiếp nói với các tông đồ cũng như cho mọi người: “Có Thầy đây! Đừng sợ!” (Mt 10,26-31) Ngài luôn có mặt trong vũ trụ, làm chủ vũ trụ và sẵn sàng giúp đỡ những ai kêu cầu Ngài: “Hỡi những ai yếu nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ bổ sức cho”. Ngài muốn chỉ cho chúng ta thấy giá trị của đau khổ. Đau khổ chính là cửa hẹp, là đường dẫn đến vinh quang.

NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu, suốt 33 năm sống ở trần gian, Ngài đã nêu gương cho chúng con trong sự vâng lời làm theo ý Đức Chúa Cha. Và khi về trời, Ngài đã sai Đức Chúa Thánh Thần đến để giúp chúng con hiểu biết và thực thi những điều Ngài đã dạy chúng con. Xin Chúa cho mỗi người chúng con trong bất cứ tình huống nào của cuộc sống, luôn vững tin và cậy dựa vào Chúa, Đấng là chủ vũ trụ, Ngài luôn hoạt động để biến đổi thế giới.

 

home Mục lục Lưu trữ