Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 80
Tổng truy cập: 1446707
XÁC QUẾT THIÊN CHÚA ĐANG SỐNG
Xác quyết Thiên Chúa đang sống
(Suy niệm của Lm. Đinh Tất Quý)
Hằng năm cứ mỗi lần mùa vọng trở về là chúng ta có dịp gặp lại một trong những khuôn mặt rất đặc biệt của Tin Mừng. Tôi muốn nói đến Gioan Tẩy Giả
I. Hồi ấy Gioan xuất hiện trong hoang địa miền Giuđêa
Ông xuất hiện với một cung cách rất đặc biệt. Tin Mừng nói về Ông như sau: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưngh bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng”.
Chúng ta tự hỏi: Tại sao ông lại làm thế? Phải chăng ông lập dị, muốn khác người? Không, ông không lập dị muốn khác người. Ông làm thế là vì ông mang một sứ mệnh cao cả. Ông từ bỏ hết mọi thứ mà người đời thường tìm kiếm để sống và chết cho sứ mệnh của mình.
a/ Ăn - Mặc
- Làm người ai mà chẳng muốn ăn ngon mặc đẹp? Gioan có đủ và còn có dư điều kiện để làm việc đó. Ông là người con duy nhất của một gia đình giầu có. Cha mẹ ông là người có địa vị, có thế giá trong xã hội. Vì cha của Gioan thuộc giai cấp tư tế. Thế nhưng Gioan đã hy sinh. Của ăn thức uống của ông không phải là những thứ cao lương mỹ vị.? Tin Mừng cho chúng ta biết ông ăn châu chấu và thêm vào đó có một chút mật ong trong rừng.
Áo mặc của ông cũng không phải là thứ đắt tiền. Tin Mừng bảo ông áo ông mặc làm bằng lông da thú, một thứ áo mặc thường dùng của những người mục tử nghèo khó. Đôi dép ông mang ở dưới chân cũng thế. Tất cả đầu bằng da thú - vừa sẵn có vừa rẻ tiền.
b/ Về cuộc sống thường ngày của ông thì Thánh Luca bảo ngay từ thuở còn niên thiếu ông đã chọn chốn hoang vu làm nơi cư ngụ cho mình. Ông tự nguyện sống một cuộc sống khắc khổ khó khăn như thế để tự rèn luyện mình nên một con người sắt đá hầu có đối mặt, đương đầu với những thách đố do sứ mệnh của ông đòi buộc.
Claude Tassin nói về ông như thế này:”Ông không lập dị nhưng ông coi thường những tiện nghi vật chất. Ông muốn sống hoàn toàn tự do, không để cho mình bị ràng buộc vào bất cứ một thứ gì mà người trần thế coi trọng”. Ta có thể tóm lại trong bằng một ít tiếng sau đây: Ông muốn sống siêu thoát để ông được tự do hành động theo sứ mạng của mình.
II. Bây giờ, chúng ta hãy nghe lời ông tuyên bố:
a/ Những lời ông tuyên bố thật quan trọng. Nó liên hệ đến một Đấng mà các tiên tri trước ông đã loan báo.
- Ông nói với mọi người: “Nước Trời đã kề bên” Hãy ăn năn sám hối. Hãy dọn đường Chúa - Sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
- Ông cảnh cáo nặng lời đối với những người có nhiều thành tích bất công: “Hỡi nòi rắn độc. Dừng hòng tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa - Cái rìu đã để sẵn gốc cây - Thiên Chúa sẽ cầm nia mà sảy sân lúa của Người rồi thu lúa vào kho còn rơm thì Người đốt đi.
- Ông khuyên mọi người hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối.
b/ Nhiều người đã đến với ông. Nghe những lời ông giảng. Họ cảm thấy bức xúc nơi cõi lòng. Họ đã thành khẩn sám hối và để cụ thể hóa những khát vọng muốn đổi mới của mình, họ đã xin ông làm phép rửa sám hối cho họ.
- Tất cả những việc đó chỉ nhắm duy nhất có một điều đó là được nhận ra Đấng mà ông nói:”Người đến sau tôi nhưng có trước tôi. Phần tôi tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dép cho Người”
III. Áp dụng.
a/ Đấng mà Gioan loan báo Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh ra
Chúng ta đã biết những nơi Ngài đã sống
Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta
Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm
Chúng ta đã biết những đau khổ Ngài đã chịu?
Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ỡ trên cây Thánh giá
Chúng ta đã biết sự Phục sinh vinh hiển của Ngài
Trước khi về trời, Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn không thể quên: “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”
b/ Ngài vẫn ỡ giữa chúng ta những rất nhiều người trong chúng ta vẫn không nhận ra Ngài. Tại sao thế?
Có nhiều lý do nhưng trước hết có một lý hết sức quan trọng đó là con người hôm nay quá bám víu vào những giá trị của trần thế.
* Đây là một trong những kinh nghiệm mà Jacque Maritain và Réxa là 2 triết gia của Pháp vào đầu thế kỷ này kể lại. Họ là những con người xết về phương diện trần thế thì quả thực họ không thiếu một thứ gì trên đời. Họ rất yêu thương nhau, đã tích trữ cho mình được một gia sản khếch xù ít có ai sánh bằng, thế nhưng họ vẫn cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa. Họ thiếu một cái gì đó mà họ vẫn chưa tìm ra. Thế rồi một hôm họ cùng nhau đến một công viên. Và chính từ trong công viên này mà họ đã đi tới một quyết định rất táo bạo ít có ai dám làm như thế. Họ thề với nhau rằng nếu trong một năm mà họ không tìm ra được một ý nghĩa cho cuộc sống của mình thì họ sẽ cùng nhau tự tử. Rất may, sau 12 tháng, họ đã tìm ra. Ý nghĩa ấy nằm trong hai tiếng Yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa.
Họ đã thực sự gặp được Thiên Chúa, cảm nghiệm được Tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình. Từ đó trở đi hai người dùng cả quãng đời còn lại 50 năm trời để làm chứng cho một cuộc đời có Chúa ở cùng.
Trong một tác phẩm “Thủ lãnh của thế gian” nổi tiếng của mình, Bà Réxa đã viết những lời rất cảm động này: “Ma quỉ đã tung ra một màng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Màng lưới này tuy vô hình nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích những giây phút chóng qua hơn vĩnh cửu. Nó khuyên dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn là chân lý. Nó bảo chúng ta rằng ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy nó mà thôi.” Và chính vì thế mà người ta không thể nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.?
* Thứ đến như Gioan nói trong bài Tin Mừng hôm nay: Muốn thấy Chúa, muốn gặp được Ngài con người phải dẹp qua một bên những chướng ngại làm cho con đường gặp gỡ không được khai thông. Gioan đã nói đến hố sâu của hận thù, nói đến nuí cao của kiêu ngạo, nói đến quanh co của những nẻo đường bất chính gian dối.
Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi quan trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
Đó là những chướng ngại ngăn cách làm cho Chúa và con người không thể gặp nhau.
Con người sống như Thiên Chúa đã chết. Đó là một thảm cảnh đáng thương cho tất cả mọi người nhất là những người còn bảo rằng mình vẫn tin có Chúa. Sống mà coi như Thiên Chúa đã chết thì làm sao có thể “GẶP” được Ngài.
Xã hội chúng ta, đất nước, quê hương chúng ta đang cần những chứng nhân của Chúa.
Mỗi người chúng ta đều có sứ mệnh làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để xác quyết Thiên Chúa đang sống và hành động trong trần gian này. Amen.
57. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An
Một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng
Trong “Người phu quét lá” Lm. Nguyễn Khảm đã ví von đời Linh mục như người phu quét lá. Ngài mượn bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để diễn tả đời Linh mục: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu”
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người. Trong ý nghĩa đó có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Chúa nhật II Mùa vọng, Giáo hội giới thiệu cho chúng ta khuôn mặt của Gioan Tẩy Giả, vị Ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng Ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Cuộc đời của Gioan là một thiên anh hùng ca: bất khuất trước cường quyền và bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu với mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú, sống nơi hoang địa vắng người trơ trụi. Nhưng chính nơi đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc Gioan càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn đợi chờ nhiều năm tháng cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Chúa đưa ông ra khỏi hoang địa để đến gặp gỡ con người qua mọi vùng ven sông Giođan. Lời Chúa ông nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan đã sống trong dòng lịch sử của Đạo và Đời: Thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô, hai Thượng tế Khan-na và Cai-pha, một Phi-la-tô tham lam tàn bạo -Tổng trấn Giu-đê-a, một Hêrôđê tiểu vương Ga-li-lê-a -kẻ giết Gioan sau này. Gioan đã đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy để làm trọn sứ mạng Tiền Hô, Dọn Đường cho Đấng Cứu Thế.
