Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 71
Tổng truy cập: 1442873
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ
VƯƠNG QUYỀN CỦA ĐỨC KITÔ (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ “Chúa Ki-tô Vua Vũ Trụ” đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Chúa Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua đã được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Lễ nầy kết thúc năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Kitô.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành, trong đó ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a mà muôn dân mong đợi không chỉ là vua, nhưng còn là mục tử nhân lành chăn dắt dân Ngài.
1Cr 15: 20-26, 28
Bài Đọc II, trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, trong đó thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Chúa Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài. Vào ngày chung cuộc, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực của Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày Ngày Chung Thẩm, vào ngày đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 tCn, ngôn sứi Ê-dê-ki-en thuộc đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa nầy bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân đội Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem và phá hủy Đền Thờ (588-587). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân đội Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo hạnh kiểm của các vua Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en từ ngôn sứ loan báo tai họa biến thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng: Sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
*1.Sứ điệp hy vọng.
Trước hết, sấm ngôn của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa): mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày sang Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Ngôn sứ hứa Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và quy tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tích, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Ngài sẽ trừng trị những mục tử gian ác, những kẻ cậy quyền dựa thế chà đạp những kẻ nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan hy vọng gởi đến cho những kẻ sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số của những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ lãnh đạo dân Ngài.
*2.Tôn giáo tình yêu.
Qua dụ ngôn người mục tử nhân lành, ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi sứ điệp còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và tín hữu của Ngài được trình bày như những mối liên hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”.
Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính trên những tiêu chuẩn tình yêu nầy mà vị Vua-Mục Tử tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, được thánh Phao-lô loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Việc kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác vốn ngăn trở linh hồn lại được thăng hoa cách viên mãn, vốn ngục tù giam hảm linh hồn lại được sống lại?
Đối với tư tưởng Do thái quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại được cắm rể trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ. Thánh nhân dành phần kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô nêu lên.
*1.Một sự liên đới giữa sự phục sinh của Đức Giê-su và sự phục sinh của chúng ta:
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta, liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Ki-tô, Ngài là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta được cứu.
*2.Vương quyền của Đức Giê-su.
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về ngày chung cuộc. Sau khi đã tiêu diệt dứt khoát mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Ngài đã được trao ban. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm phụng vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến nầy đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
*1.Con Người.
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển, sự hiện diện của các thiên thần vào ngày chung thẩm, là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi thuật ngữ “Con Người” được đặt ở đầu. Tước vị “Con Người” theo nguyên ngữ: “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một phàm nhân”: “Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là một nhân vật có nguồn gốc thiên giới, nhưng không kém phàm nhân.
Như vậy, Đức Vua, được gọi “Con Người”, giáng trần để xét xử trần gian nhắc nhớ, trước tiên Ngài cùng chia sẻ nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng nầy ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua-Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo khổ thua thiệt và bênh vực họ, đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức (Xh 2: 23-25). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo những từ ngữ loan báo Tin Mừng:
“Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,
lại còn lột cả áo che thân của họ.
Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,
người đói lả, anh từ chối bánh ăn.
Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành,
và cho người thần thế được định cư.
Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng,
các cô nhi, anh bắt phải bó tay.
Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía
làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
*2.Mến Chúa và yêu người.
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố “mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất ở nơi Ngài Thiên Chúa và nhân loại chúng ta?
Trong hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu của Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi làm hay không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã làm hay không làm cho chính Ta vậy”.
*3.Bối cảnh lịch sử.
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng nầy đã có thể có âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại đoạn văn nầy, những người Kitô hữu đang phải sống trong cảnh bị bách hại, chịu những gian truân tứ phía, bị tù đày. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải chính trên đường Đa-mát Đức Giê-su đã nói với Phao-lô, kẻ bách hại các tín hữu của Ngài: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9: 4) sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn nhiều.
*4.Tầm mức hoàn vũ.
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa… Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Hơn nữa, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ “Cánh Chung” với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Ki-tô: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại, Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.
(*) Tựa đề do BTT. GPBR đặt
ĐỨC GIÊSU KITÔ LÀ VUA- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ : Chủ đề hôm nay rất rõ và được khai triển trong tất cả 3 bài đọc cùng với bài đáp ca : Đức Giêsu là Vua
– Bài đọc I : Thiên Chúa là Vua-Mục tử ân cần chăm sóc từng con chiên mình.
– Đáp ca : Chúa là mục tử
– Tin Mừng : Đức Giêsu là Vua-Thẩm phán. Nhưng Ngài xét xử theo tình thương yêu.
– Bài đọc II : Đức Giêsu là Vua vũ trụ, nắm toàn quyền trên mọi sự và mọi loài.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Đức Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
– Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
– Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Êd 34,11-12.15-17)
Thiên Chúa đã đặt một số người làm mục tử để chăm sóc cho Israel là đoàn chiên của Chúa. Những người ấy là các vị vua, các tư tế và các luật sĩ. Nhưng họ chỉ biết lợi dụng chức vị để lo cho bản thân, bỏ mặc đoàn chiên bị bơ vơ, đói khát, bị trộm cướp và thú dữ bắt giết.
Vì thế, qua miệng ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa cho biết rằng Ngài sẽ lấy lại đoàn chiên khỏi tay những mục tử xấu ấy, và Ngài sẽ đích thân làm mục tử chăm sóc cho đoàn chiên mình.
*2. Đáp ca (Tv 22)
Thiên Chúa là một mục tử tốt : Ngài lo cho chiên có cỏ xanh để ăn, nước trong để uống, bóng mát để nghỉ ngơi.
Được làm con chiên do Chúa dẫn dắt, người tín hữu không sợ thiếu thốn gì cả ; dù đang bước đi trong thung lũng tối tăm, con chiên cũng không sợ vì biết rằng sau đó sẽ tới chỗ an toàn ; dù đang đối diện với quân thù, con chiên cũng an tâm vì biết có mục tử hùng mạnh bênh vực che chở mình.
*3. Tin Mừng (Mt 25,31-46)
Dụ ngôn này mô tả ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu xuất hiện như một vị Vua-Thẩm phán. Tất cả mọi người đều tập họp trước nhan Ngài để chịu xét xử. Tiêu chuẩn mà vị Vua-Thẩm phán ấy dựa vào để xét xử là cách sống yêu thương. Ngài cho rằng ai thể hiện tình yêu cụ thể với những người khốn khổ bé mọn tức là thể hiện tình yêu đối với Ngài và sẽ được trọng thưởng. Ngược lai, ai không yêu thương những người khốn khổ bé mọn cũng có nghĩa là không yêu thương Chúa nên bị trừng trị.
*4. Bài đọc II (1 Cr 15,20-26a.28)
Thánh Phaolô cũng nói tới ngày cánh chung. Khi đó Đức Giêsu sẽ làm Vua, chiến thắng tất cả mọi kẻ thù và nắm quyền trên mọi loài mọi vật. Ngài sẽ cho tất cả những ai tin Ngài được sống lại và cùng hưởng vinh quang với Ngài.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
*1. Một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng
Dựa vào các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta có thể mô tả một vị vua lý tưởng và một nước lý tưởng :
– Vị Vua ấy không chễm chệ ngự trị trong cung điện và trên ngai vàng, nhưng hoà mình với dân như một người mục tử sống với chiên, lo cho chiên và đồng hành với chiên.
– Vị vua ấy không bắt dân phải cung phụng và phục dịch mình, nhưng xả thân chăm sóc đến nỗi hiến cả mạng sống mình cho dân.
– Luật trong Nước của Vua ấy không rườm rà và khắt khe, nhưng là Luật Yêu Thương, rất đơn giản và ngọt ngào.
– Dân trong Nước ấy không hoan hô bằng miệng, không báo cáo bằng giấy, nhưng thực hiện Luật yêu thương một cách cụ thể bằng những việc giúp đỡ những người khốn khổ bé mọn.
– Mọi người trong Nước ấy đối xử với nhau một cách vừa tôn trọng vừa thương mến như đối xử với chính Chúa vậy.
Hình ảnh lý tưởng ấy không phải là hoàn toàn ảo tưởng : Vị vua lý tưởng ấy chúng ta đã có rồi, đó là Chúa Giêsu ; Luật lý tưởng ấy chúng ta cũng đã có rồi, đó là Luật yêu thương ; chỉ còn thiếu một điều là chúng ta phải cố gắng làm những công dân lý tưởng như Chúa đã dạy.
*2. “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”
Người Á đông chúng ta tuy không biết Thiên Chúa, nhưng có một quan niệm rất chính xác và cao sâu về Ông Trời : Ông Trời là chủ tể của mọi loài, không ai sống ngoài tầm kiểm soát của Ông Trời, sống theo ý Trời thì có phúc, làm ngược ý Trời thì bị phạt. Hai câu phản ảnh rõ nhất quan niệm trên là “lưới trời lồng lộng không ai thoát khỏi” và “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” (người sống theo Trời thì còn, người nghịch với Trời thì mất).
Dù là dân đen hay là vua chúa, dù nghèo hay giàu, dù trẻ hay già… cuối cùng rồi thì ai cũng chết và trình diện trước mặt Chúa, Vua Trời. Khi đó Vua Trời sẽ xét xử cuộc sống mỗi người. Ngài xét xử dựa trên Luật yêu thương. Người nào sống yêu thương là “thuận thiên” và sẽ được “tồn” trong hạnh phúc vĩnh hằng. Kẻ sống mà không yêu thương là kẻ “nghịch thiên” và sẽ “vong” vĩnh viễn trong cõi trầm luân.
*3. Mở mang Nước Chúa
Nước Thiên Chúa, đó là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu nói tới nhiều nhất, nhưng có lẽ đó cũng là một trong những điều chúng ta hiểu cách mù mờ nhất.
– Ngày xưa người do thái hiểu Nước Thiên Chúa chính là Nước Do Thái, một nước do thái hùng cường phồn vinh làm bá chủ nhiều nước khác. Hiểu như vậy là sai.
– Ngày nay nhiều người hiểu Nước Thiên Chúa là Giáo Hội, một Giáo Hội có rất đông tín đồ, một Giáo Hội có tổ chức quy mô, khiến cho người ngoài nễ phục. Hiểu như vậy có đúng không ? Thưa chỉ đúng một phần thôi, là phần bề ngoài, phần hình thức, phần tổ chức.
Hôm nay chúng ta hãy tìm hiểu thêm về Nước Thiên Chúa.
1). Lần kia các môn đệ hỏi Chúa Giêsu : “Thưa Thầy bao giờ Nước Thiên Chúa đến ?” Chúa Giêsu đáp : “Nước Thiên Chúa không đến như một điều gì có thể quan sát được, Người ta không thể nói Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, vì nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em” (Lc 17,20-21). Chúng ta hãy nghe cho kỹ Lời Chúa Giêsu nói : “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”, nghĩa là sao ? Nghĩa là đừng coi Nước Thiên Chúa như một tổ chức, dù là tổ chức quy mô đông đảo bao nhiêu đi nữa. “Nước Thiên Chúa đang ở giữa anh em” nghĩa là sao ? Có thể có 2 nghĩa : 1 là ở ngay trong lòng mỗi người ; 2 là ở một người nào đó đang âm thầm sống và làm việc giữa một tập thể đông người. Như thế Nước Thiên Chúa không phải là một tổ chức mà là một sức sống ; sức sống ấy không thể hiện nơi những hoạt động mà thể hiện nơi sức tác động (lặp lại).
Bởi thế trong các sách Tin Mừng, Chúa Giêsu đã không so sánh Nước Thiên Chúa với hình ảnh những đạo quân hùng hậu hay với những đám người đông đảo. Trái lại Ngài so sánh Nước Thiên Chúa với hạt cải và với nắm men, những hình ảnh nói lên sự nhỏ bé và âm thầm. Tuy nhiên nhỏ mà lớn, âm thầm mà rất mạnh. Hạt cải sẽ trở thành cây to, nắm men sẽ khơi dậy cả thúng bột.
Những suy nghĩ trên gợi lên ba ý nhỏ về việc xây dựng Nước Thiên Chúa :
1). Bởi vì “Nước Thiên Chúa không đến như điều gì có thể quan sát được”, cho nên chúng ta đừng quá chú trọng đến bề ngoài. Hãy xây dựng Nước Thiên Chúa ngay bên trong.
2). Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong lòng mình : Chúa Giêsu đã nói “Nước Thiên Chúa ở giữa anh em”. “Ở giữa” theo nghĩa thứ nhất là ở ngay trong lòng mỗi người. Cho dù chúng ta có làm hết việc này tới việc nọ, làm hết chỗ này tới chỗ khác, nhưng ngay trong lòng ta không có Nước Thiên Chúa thì tất cả cũng chỉ là công dã tràng thôi : “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Hãy tự vấn xem trong lòng mình đã có Nước Thiên Chúa chưa. Nếu chưa thì hãy xây dựng. Xây dựng bằng cách sống theo Luật Nước Chúa, tức là Luật yêu thương.
3). Xây dựng Nước Thiên Chúa ngay trong cộng đoàn của mình bằng cách góp phần làm cho cộng đoàn mình đang sống dần dần thành một cộng đoàn yêu thương.
*4. Mảnh suy tư
Mẹ Têrêsa nói : ngày nay có nhiều người đói thức ăn, nhưng cũng có nhiều người đói những thứ khác như đói được biết đến, đói được yêu thương, đói được tôn trọng…
Trần truồng không phải chỉ là không quần áo, mà còn là không nhân phẩm, không trong sạch, không tự trọng.
Vô gia cư không phải chỉ là không có nhà, mà còn là bị ruồng bỏ, bị coi là vô dụng.
Chứng bệnh nặng nhất của thế giới hôm nay là cảm giác bị bỏ rơi không ai để ý đến, không ai quan tâm chăm sóc.
Sự ác lớn nhất của thế giới hôm nay là thiếu tình yêu, là dửng dưng với người bên cạnh.
*5. Chuyện minh họa
a/ Ông Hoàng Hạnh Phúc
Oscar Wilde đã viết một câu chuyện rất đẹp, tựa đề là The Happy Prince, như sau :
Một Ông Hoàng kia sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
– Tại sao ông khóc ? Ông là Ông Hoàng Hạnh Phúc kia mà !
– Từ khi đứng trên cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không ?
– Không được, tôi phải bay đi Ai Cập.
– Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
– Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì ?
– Trong một túp lều đàng kia có một người mẹ đang khóc vì con à bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác, con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời đã lạnh rất nhiều.
Một buổi sáng, người ta thấy xác con chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
b/ “Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói đâu… ?”
Năm 1880, ở thành phố Paris, có một Linh mục ăn mặc nghèo hèn đến gõ cửa nhà một Cha Sở xin được trọ qua đêm. Cha Sở tiếp khách rất thờ ơ rồi chỉ cho Linh mục ấy lên chiếc gác xép nhà xứ. Linh mục ấy tên là Gioan Bosco, từ Turin nước Ý sang Paris để quyên tiền về xây trường giáo dục các thiếu niên.
Nhiều năm sau, Giáo Hội đã tôn phong Gioan Bosco lên bật hiển thánh. Khi nghe tin đó, Cha Sở nọ nói : “Phải chi lúc đó tôi biết ông ấy là Don Bosco thì tôi đâu có để Ngài ở trên cái gác xép ấy, trái lại tôi đã dành phòng khách sang trọng nhất cho Ngài rồi”
Chúng ta không bao giờ biết rõ những kẻ chúng ta gặp là những người như thế nào. Nhưng điều này không quan trọng. Điều quan trọng đối với những kẻ có đức tin là chính Chúa hiện thân trong những người ấy.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Đức Kitô là Vua toàn thể vũ trụ, nhưng là một vị vua của tình thương và hòa bình. Với tâm tình yêu mến vị vua nhân ái, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / đặc biệt là các vị mục tử / luôn luôn là những tấm gương yêu thương sống động.
2- Hoà bình và phát triển là hai mơ ước tha thiết của hết thảy mọi người đang sống trên hành tinh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ước mơ trên của con người / sớm trở thành hiện thực trong đời sống thường ngày.
3- Trong quan hệ giữa con người với nhau / nếu thiếu tình người thì không thể có những mối liên hệ tốt đẹp được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng đem tinh thần bác ái yêu thương vào trong đời sống xã hội / để mọi người yêu thương / tôn trọng và tin tưởng nhau.
4- Thánh Phaolô nói / “Sống yêu thương là chu toàn cả lề luật Chúa” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống trọn vẹn đức bái ái yêu thương đối với tất cả mọi người.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chinh phục nhân loại bằng tình thương hy sinh của Chúa. Xin cho chúng con cũng biết noi gương Chúa, lấy lòng bác ái mà đối xử với nhau, và cách riêng đối với những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhờ đó chúng con có thể giới thiệu Chúa cho những người thành tâm thiện chí. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam