Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1446863

VUA AN BÌNH, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ

Vua An Bình, Yêu Thương và Phục Vụ

(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)

Nói đến "vua", chúng ta lập tức liên tưởng đến một nhân vật đầy uy quyền, với trăm ngàn người hầu hạ, với cung điện nguy nga, y phục lộng lẫy, với cuộc sống vượt trên mọi người... Nhưng nếu đó là những hình ảnh và đặc điểm của bậc vua chúa, thì qủa thực, người thanh niên sinh quán tai Belem và lớn lên tại Nadarét có tên là Giêsu, nhất định không phải là vua, vì Anh xuất thân từ một gia đình nghèo, sinh ra tại một chuồng bò, sống bằng nghề thợ mộc, và sau cùng chấp nhận cái chết ô nhục, đau thương, phải chôn nhờ nơi phần mộ của người khác. Thế nhưng, trong cuộc sống của Anh thợ mộc này, có những điều làm chúng ta suy nghĩ:

- Dù Anh sinh ra tại một chuồng bò, nhưng các đạo sĩ ở Đông Phương lại nói: "Đó là Vua người Do Thái mới sinh ra, nên chúng tôi tới đây mang theo lễ vật để triều bái Ngài" (Mt 2,2).

- Khi dân chúng muốn tôn phong Anh làm vua, thì Anh lại trốn đi một nơi khác (Gio 6,15).

- Thấy Anh cỡi lừa vào Giêrusalem, dân chúng lớn tiếng tung hô Anh: "Hoan hô vua Israel" (Gio 12,13).

- Khi Anh bị dẫn đến trước tòa án, vấn đề "làm vua" lại được đặt ra. Thật vậy, khi Philatô hỏi: "Anh có phải là vua không?", Anh đã thẳng thắn và dõng dạc đáp: "Ông nói đúng..." (Mat 27,11; Lc 23,23).

- Chính lúc Anh bị đóng đinh trên thập giá, người ta lại nhìn thấy phía trên thập giá có hàng chữ "Giêsu Nadarét, Vua người Do Thái" (Gio 17,19; Mt 27,37).

- Sau cùng, trước giờ chết, khi một tử tội cùng bị đóng đinh với Anh nói với Anh: "Thưa Ngài, khi nào Ngài trở lại vương quốc của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi với", Anh hứa ngay: "Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta" (Lc 23,42-43).

Như vậy, Đức Kitô qủa thực là một vị vua, nhưng là một vị vua khác hẳn với các vua chúa trên trần gian; vương quốc của Ngài không thuộc về trần gian này, cũng không nằm trong những ý niệm mà người ta vẫn thường có, khi nghĩ về một vị vua chúa. Chính Ngài đã khẳng định trước mặt Philatô: "Tôi là vua... nhưng nước tôi không thuộc về trần gian này" (Gio 18,36). Tuyên bố như thế, Chúa Kitô cho chúng ta hiểu rằng: Ngài là một vị vua có những tâm tình và chủ trương khác hẳn với mọi vua chúa trần gian. Thay vì bắt người ta phục vụ mình thì Ngài hạ mình xuống, đích thân phục vu mọi người. Ngài nói: "Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ mọi người" (Mc10,45). Đồng thời Ngài cũng kêu gọi con dân trong nước Ngài phải noi gương Ngài: "Anh em biết rằng, những người được coi là lãnh tụ trong các quốc gia thì cai trị dân chúng, còn anh em thì không được như thế. Ai làm lớn thì hãy trở thành đầy tớ cho anh em mình, ai muốn thành người thủ lãnh thì hãy trở thành nô lệ cho mọi người" (Mc 10,43-44). Về điểm này, đức Kitô đã đích thân làm gương khi Ngài qùy gối xuống rửa chân cho các môn đệ. Thay vì mọi người phải bảo vệ mạng sống cho vua thì Ngài lại liều chết để cứu sống con dân của mình. Thay vì dùng lãnh thổ, ngôn ngữ, màu da để xác định công dân của mình thì Ngài dùng giới luật yêu thương làm nguyên tắc nhập tịch cho những ai muốn trở thành công dân trong nước của Ngài; và đây cũng là điều luật căn bản trong quốc gia của Ngài. Ngài nói: "Người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thày, là anh anh em thương yêu nhau" (Gio 13,35b); "Yêu thương nhau chính là giới răn mới mà Thày truyền cho anh em" (Gio 15:12, 17).

Ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta chính thức trở thành công dân trong vương quốc của Vua Giêsu. Xin cho ân sủng của bí tích giúp chúng luôn sống xứng đáng là những công dân tốt trong vưong quốc này, vương quốc của an bình, của yêu thương và phục vụ.

 

27. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

ĐỨC VUA GIÊSU YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ VÀ BẢO VỆ BẠN

(Bế mạc Năm Đức Tin 24/11/2013)

Chế độ quân chủ ở Việt nam đã chấm dứt năm 1945 với chiếu thoái vị của vua Bảo Đại. Từ đó đến nay, người ta không ngừng phê phán chế độ quân chủ, coi các vua như là những kẻ chỉ biết ăn chơi hưởng thụ, và ca ngợi chế độ mới, mà không công tâm để đánh giá lại những đóng góp to lớn của các vua Nhà Nguyễn ở nước ta. Cũng vì thế khiến cho nhiều thế hệ mang một hình ảnh không tốt đẹp về các vị vua. Thế nhưng từ ban đầu các vua không phải là những con người xấu xa trụy lạc, mà là những thủ lãnh hết mình vì dân, mở rộng bờ cõi, xây dựng hòa bình, bảo vệ dân, chăm lo cho dân như cha mẹ lo cho con cái. Ngược lại, dân chúng cũng tỏ ra yêu mến kính trọng và hết sức tùng phục nhà vua của họ. Chúng ta có thể nhìn điều đó nơi thái đô cung kính và lòng yêu mến mà dân Thái Lan dành cho Đức Vua của họ, hoặc dân Anh dành sự tôn kính cho Nữ Hoàng.

Hôm nay, bước vào tuần lễ cuối cùng của năm phụng vụ, cũng là ngày bế mạc Năm Đức Tin, Giáo Hội tôn xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, để mời gọi chúng ta yêu mến, biết ơn, tôn vinh và đặt Ngài làm vua hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mình.

Tôn vinh Chúa Giêsu làm vua, Giáo hội muốn lấy lại hình ảnh đẹp nguyên thủy về một vị minh quân để diễn tả về quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu đối với chúng ta. Đồng thời tôn vinh Ngài là Vua là Chúa, Đấng làm chủ của vũ trụ, mọi vật mọi loài trên trời và dưới đất. Ngài là Vua vì chính Ngài là vị Thiên Chúa quyền năng tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài, và Ngài vẫn tiếp tục quan phòng, truyền hơi thổi sức sống cho vũ trụ để vũ trụ này chuyển vần theo một trật tự tốt đẹp. Ngài là vua, là chủ, vì Ngài đã tạo dựng nên con người và còn cho con người được cộng tác với Ngài trong việc duy trì và làm cho vũ trụ và cuộc sống con nguời mỗi ngày tốt đẹp hơn.

Khác với nhiều vị vua trần thế tìm kiếm quyền lực và vinh quang cho bản thân và dòng dõi, thì Đức vua Giêsu là Đức Vua yêu thương dân Ngài như người cha yêu thương con cái, như mục tử yêu thương đàn chiên. Kinh Thánh đã dùng hình ảnh của Vua Đavít để báo trước về sứ mạng và vai trò của vua Giêsu, vì Đavít được gọi là một vi vua thánh. Ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành người dẫn dắt dân Chúa. Chính ông đã đem lại cho dân Chúa một thời kỳ thái bình thịnh vượng nhất trong lịch sử. Bài đọc sách Samuel hôm nay thuật lại giai đoàn đầu triều đại nhà vua, khi ông lên ngôi làm vua các chi tộc phía Nam đất Giuda, tiếng tăm về lòng đạo đức cũng như sự tài khéo, lòng yêu thương của ông đã khiến cho các chi tộc miền Bắc thuộc đất Israel kéo đến để xin ông cũng làm vua của họ, hường dẫn họ và bảo vệ họ: Chúng tôi cũng là cốt nhục của Ngài, xin Ngài cũng hãy làm vua chúng tôi. Chính Đức Chúa cũng đã nói với Ngài rằng: Chính Người sẽ chăn dắt Israel dân ta.

Chúa Giêsu là vị vua phục vụ. Khác với các vua chúa trần gian ngồi trên ngai vàng để được nguời khác phục vụ, thì Vua Giêsu đã không chỉ bước xuống khỏi địa vị Thiên Chúa của mình, mà Ngài còn bước đến với con người, và cúi xuống để phục vụ con người. Ngài phục vụ bằng cách tìm kiếm con người nhất là những con người lầm lạc để đưa họ về với con đường của Thiên Chúa, Ngài đã đem Tin Mừng tình thương cứu độ đến cho mọi người, Ngài nâng dậy những ai gục ngã, an ủi kẻ đau khổ, chữa lành kẻ bệnh tật. Ngài đã biến mình thành người phục vụ như một người tôi tớ, Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, và cuối cùng Ngài đã trao tặng cả máu thịt mình để phục vụ cho sự sống của con người.

Đức Giêsu là vị vua bảo vệ chúng ta. Giống như vị vua phải xông pha trận mạc để bảo vệ dân mình, thì Đức Giêsu, như người mục tử đã hết mình bảo vệ chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi sự tấn cống của sói dữ là ma quỷ, và khỏi những nguy hiểm của tội lỗi, chấp nhận mang lấy thương tích vào mình. Trong trận chiến quyết liệt cuối cùng trên thập giá, Ngài đã chấp nhận cả cái chết để thế mạng cho chúng ta và cứu chúng ta khỏi chết. Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Colose: Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha đã làm cho anh em xứng đáng chung hưởng phần gia nghệp…Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi uyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái. Trong Thánh Tử, ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.

Tuy nhiên để nhận ra Đức Giêsu là vua và tôn vinh Ngài, cần phải có một cái nhìn chính xác về Ngài đó là cái nhìn trong đức tin và đón nhận vương quyền của Ngài. Nếu nhìn theo con mắt bên ngoài, thì cuộc chiến của Chúa Giêsu trên thập giá là một cuộc thất bại nặng nề. Tiêu biểu cho cái nhìn sai lạc và kiêu ngạo này là cái nhìn của các thủ lãnh Do Thái và của tên trộm dữ. Những thủ lãnh Do Thái khi đã treo được Người lên thập giá, họ thỏa mãn với sự căm thù, lòng ghen tương ích kỷ của mình, họ tưởng rằng họ đã trả thù được ông Giêsu, và họ còn nhạo cưới thách thức: Hắn đã cứu được người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thực sự hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa! Để thỏa mãn cho sự cao ngạo của mình và gây nhục nhã cho Chúa Giêsu, họ đã dâng cho Ngài giấm chua để uống, và còn đóng phía trên thập giá bản án viết rằng: Đây là vua người Do Thái. Bản án ấy vô tình lại trở thành lời giới thiệu và xác nhận vị thế của Chúa Giêsu là vua. Không khác gì những nhà lãnh đạo do Thái, tên trộm bị đóng đinh cùng Đức Giêsu cũng dựa vào cái nhìn bên ngoài để thách thức Chúa: Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu mình và cứu cả tôi nữa!

Ngược lại, với cái nhìn của lòng tin và sự khiêm nhường, người trộm lành đã đứng ra bênh vực Chúa Giêsu, anh ta tin rằng Ông Giêsu này là một người công chính và là Thiên Chúa và cái chết của Ngài chắc chắn khác với cái chết của anh, và anh nói cho tên trộm dữ kia biết rằng: mày cùng chịu đồng một án, mà mày không kính sợ Thiên Chúa sao? Chúng ta chịu như thế này là đích đáng với việc chúng ta đã làm, còn ông này ông có làm gì xấu đâu? Vì tin, anh đã xin được gia nhập vào vương quốc của Đức Giêsu và làm thần dân của Ngài và anh ta khiêm tốn thưa với Chúa Giêsu: Lạy Ngài khi nào về Nước của Ngài xin nhớ đến tôi! Chúa Giêsu đã đón nhận anh khi tuyên bố: Ngay hôm nay ngươi sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.

Thưa quý OBACE, sau một năm cử hành Năm Đức Tin, chúng ta cùng với cả Giáo Hội có dịp nhìn lại và làm mới đời sống đức tin của mình, đồng thời mỗi người sẽ trở thành người bảo vệ và giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh. Tin Đức Giêsu là vua, có nghĩa là đón nhận và mời Ngài vào làm chủ cuộc đời của mình, của gia đình, như xưa những người Israel đã đến mời Đavit làm vua của họ, để Ngài điều khiền, hướng dẫn và bảo vệ bản thân và gia đình khỏi sự tấn công của ma qủy và những cám dỗ ngày nay. Tin và tuyên xưng Chúa là vua là dám sống phó thác cho sự chăm sóc quan phòng yêu thương của Ngài.

Với các bậc làm ông bà cha mẹ, hãy để Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn của mình, để Ngài điều khiển hướng dẫn nếp sống của bản thân và gia đình, biết dành ưu tiên cuộc đời và thời giờ cho Chúa. Tôn vinh Ngài làm vua còn là biết mở rộng tâm hồn đón rước Ngài bước tâm hồn vào qua Bí Tích Giải tội và Thánh Thể. Vì qua Bí tich Giải tội, Ngài thực sự là một vị vua nhân từ xét xử khoan dung và tha thứ, đồng thời chăm sóc chữa lành cho tâm hồn chúng ta. Qua Bí tích Thánh Thể, Vua Giêsu đã phục vụ chúng ta cho đến cùng, đã trao ban mình máu Người làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn và cuộc sống chúng ta. Hãy tôn vinh Ngài là vua của gia đình, để hết mọi thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ, con cái luôn thấy Ngài hiện diện và bảo vệ cho hạnh phúc gia đình của mình.

Ngày nay giới trẻ cũng đang tìm và tôn cho mình những vị vua như vua bóng đá, vua nhạc rock, và các thứ vua khác như là thần tượng của mình, mà họ lại quên rằng vua Giêsu mới thực sự là lý tưởng là cùng đích cho cuộc đời của mỗi người. Chỉ có Ngài mới là Đấng có thể giải thoát và cứu độ chúng ta, chỉ có Ngài mới có thể giải gỡ được những băn khoăn trắc trở trong cuộc đời và chỉ có Ngài mới dẫn chúng ta tới hạnh phúc đich thực mà thôi. Vì thế đừng sợ trở thành thần dân của vua Giêsu, đừng sợ suy tôn Ngài và để Ngài dẫn dắt mình, vì Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta trái lại, Ngài luôn yêu thương phục vụ và bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của các trào lưu xấu của xã hội hôm nay. Amen.

 

28. Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện)

"Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!"

Bài tin mừng hôm nay (Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại những giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính trong khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được mạc khải một cách rõ nét.

1. “Nếu hắn là Vua Kitô” (cc.35-39)

Mở đầu bài tin mừng là ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và do một tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos) thì đứng nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là tò mò).

Trước tiên là sự cười nhạo của các vị thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: "Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!"” (c. 35). Lời của các vị thủ lãnh ở đây có hai giá trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày như một người có tài làm phép lạ (“cứu được người khác”), nên lời thách thức “cứu lấy mình đi” trong thực tế là một lời nhạo báng tương tự như trong 4,23 “thầy lang ơi hãy chữa lấy mình”. Thứ hai, đặt trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu “hãy cứu lấy mình đi” đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách Mêsia.

Sau lời nhạo báng của các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là những người lính Rôma (x. 23,47). “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (cc.36-37). Lời chế giễu của bọn lính Rôma cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh đạo Do Thái, nhưng tập trung trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng thứ hai trong cuộc cười nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế giễu này, tấm bảng ghi bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành phần của lời chế giễu về phương diện “chính trị”: “Phía trên đầu Người, cũng có bản án viết: "Đây là vua dân Do Thái” (c.38).

Lời nhạo báng thứ ba tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. (Chúng ta không có cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là một người Do Thái hay một người dân ngoại). “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!" (c.39). Lần thứ ba xuất hiện ngữ đoạn “hãy tự cứu mình đi”, sau đó là một yếu tố được thêm vào cho phù hợp với hoàn cảnh của tên gian phi: “và cứu cả chúng tôi nữa”. Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong 9,24: “Ai đành mất mạng sống mình… thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Nội dung sự cười nhạo của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng ta hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của Đức Giêsu.

Là Vua Mêsia, Đức Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên vô cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?

Mỗi năm chúng ta đều mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình, trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán trách và than thở…

Hóa ra Đức Giêsu vẫn có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ đệ của Ngài.

2. “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (cc.40-43)

Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng hết sức ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái" (cc.40-41). Người trộm lành thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.

“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: "Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!" (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau khi đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: “Giêsu!”. Đây là lần duy nhất trong Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế này. Trong một số trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng luôn luôn kèm theo một sự xác định như: “Lạy Thầy Giêsu…” hay “Giêsu Nadaret”… Người trộm lành đã sám hối bây giờ không hướng về Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và công nhận tư cách và vai trò Mêsia của Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia Phục Sinh mà anh có thể có tương quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.

“Và Người nói với anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu độ tương lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực hiện theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.

Đức Giêsu chịu đóng đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước hết đến những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa. Ngài hứa với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn trên Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên gian phi đang bị kết án tử hình.

Lời tuyên bố long trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan trọng của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập thể, là chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn quan khải huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác, ơn cứu độ là thực tại của “hôm nay” và của cá nhân, chứ không phải chỉ là thực tại của tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương quyền của Người ngay hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.

Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua.

 

29. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua - Lm Giacôbê Tạ Chúc

Nói đến Vua là nói đến quyền lực, sức mạnh, sự giàu sang phú quý. Nhưng với vị vua Giêsu thì điều hoàn toàn ngược lại. Sức mạnh nơi Ngài là tình yêu, quyền lực của Ngài là sự khiêm hạ, và giàu sang của Ngài là phục vụ. Giáo Hội suy tôn Ngài là Vua vũ trụ, bởi chính Ngài là khởi thủy, và cùng tận.

Vua tình yêu

Thiên Chúa là tình yêu. Định nghĩa của Gioan rất đơn giản nhưng chứa đựng cả một bể khơi nguồn tình yêu. Đức Giêsu đã tế hiến cuộc đời của mình cho tình yêu nhân loại. Ngài là vua của tình yêu. Vương quốc của Ngài không xây dựng trên bạo lực, bạo quyền, mà được xây dựng trên tình yêu thương. Khí giới Ngài dùng là đỉnh cao Thập Giá. Phía trên đầu Ngài là tấm bảng được ghi: “Đây là vua người Do Thái” (Lc 23, 38).

Vua khiêm hạ

Thông thường các vị vua chúa trần gian hay kiêu căng, ác độc. Hê-rô-đê bạo chúa đã gây biết bao tội ác và đưa đến cái chết cho Gioan Tẩy Giả. Tần Thủy Hoàng với Vạn lý trường thành đã nhuộm đỏ máu xương của biết bao người. Kiêu ngạo và độc ác đã gây nên biết bao là oan khiên. Còn Đức Giêsu, vị vua không biên cương lãnh thổ, không triều đình không quân lính. Vị vua cỡi trên lưng lừa trong ngày vào thành Giê-ru-sa-lem để hoàn tất cuộc đời mình, với cái chết cô đơn trên Thập Giá, giữa những người gian phi.

Vua phục vụ

Ngài đến trần gian là để hầu hạ và phục vụ con người. Bao năm rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu đã tận tụy phục vụ một cách nhưng không cho con người. Ngài rong ruổi khắp nơi, để tìm kiếm và cứu chữa con người. Những người đau ốm, những kẻ bị quỷ ám, những người đơn côi, những kẻ tội lội đều được Ngài tận tình chăm sóc cả hồn lẫn xác. Cử chỉ phục vụ của Ngài được thể hiện cô đọng lại trong đêm bị trao nộp. Ngài đã cúi xuống và rửa chân cho các môn đệ. Cử chỉ của một người tôi tớ phục vụ cho các ông chủ của mình. Ta đến không phải để phục vụ mà là phục vụ muôn người: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại ai lớn nhất trong anh em thì phải nên như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, thì hãy nên như người phục vụ” (Lc 22, 25-26).

Lạy Đức Vua Giêsu, xin cho chúng con là những kẻ tôi tá Ngài biết sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ anh chị em mình. Xin cho chúng con chỉ biết phụng sự, và tôn thờ một mình Ngài là Vua của chúng con. Amen.

 

30. Đức Vua Cứu Thế - AM. Trần Bình An

Vua Bhumibol Adulyadej (1927- 2016) còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan trị vì từ năm 1946 cho đến khi mất ngày 13 tháng 10, 2016. Vua Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới và là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử Thái Lan. Trong suốt triều đại của ông, Thái Lan đã trải qua 30 đời thủ tướng. Ông sử dụng tài sản to lớn của mình, theo Forbes là khoảng 30 tỷ USD, để cung cấp tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn.

Vua Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Có hơn 3.000 đề án do quốc vương khởi xướng, được triển khai trên toàn quốc, nhằm cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan, như giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, với mục tiêu phát triển bền vững.

Sau năm 2006, sức khỏe của vua Bhumibol bị suy giảm và ông đã trải qua thời gian dài tại Bệnh viện Siriraj. Ông được người dân Thái Lan hết sức tôn kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái gần như một thần linh. (Wikipedia)

Vua Bhumibol được dân Thái Lan vô cùng kính trọng, quý mến vì là bậc minh quân, yêu nước, thương nòi, đã tận tuỵ giúp dân giàu nước mạnh, thật xứng đáng là tấm gương phụ mẫu thiên hạ. Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng Đức Giêsu, Vua Cứu Thế, vĩ đại hơn, cao cả hơn tột bậc, dù cai quản cả hoàn vũ, nhưng Người không thuộc cõi thế, như Người đã phán: “Nước tôi không thuộc trần gian này.” (Ga 18, 36) Người là Đức Vua vô cùng chí hiếu, rất mực khiêm nhu, cực kỳ chí ái và tận tâm phục vụ nhân loại.

Đức Vua chí hiếu

Nhập thể với thân phận thanh bần, nghèo nàn, khốn khó, Đức Vua Giêsu vẫn luôn trung thành, vâng theo Thánh Ý Chúa Cha, từ thuở thơ ấu cho đến khi chịu tử nạn. "Sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?" (Lc 2, 49) Sự hiếu thảo, vâng lời tuyệt đối chính là lẽ sống của Người: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34)

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn kinh hoàng, Người sợ hãi đến vã mồ hôi máu, nhưng vẫn kiên trung, thảo kính khấn nguyện: “Xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn”(Mc 14, 36). Đức Vua Giêsu chính là hiện thân Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê. (Is 42,1-4)

Người yêu mến và hết lòng vâng phục Cha, đến nỗi chịu chết để cứu độ nhân loại, hầu biểu lộ công khai cho nhân loại thấy Lòng Thương Xót của Thiên Chúa khoan dung biết dường nào.

Đức Vua khiêm nhu

"Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn." Trước những lời khiếm nhã, khiêu khích ấy, Đức Vua Giêsu vẫn một mực khiêm nhu, nhẫn nhục, im lặng, cam chịu những lời phỉ báng, hỗn xược, thách thức, của loài thọ tạo, qua miệng những thủ lãnh, lính tráng và người gian phi bên tả. Y như Người đã từng khéo léo tránh được được ma quỷ cám dỗ về quyền lực trong hoang mạc (Lc 4, 5-12).

“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,9). Người từng mời gọi mọi người hãy noi gương khiêm nhu. Người chẳng tỏ ra bực dọc, hận thù, oán thán những xúc phạm thô bạo, bởi vì “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Pl 2,7)

Đức Vua chí ái

Trước những tiếng nhạo báng cay độc, hằn học, chế giễu của những kẻ ganh ghét, căm thù, Người vẫn bình thản, không chấp nhất, cũng chẳng đáp lại nửa lời. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót, độ lượng, tha thứ, còn nài xin Cha thứ tha. “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)

Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Người vẫn luôn nhân từ, khoan dung, quên mình, để yêu thương người trộm bên hữu, biết tin cậy vào Người và ăn năn, hối cải: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta.” Lời của Đức Giêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và bình an. Với tình thương, Người đã hành động chính xác như lời Người đã loan báo về sứ vụ của Người. “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mc 2, 17)

Lề luật chính yếu của Đức Vua chí ái ban cho thần dân là tình yêu: "Đây là giới răn của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.” (Ga 15, 12) Đỉnh điểm tình yêu là cuộc khổ nạn, Đức Vua chí ái hiến mạng sống cứu độ nhân loại.

Đức Vua phục vụ

“Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người.” (Mc 9, 35) Người là Vua vũ trụ, là Vua cả nhân loại, nhưng Người không đến cai trị, áp bức thần dân như thói đời, mà thi hành vương quyền bằng cách yêu thương, hăng say phục vụ nhân loại, đến nỗi sẵn sàng chết cho con người, dù thế gian từ chối Người, chế giễu, thậm chí thách thức Người. “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5, 21)

Trước bữa Tiệc Ly, Đức Vua Cứu Thế còn quỳ xuống, rửa chân cho từng môn đệ, nêu gương cho các ông biết tận tâm phục vụ. “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”(Ga 13, 14)

Phục vụ tha nhân là thể hiện một cách cụ thể đức ái. Nhất là phục vụ những người bé nhỏ, đau khổ, nghèo khó, bị bỏ rơi, chính là phục vụ Đức Vua Giêsu, trên hết các vua, các chúa trần gian. “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống,…" (Mt 25, 35)

“Con đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy hiểu nghĩa dấn thân sâu hơn: Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công.” (Đường Hy Vọng, số 605)

Lạy Đức Vua Cứu Thế, xin cho chúng con noi theo gương tốt lành của Người, mà vâng theo Thánh Ý, sống khiêm nhu, luôn tha thiết yêu thương và tận tình phục vụ tha nhân, để có thể trở nên chứng nhân như Lòng Chúa hằng mong đợi.

Khấn xin Mẹ Maria, cầu bầu cho chúng con luôn trông cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Vua Cứu Thế, để sớm thức tỉnh sám hối, ăn năn trở về với Chúa luôn. Amen.

home Mục lục Lưu trữ