Gioan đã kêu gọi dân chúng “Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Ông đã mạnh dạn mời gọi mọi hạng người, từ kẻ cao sang quyền thế cho đến người dân thường: hãy sống cách ngay chính theo địa vị của mình để sẵn sàng đón Chúa đến.Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Phải sửa lối cho thẳng để Chúa đi. Dân chúng lũ lượt đến với ông, họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Đúng là Gioan đang “quét dọn” tâm hồn mọi hạng ngưòi cho sạch sẽ tội lỗi xứng đáng đón Đấng Cứu Thế.
Đường quan trọng nhất là đường đi vào cõi lòng. Mỗi người chúng ta không ít thì nhiều đều có những đồi núi kiêu ngạo, những thung lũng ích kỷ hẹp hòi, những cây cầu tự ái khoe khoang, những mấp mô ghồ ghề trong mối quan hệ với người khác như kỳ thị, gian dối, thiếu công bằng, nói hành nói xấu. Cũng có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay,san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp mà Thánh Gioan gởi đến cho chúng ta trong Mùa vọng này, giúp chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở về Chúa Cứu Thế. Điều đó cũng chẳng dễ dàng chút nào vì nó thường gây đau đớn. Không phải trong Mùa vọng chỉ đi xưng tội qua loa sau khi xét mình 5-10 phút cho yên ổn lương tâm, mà quan trọng là một lối sống, một lối nghĩ của Tin Mừng: Uốn nắn những quanh co, san phẳng gò cao hay hố thẳm và dẹp bỏ chướng ngại trong tâm hồn từng ngày? để có chổ cho Chúa đến và ở lại.
Gioan Tiền Hô là một Ngôn sứ bất khuất, bao dung và khiêm tốn, chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
58. Lời loan báo của Gioan Tẩy Giả
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, ofm)
1.- Ngữ cảnh
Phần Mở của Tin Mừng Mt đi từ 1,1–4,16. Về nội dung, trong bốn chương mở đầu này trước khi Đức Giêsu xuất hiện công khai, có hai người khám phá ra Đức Giêsu là ai, theo hai đường song song và riêng tư: Giuse (ch. 1–2) và Gioan Tẩy Giả (ch. 3–4). Giuse thì được thiên thần Chúa báo tin trong giấc mơ rằng Đức Giêsu là con (cháu) vua Đavít, còn Gioan thì được một tiếng từ trời cho biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cả hai vị đều muốn tránh né ơn gọi đặc biệt các vị được mời đảm nhận trong liên hệ với Đức Giêsu, vị đầu sẽ đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, vị sau sẽ trở thành khí cụ để tấn phong làm Đấng Mêsia trong phép rửa. Trong cả hai trường hợp, cảm thức về sự bất xứng của hai vị đã là động lực khiến các vị có thái độ như thế (chính theo nghĩa này mà ta phải hiểu sự “bối rối” của Giuse). Nhưng sự băn khoăn bối rối của các vị đã được thiên thần hoặc chính Đức Giêsu đánh tan. Cuối cùng, cũng như Giuse, khi chấp nhận đưa Đức Giêsu vào trong dòng dõi vua Đavít, đã kéo theo cuộc bách hại của vua Hêrôđê, Gioan Tẩy Giả, khi chấp nhận ban phép rửa cho Đức Giêsu và tạo cho Người cơ hội được tấn phong làm Đấng Mêsia, đã kéo theo những đợt tấn công của Satan.
Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay là phân đoạn đầu thuọc nửa hai của Phần Mở.
Phần hai của phần Mở dường như làm thành một bức tranh bộ đôi: ba đoạn liên hệ đến Gioan, và ba đoạn liên hệ đến Đức Giêsu. Về Gioan: giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của ông (3,1-6); lời rao giảng sự sám hối (3,7-10); lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12). Về Đức Giêsu: phép rửa (3,13-17); các cám dỗ (4,1-11); các lời mào đầu về sứ vụ (kết thúc sứ vụ của Gioan, Đức Giêsu trở về Galilê, Người cư ngụ ở Caphácnaum: 4,12-16).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Những chi tiết tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (3,1-6);
2) Lời rao giảng sự sám hối (3,7-10);
3) Lời rao giảng về Đấng Mêsia (3,11-12).
3.- Vài điểm chú giải
- Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến (1): Động từ paraginomai có nghĩa là “đến, xuất hiện [trên sân khấu]”. Sau này, Đức Giêsu cũng được TM I giới thiệu như thế ở 3,13. Gioan Tẩy Giả chính là người giới thiệu trước Đức Giêsu. Cả hai đều hoạt động tại hoang địa, loan báo Nước Trời và sự hoán cải (3,2 // 4,17), và có làm một phép rửa (c. 11a // c. 11c). Chỉ có điều Đức Giêsu “mạnh hơn” (c. 11), nên Gioan không xứng đáng xách dép cho Người (c. 11), càng không xứng đáng làm phép rửa cho Người (c. 14).
- hoang địa (1): Đây là một ghi chú địa lý (thung lũng sông Giođan), nhưng hơn thế nữa, còn là một ghi chú thần học. Trong truyền thống Kinh Thánh, “hoang địa” là nơi lý tưởng để gặp gỡ Thiên Chúa (x. Hs 12,16-22; Gr 2,2-3; Ed 16,23; Đnl 8,2). Trong hoang địa, Đức Chúa (Yhwh) đã nói với Môsê (Xh 3), với Israel (Xh 19), với ngôn sứ Êlia (1 V 19).
- Ông rao giảng (1): Động từ Hy Lạp kêryssô, “làm người tiền hô; rao giảng; loan báo”. Đây là một động từ chuyên biệt của Tân Ước (61 lần) để chỉ công việc công bố Tin Mừng. Các chủ từ của động từ này luôn luôn là Gioan (3,1), Đức Giêsu (4,17) và các Tông Đồ (10,7). Đối tượng của việc công bố này luôn luôn là Tin Mừng, Nước Thiên Chúa. Vì được vay mượn từ Cựu Ước (38 lần, theo Bản LXX. Xem chẳng hạn Is 61,1tt), như thế động từ này nối kết Gioan Tẩy Giả vào truyền thống các ngôn sứ, thiên sai và khải huyền.
- hối cải (2): Động từ metanoeô, “suy tưởng sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải” (động từ Híp-ri shub). Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo, from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương diện tiêu cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21; 26,20).
Trong Tin Mừng Mt, danh từ metanoia được dùng 2 lần (3,8.11) và động từ metanoeô được dùng 5 lần (3,2; 4,17; 11,20; 11,21; 12,41). Xin so sánh: metanoia: Mc một lần, Lc 5 lần, Ga 0 lần, Cv 6 lần, Phaolô 4 lần, Dt 3 lần, 2 Pr một lần; metanoeô: Mc 2 lần, Lc 9 lần, Ga 0 lần, Cv 5 lần, Phaolô một lần, Kh 12 lần. Tác giả chỉ áp dụng động từ metanoeô cho hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2) và Đức Giêsu (4,17) mà thôi, tức là chỉ liên kết vị Tiền Hô và Đức Giêsu với nhau.
- Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (3): Câu này trích ở đầu “Sách Yên Ủi” (Is 40–55). Bản văn Híp-ri là: “Có tiếng người hô: Trong hoang địa, hãy dọn sẵn một con đường cho Yhwh (Đức Chúa); trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Bản LXX: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Các bản văn đều không xác định ai là “người hô”; phải chăng một thiên thần? Các Tin Mừng đã trích Bản LXX, và gán cho Gioan là “người hô”, và thay thế “Thiên Chúa” bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Đức Giêsu.
- mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (4): Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà; đây là cái áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “dây thắt lưng”, không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột tượng” của ta. “Châu chấu” là thức ăn của các dân trong sa mạc (rang với muối hay phơi khô, ăn với dấm và mật ong rừng hoặc làm nhân bánh đa). Kiểu mô tả Gioan khiến độc giả nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8); thật ra Mt mặc nhiên nói rằng Gioan là ngôn sứ Êlia.
- nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa (7): dịch sát là “đến với (giới từ epi + đối-cách[1]: “trên; về phía; nhằm mục đích”) phép rửa”. Câu văn có phần hàm hồ: có thể hiểu là họ đến nhận phép rửa hoặc đến nơi có ban phép rửa. Một đàng, chúng ta được biết là họ không tin vào Gioan và không chấp nhận phép rửa của ông (x. Mt 21,32), nên có thể cho rằng họ đến là để điều tra về ông (x. Ga 1,19-28). Nhưng đàng khác, vì có lời trách của Gioan: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ…”, nên rất có thể họ đến nhận phép rửa thật sự, dù lòng họ không tin.
Phái Pharisêu (= những người “tách biệt”) phát sinh vào thời dòng họ Macabê (x. 1 Mcb 2,42). Sử gia Gioxép cho biết vào lúc đó, họ có khoảng 6.000 thành viên (Ant. J., 18,42), trong đó có một vài tư tế, còn đa số là giáo dân, được chiêu mộ trong số các kinh sư hoặc tiến sĩ Luật. Là những người trung thành với Lề Luật và truyền thống truyền miệng nhận từ các tiền nhân, họ đã trở thành những người linh hoạt đời sống thiêng liêng của dân Chúa vào thời Đức Giêsu. Về mặt chính trị, họ bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc Do Thái và tỏ ra dè dặt trong các quan hệ với người Rôma.
Phái Xađốc, là hậu duệ của thượng tế Xađốc (thời vua Salômôn: 1 V 2,35), chính là phái các tư tế, vì quy tụ các gia đình tư tế giàu có. Họ chấp nhận các thói tục Hy Lạp và thích nghi với nền đô hộ Rô-ma. Về phương diện tôn giáo, họ nhìn nhận Tôra, tức Bộ Ngũ Thư, loại bỏ truyền thống khẩu truyền, không tin vào sự sống lại, sự hiện hữu của các thiên thần và sự quan phòng của Thiên Chúa.
- Nòi rắn độc (6): nghĩa là dòng dõi của Satan. St 3 đã coi con rắn là loài “rất tinh khôn” (phronimôtatos). Nó là biểu tượng của sự “khôn khéo” (như rắn: 10,16), nhưng hơn nữa là biểu tượng của sự gian tà xấu xa, do nó cắn và giết người ta bằng nọc độc (x. 12,34; 23,33). Sau này, con rắn được kết nối với Satan (x. Kh 12,9). Lời mắng của Gioan hoàn toàn ngược lại với niềm tự hào của người Pharisêu về bản thân họ (“Chúng ta có tổ phụ [cha] là ông Ápraham”, c. 9; x. Ga 8,3).
- cơn thịnh nộ (7): “Cơn thịnh nộ [orgê]” ở dạng tuyệt đối[2] có nghĩa là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được tỏ ra trong “Ngày của Đức Chúa” (x. Is 13,6-9; Xp 2,2; Ml 3,2.23-24). Các ngôn sứ khẳng định “cơn giận” này sẽ được giáng xuống trên những kẻ tội lỗi (x. Am 3,2), nhưng Do Thái giáo thời Tân Ước lại dạy rằng cơn giận này chỉ được giáng xuống trên Dân Ngoại, đặc biệt trên những kẻ áp bức Israel: như thế là bắt đầu quan niệm về Đấng Mêsia chính trị.
- những hòn đá này trở nên con cháu (9): Có lẽ ở đây có một kiểu chơi chữ bằng tiếng A-ram: hai từ số phức abenyyâ’, “những hòn đá” và benayyâ’, “những con cháu”, nghe gần giống nhau.
- gốc cây (10): Trong Cựu Ước, “cây” là hình ảnh chỉ “dân chúng” (cây vân hương: Is 6,13; cây hương bá: Ed 31,10-13; một cây [= đế quốc Babylon]: Đn 4,7-12).
- quăng vào lửa (10): Lửa thiêu đốt tượng trưng hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên kẻ vô đạo (x. Am 1,4–2,5; Ed 22,18-22; Xp 1,18; Ml 3,2-19; Is 66,15-16).
- quyền thế (11): dịch sát là “mạnh hơn” (ischyroteros, do danh từ ischys, “sức mạnh; quyền lực; quyền thế”).
- trong Thánh Thần và lửa (11): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23; Ml 3,2; Dcr 13,9), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy có thể hiểu là Chúa Thánh Thần tẩy luyện như lửa (Khi đó, liên từ và có vai trò giải thích). Nhưng ở c. 10 và đến c. 12, “lửa [không hề tắt]” lại là “hình phạt, tức là “cơn thịnh nộ” của Thiên Chúa (x. c. 7). Vậy hợp lý là cho rằng không lý gì mà tác giả thay đổi quá nhanh ý nghĩa của một từ như thế từ c. 10 sang 11 rồi lại trở về nghĩa cũ ở c. 12 mà không báo trước gì cả, nên “lửa” ở cc. 11-12 đều có nghĩa là “cơn thịnh nộ” con người gánh chịu khi đối diện với sự thánh thiện của Thiên Chúa (Khi đó, liên từ và thêm vào một sắc thái đặc biệt). Xem dụ ngôn “Cỏ lùng” (Mt 13,37-42).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu tổng quát về bản thân và sứ vụ của Gioan (1-6)
Các ghi chú của Mt về Gioan không phải là một bản tiểu sử, nhưng là một bản văn mang tính thần học và biện giáo. Các ghi chú này không nhắc đến hoàn cảnh gia đình ông, cuộc chào đời, ơn gọi (như Lc 1–2), nhưng chỉ nêu ra những điểm liên hệ đến con người và hoạt động của ông, nơi chốn, đề tài và nội dung lời ông rao giảng, các nghi thức kèm theo.
Gioan xuất hiện trong hoang địa, nơi gặp gỡ với Thiên Chúa, nơi đã là sân khấu cho một thời kỳ hồng ân, khi dân Israel đang tiến về Đất hứa, sống trong tình trạng thân mật với Thiên Chúa (Đnl 2,7; Gr 2,2t; Hs 2,16). Ông xuất hiện như là nhà rao giảng về Đấng Mêsia (cc. 1-3) với dáng vẻ một ngôn sứ (c. 4); đặc biệt với y phục của ông, ông giống với ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8) là vị ngôn sứ mà dân chúng chờ đợi đến để khai mạc thời đại thiên sai (x. Ml 3,23; Mt 11,10). Quả thật, vào thời ấy, người ta tin rằng Êlia chưa chết thật, nên ông sẽ tái xuất hiện để giới thiệu Đấng Mêsia cho thế giới. Nhưng Mt cho biết rằng ngôn sứ Êlia mà người Do Thái vẫn trông mong chính là Gioan (x. Mt 11,14; 17,13). Mt giới thiệu Gioan như một ẩn sĩ (x. 11,8), ăn mặc thô sơ, ăn uống kham khổ (3,4) và so sánh lời rao giảng của ông với một lời than vãn trong đám tang (x. 11,17). Ông đã loan báo một sứ điệp được tóm tắt là: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (c. 2).
Ông Gioan không nói cho biết “Nước Trời” nghĩa là gì; nhưng chúng ta biết những nỗi niềm chờ mong của dân chúng thời Đức Giêsu. Israel đã được những vị vua bất trung và bất xứng cai trị lâu quá rồi. Ho nghĩ, nay đã đến lúc Thiên Chúa nắm lấy mọi sự và thay đổi. Có những nhà thuyết giảng đến bảo dân chúng đừng mất tinh thần, họ bảo rằng thế giới cũ sắp chấm dứt rồi, và một thế giới mới sẽ đến. Khi đó, những buồn phiền đau khổ không phải là dấu chỉ của sự chết, mà là của sự sống, giống như những đau đớn của người mẹ sắp sinh con. Đấng Mêsia sẽ chà đạp những kẻ áp bức và một vương quốc mới sẽ được thiết lập, trong đó Thiên Chúa trực tiếp cai quản. Dân chúng sẽ làm bất cứ đòi hỏi nào để được vào trong vương quốc ấy.
Dân chúng “từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến” với Gioan. Ghi chú này có phóng đại nhưng không phải là không có phần đúng, bởi vì vào những thời điểm có những căng thẳng trầm trọng về tôn giáo và chính trị, một ngôn sứ thường thành công. Gioan làm một nghi thức diễn tả lòng thống hối kèm theo lời rao giảng (c. 6). Cách làm của Gioan hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thời ông, khi mà người ta vẫn cử hành các nghi thức thanh tẩy được Lề Luật quy định (x. Lv 14–15). Nhưng cách làm của ông cũng có phần khác: phép rửa của ông được ban dưới dấu chỉ metanoia, của sự hoán cải luân lý, tức là lấy lại điểm cốt yếu trong giáo huấn của Cựu Ước, nhưng đặt vào viễn tượng của Nước Thiên Chúa đang đến gần. Không có chỗ nào nói rằng nhờ nghi thức này, người ta được tha các tội, nhưng nghi thức này đánh dấu việc thay đổi đã xảy đến hoặc sắp xảy đến nơi người nhận phép rửa.
* Lời rao giảng sự sám hối (7-10)
Lời rao giảng của Gioan mà Mt ghi lại là những lời đe dọa hơn là một lời loan báo đầy tính an ủi. Giọng điệu của bài là giọng châm biếm, nội dung thì mang tính khải huyền. Thay vì nói đến ơn cứu độ gần kề, hay là giảng về phép rửa, Gioan cho thấy “ngày của Đức Chúa” (ngày phán xét) đã gần bên, ngày chất chứa cơn thịnh nộ đổ xuống dân Chúa (x. Am 5,18-20; Hs 6,1-3; 9,7-9; Mk 4,6-7).
Có những người thuộc phái Pharisêu và Xađốc đã đến có lẽ để nhận phép rửa dù không tin, Gioan đã gọi họ bằng một tên rất nặng: “nòi rắn độc”, họ là những đứa con thoái hóa của tổ phụ Abraham (c. 9), những cây không sinh quả (c. 10). Không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước đã nói với cử tọa nặng lời như thế. Và Gioan khẳng định rằng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên mọi kẻ tội lỗi, dù là Dân Ngoại hay Do Thái; do đó, mọi người phải hoán cải và nhận phép rửa để được tái tháp nhập vào dân Israel chân chính. Sau này tư tưởng này được hỗ trợ bằng các hình ảnh “cái rìu”, “lửa” và “công việc sàng sảy lúa” (cc. 10.12). Đứng trước cái khối người kiêu ngạo và phản loạn này, Gioan nói như thể để phản đối và thách thức: “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống?” Câu hỏi này là kiểu nói hùng biện nhằm nhấn mạnh rằng không thoát được án phạt. Dù thế vị Tiền Hô cũng nói với họ một lời khích lệ. Để tránh được “cơn thịnh nộ gần kề”, chỉ có một con đường duy nhất, con đường hoán cải, được chứng thực không phải bằng lời nói suông, mà bằng những công việc tốt lành (c. 8; x. 5,16). Người hoán cải là một cây mới đang cho thấy có sự thay đổi tích cực (“quả”). Dân Do Thái tưởng rằng họ sẽ thoát khỏi án phạt bởi vì họ là thành viên của dân Thiên Chúa tuyển chọn (“con cháu tổ phụ Abraham”); chính sự yên tâm này đã đưa một số người đến chỗ sống buông thả về luân lý và giải thích thái độ tự mãn tự phụ của người Pharisêu. Gioan khẳng định rằng tư cách đó không bảo đảm gì cả và có là “con cháu” (benayyâ’) hay là “các hòn đá” (abenyyâ’) thì cũng như nhau. Người Do Thái tưởng có thể kết luận rằng vì Thiên Chúa đã hứa, thì Ngài cần có Israel để trung thành với lời hứa. Gioan phản ứng để khẳng định sự tự do hoàn toàn của Thiên Chúa: Ngài có thể hoàn tất lời hứa khi loại trừ con cháu Abraham về xác thịt, nếu họ từ chối hoán cải, bởi vì Ngài có thể tạo thành một Israel mới (x. Mt 8,11-12; 21,43; Rm 9,6-8). Israel là một cây, nếu không sinh hoa kết trái tốt lành thì chỉ đáng chặt đi mà quăng vào lửa.
* Lời rao giảng về Đấng Mêsia (11-12)
Bây giờ bản văn giới thiệu dung mạo Đấng Mêsia. Ở đây nổi rõ những bận tâm Kitô học, nhưng cũng có bận tâm biện giáo: tác giả giới thiệu Đức Giêsu nhưng cũng xác định khoảng cách giữa Đức Kitô và vị Tiền Hô. Gioan đi trước Người, nhưng chỉ như người nô lệ đi trước chủ mình, để dọn đường. Gioan làm phép rửa, nhưng chỉ là phép rửa trong nước để thôi thúc đi tới hoán cải. Đấng Mêsia (“Đấng đang đến”: erchomenos) thì “mạnh [quyền thế]” hơn (ischyroteros) và làm một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. “Quyền lực” (ischys) là một phẩm tính của Thiên Chúa; nhưng đối với Is (9,6), đây là một đặc điểm của Đấng Emmanuel, và đối với Mt, đây là một đặc điểm của Đấng Mêsia (x. 12,29). Đứng trước Người, Gioan không xứng đáng làm công việc của một người nô lệ thông thường là xách dép cho chủ. Điểm này cho thấy vị Tẩy Giả hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng Mêsia.
Đấng Mêsia được giới thiệu như là Vị thẩm phán cánh chung: Người sẽ đến với sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa để loại trừ các kẻ bất chính và bất lương. Lịch sử Israel đã đến lúc kết thúc. Thời gian thu hoạch đã gần kề. Lúa đã được gặt về và đập rồi, nay chỉ con chờ được rê để tách vỏ trấu ra khỏi hạt gạo. Nhưng người nông phu (Đức Kitô) đã cầm nia trong tay mà rê sạch gạo. Rơm và trấu thì cháy nhanh, nhưng lửa sẽ thiêu đốt người gian ác thì sẽ cháy mãi cũng như sự gian ác của họ vẫn còn đó.
+ Kết luận
Như thế, bằng ba cách, Gioan đã khẳng định sự trổi vượt của Đức Giêsu: 1) Người là Đấng mạnh hơn, Người vượt xa Gioan bằng sức mạnh thực thụ. 2) Người có phẩm giá cao vời: ngay đến việc xách dép cho Người, Gioan cũng không xứng đáng. 3) Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, trong khi Gioan chỉ làm phép rửa trong nước.
Tuy nhiên, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả còn giúp chúng ta ở nhiều điều khác nữa. Đây không chỉ là một hồi niệm, nhưng còn là một lời khuyến cáo nghiêm khắc cho mọi người mọi thời. Qua bút pháp của Mt, lời rao giảng của Gioan cũng phản ánh cuộc bút chiến giữa các Kitô hữu tiên khởi với hội đường. Tuy nhiên, Mt cũng muốn gửi đến cho giáo đoàn Kitô hữu một sứ điệp. Lời mời gọi “hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” hẳn là nhắm đến các Kitô hữu hơn là đến người Pharisêu. Các Kitô hữu có thể nhìn vào người Pharisêu như nhìn vào một tấm gương để điều chỉnh đời sống mình.
Lời đe dọa bị kết án cũng liên hệ đến các Kitô hữu nào chỉ bằng lòng với việc nhận bí tích thánh tẩy mà không quan tâm sống phù hợp với những cam kết đã lấy. Vẫn còn đó ảo tưởng cho rằng mình là môn đệ của Đức Giêsu, là thành viên thực thụ của Họi Thánh, thì đã được bảo đảm hạnh phúc muôn đời.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho dân chúng biết rằng họ bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng vượt tình trạng thất sủng của họ.
2. Giống như các ngôn sứ tiền bối, Gioan tố giác một nếp sống đạo giả hình, chỉ hoàn toàn ở bên ngoài (x. Am 5,21-27; Is 1,10-20; Gr 7,1–8,3…), dần dần đưa tới một tình trạng cứng cỏi. Đức tin không phải là một di sản quốc gia hay dòng tộc, nhưng là một dấn thân của trọn vẹn con người. Trong cuộc dấn thân này, con người cứ phải liên tục rà soát lại bản thân để có thể đáp trả trọn vẹn hơn những đòi hỏi của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Các lời Gioan trách giới lãnh đạo Israel cũng liên hệ đến các nhà hữu trách của cộng đoàn Mátthêu, cũng như tất cả các vị hữu trách của mọi cộng đoàn Kitô hữu mọi thời. Các ngài cũng được mời gọi “sinh hoa quả tốt”. Và đây chính là tiêu chí giúp biện phân ra các ngôn sứ thật với các ngôn sứ giả.
___________________
[1] Accusative.
[2] Nghĩa là không có bổ ngữ nào theo sau. Bản dịch CGKPV đã thêm “của Thiên Chúa” vào cho rõ nghĩa.
59. Chú giải của Noel Quesson
Hồi ấy...
Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.
Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng
Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.
Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:
“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”
Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.
Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói... hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).
Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.
Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?
Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!
Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.
Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!
Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.
Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!
Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.
Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.
Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.
Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?
Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.
Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.
Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.
Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!
Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.
Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.
“Người ngự đến... còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.
Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.
Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu'. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam