Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 91

Tổng truy cập: 1452452

TRUYỀN THỐNG VÀ CHỮ TÂM

Truyền thống và chữ ‘Tâm’.

(Suy niệm của Lm. Gérard Bessière & Hyacinthe Vulliez)

“Các ông đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà giữ truyền thống của phàm nhân”

Trong bài Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay, các vị kinh sư, luật sĩ từ Giêrusalem kéo tới để chất vấn Chúa về chuyện truyền thống. Đức Giêsu đã bài bác họ, sau đó Ngài bày tỏ lập trường dứt khoát của mình.

Mấy vị đó chỉ làm bộ hỏi, thực ra là họ muốn lên án, vì họ nghĩ là họ nắm vững lẽ phải trong tay, dĩ nhiên là lẽ phải do họ đặt ra, áp đặt người khác phải chấp nhận.

Họ đề cập đến truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa. Theo Sách Xuất Hành (Xh 30,17-21), các tư tế bắt buộc phải rửa tay trước khi cử hành các nghi lễ phụng tự. Các luật sĩ đã thêm vào giới luật này nhiều chi tiết rắc rối. Họ bắt buộc mọi người trước khi dùng bữa phải rửa tay, vì “mỗi bữa ăn đều là hành vi tôn giáo và toàn dân Israel là một dân tộc tư tế”. Đức Giêsu đã phản bác họ. Ngài nói: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói rất đúng về các ông là những kẻ giả hình, khi viết rằng: “Thiên Chúa phán: “dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”… Họ đã bỏ điều răn của Thiên Chúa mà chỉ giữ truyền thống của phàm nhân. Do đó mà họ có thờ phượng Thiên Chúa thì cũng vô ích, vì giáo lý của họ chỉ là giới luật phàm nhân, đúng như ngôn sứ Isaia nhận xét.

Thật vậy, Thiên Chúa chỉ ban mười giới luật, tóm lại là hai điều rút lại chỉ còn một điều duy nhất là mến Chúa yêu người. Còn luật sĩ và Pharisêu thì tạo ra hằng trăm khoản luật để khoác vào cổ dân chúng. Tất cả có 613 điều luật! Rõ ràng, truyền thống mà các vị đó đề cập chỉ là truyền thống người đời đã đặt ra. Cũng như luật kiêng cữ một số đồ ăn (như thịt heo) rõ ràng là một truyền thống phàm nhân đặt ra một cách tùy tiện. Theo truyền thống thì những thực phẩm này được coi là ô uế, dơ bẩn. Đức Giêsu phản bác lại bằng lập trường của Ngài: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người, lại có thể làm ô uế con người được. Nhưng cái gì từ con người xuất ra, mới là cái làm cho con người trở thành ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, xuất phát những ý đồ xấu xa…”.

Đức Giêsu đã phân biệt rõ rệt cái tục với cái thanh, cái ô uế với cái trong sạch, cái trong với cái ngoài, cũng như ta nói cái hình với cái tâm. Khi ta đã có cái tâm trong trắng, thì chẳng có cái gì là dơ bẩn cả. Nhưng một khi cái tâm đã bị ô nhiễm những ý đồ xấu xa, thì mọi sự trở nên ô uế. Và truyền thống đích thực là giữ sao cho cái tâm của ta được đập cùng một nhịp với thánh tâm Đức Giêsu, là “lò lửa mến hằng cháy”, mọi tà tâm sẽ bị thiêu rụi trong ngọn lửa mến rực cháy ấy.

 

47. Suy niệm của Chiara Lubich.

“Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống”

Một Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta như những người bạn của Người! Dân Israel hãnh diện có được một Thiên Chúa rất gần gũi với họ, Đấng ban cho họ lề luật và những quy tắc rất công minh, như ta có thể đọc thấy trong đoạn này của sách Đệ Nhị Luật là một phần của Cựu Ước hoặc Giao Ước Đầu Tiên (xem Đnl 4,7-8).

Chính vì Lời Chúa có sức lôi cuốn phi thường, nên ta có nguy cơ tin rằng chỉ cần nghe không là đã đủ. Thay vào đó, Lời Chúa phải đem ra thực hành. Đó là điều quan trọng.

Cả trong Tân Ước, tông đồ Giacôbê cũng đã cảnh báo các Kitô hữu tiên khởi rằng: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1,22). Môsê cũng dạy như vậy khi ông tuyên đọc những lời này với người Israel: “Giờ đây, hỡi Israel, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống”

Vậy ta hãy lắng nghe và sống Lời Chúa.

Hơn nữa, chính Đức Giêsu hiện diện trong lời của Người; những lời đó là chính Đức Giêsu. Những lời của Người là vĩnh cửu, và do đó chúng thích hợp với mọi thời đại. Chúng phổ quát, có giá trị đối với mọi người, vượt qua mọi chủng tộc và mọi nền văn hóa. Chúng không đơn thuần chỉ là những lời khuyên nhủ, những đề nghị hoặc lệnh truyền. Lời của Người chứa đựng và ban truyền sự sống.

Cuối Bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu để lại cho ta một dụ ngôn nổi tiếng (xem Mt 7,24-27). Người so sánh những ai hồ hởi phấn khởi khi nghe Lời của Người nhưng rồi không thực hành trong cuộc sống với ngôi nhà xây trên cát. Khi gió mưa ập đến – nghĩa là những đề nghị, tư tưởng khác dễ dãi hơn, có sức cuốn hút và lừa dối bằng thứ ánh sáng lấp lánh chóng qua – thì những người này gục ngã rất đáng thương bởi vì sứ điệp Phúc Âm đã không trở thành sự sống nơi họ.

Đức Giêsu sau đó so sánh những ai biết đem Lời của Người ra thực hành với ngôi nhà xây trên đá: thử thách, cám dỗ, nghi nan, và hoang mang có thể xảy ra, nhưng những người này vẫn vững vàng tiến bước trên con đường Phúc Âm. Họ tiếp tục tin vào Lời Chúa bởi vì họ đã cảm nghiệm được những lời ấy chân thật ra sao.

Việc sống Lời Chúa sẽ đưa lại một cuộc cách mạng thực sự trong đời của ta và trong đời của những ai mà ta chia sẻ cuộc sống Phúc Âm này.

Phải đem những lời của Đức Giêsu ra thực hành với lòng đơn sơ của trẻ nhỏ! Người dạy ta: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38). Biết bao lần ta đã cảm nghiệm rằng càng cho đi thì càng nhận được! Chưa bao giờ ta bị trắng tay, bởi vì mỗi lần ta cho một người thiếu thốn thì ta lại nhận được gấp trăm. Thế còn khi ta chẳng có gì để cho đi thì sao? Đức Giêsu đã chẳng nói rằng: “Anh em cứ xin thì sẽ được” (Mt 7,7) hay sao? Ta đã xin và ngôi nhà của ta lại đầy mọi thứ của cải mà Thiên Chúa gửi đến để ta lại có thể cho đi.

Khi bị đè bẹp bởi nỗi lo âu về một hoàn cảnh vượt qúa sức mình hoặc khi nỗi lo lắng làm ta bị tê liệt, hãy nhớ lại những lời của Đức Giêsu: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi” (Mt 11,28), và khi đã quẳng cho Người mọi gánh lo, ta sẽ thấy bình an trở lại, và cùng với nó là giải pháp cho các vấn đề của ta.

Lời Chúa làm tiêu tan cái tôi của ta, khử trừ tính ích kỷ của ta, và thay thế cách ta nghĩ tưởng, ước muốn, hành động bằng chính tâm tư và hành động của Đức Giêsu. Bằng cách sống Lời Chúa, thì một lối lý luận theo Thiên Chúa và một tâm thức Phúc Âm sẽ hình thành và ta sẽ nhìn mọi sự bằng đôi mắt mới. Các mối quan hệ của ta cũng thay đổi: bằng cách sống Lời Chúa và chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhau, những người trước đó không biết nhau nay trở nên anh chị em với nhau, họ trở thành một dân tộc, một Hội Thánh sống động. Chỉ một Lời Phúc Âm nhưng được nhiều người đem ra thực hành thì vẫn có thể làm thay đổi cả chiều hướng của lịch sử.

Lời Chúa khi đem ra thực hành sẽ làm ra những phép lạ. Như thế trong tâm hồn ta sẽ tràn ngập một niềm tin tưởng mới, tin tưởng vô hạn vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng can thiệp và trợ giúp con cái của Người hàng ngày. Lời của Người là chân thực; nếu ta sống những lời này, thì về phần Người, Người cũng thực hiện chúng, theo đúng từng câu chữ, và ban cho ta điều Người hứa: được gấp trăm ở đời này, cuộc sống hoàn hảo và niềm vui thiên đàng vô tận.

 

48. Không chỉ tôn kính bằng môi miệng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

Cuộc kiểm tra

Sau mấy Chúa nhật đọc chương 6 Tin Mừng Gio-an, phụng vụ trở lại với Tin Mừng Mác-cô. Bản văn của phần phụng vụ lời Chúa tuần này thuật lại cuộc đối đầu kịch liệt giữa Đức Giêsu và nhóm biệt phái.

“Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra có vẻ buồn cười, xa lạ. Đàng khác, từ lâu rồi, Hội Thánh sơ khai đã vượt qua thói quen cứng ngắc là tuân giữ tỉ mỉ các khoản luật xa xưa. Dầu vậy, vấn đề vẫn chưa được giải quyết.

Cách chung, các kinh sư và biệt phái được trao nhiệm vụ công bố những lệnh truyền và tập tục, đồng thời có quyền xác định và giải thích luật Mô-sê. Một ý hướng rất đáng khen. Về phần Đức Giêsu, Người không chối bỏ nhiệm vụ này. Tuy vậy, theo Đức Giêsu, nhiệm vụ và quyền bính này không bao giờ được phép che giấu điều cốt yếu, tức là tình trạng của tâm hồn; nói cách khác, đó là sự trong sáng của lương tâm, là thái độ thành thực và tự do dấn thân trước Thiên Chúa. Trước Thiên Chúa, mỗi người đạt được giá trị tùy theo tình trạng tâm hồn của mình, và người ta bày tỏ tâm tình thờ phượng là chính hiện hữu của mình. Các thái độ tôn giáo của mỗi người phải được xuất phát từ những quyết định tự do, từ chính hiện hữu của mỗi người. Nếu như trong những thập niên gần đây, Hội Thánh bãi bỏ nhiều quy định, đó chính là nhằm mục đích đưa người tín hữu trở lại điểm cốt yếu này.

Như vậy, tinh thần Tin Mừng hoàn toàn khác hẳn thái độ duy luật cũng như thái độ bất chấp. Lề luật mà không có tâm hồn: đó là thái độ duy luật giả hình, muốn tìm an toàn trong những việc tuân giữ bề ngoài và không có sự dấn thân toàn diện, năng động của lòng tin. Ngược lại, nếu chỉ có tâm hồn mà không có lề luật: đó là thói bừa bãi, là thái độ không thấy cần phải sửa lại tình trạng cả con người cũ lẫn con người mới đang hiện diện trong mỗi người. Để kiểm tra sức khoẻ, ngày nay người ta dùng phương pháp siêu âm. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người thực hành cuộc kiểm tra này trong tâm hồn để thực sự biết mình là ai trước Thiên Chúa và anh em.

Truyền thống và thích nghi

Khi trả lời nhóm biệt phái và các kinh sư, Đức Giêsu đã quở trách họ là những kẻ đạo đức giả: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Thực ra Đức Giêsu không có ý bác bỏ những truyền thống, những tập tục đã có từ xưa, Người chỉ muốn cho thấy là tất cả những tập tục ấy phải đi kèm với một tấm lòng. Con người phải thích ứng với xã hội, nhưng vẫn phải là một con người chân thành.

Truyền thống

Mỗi cộng đoàn tôn giáo, cũng như mọi cộng đoàn xã hội, đều lập ra một bản quy tắc để diễn tả nét đặc trưng và độc đáo trong niềm tin của mình. Dân Do-thái, và sau này, Hội Thánh Công Giáo cũng làm như vậy để đào sâu mặc khải, đồng thời để củng cố mối liên lạc giữa các tín hữu. Những khoản luật này dựa vào nhau và với thời gian, càng lúc chúng càng xa rời nguồn gốc nguyên thủy của mình.

Sự thích nghi

Đây là thái độ của mỗi người để hòa nhập vào cơ thể xã hội hay tôn giáo. Sự thích nghi được thể hiện trong mọi lãnh vực, kể cả về ý kiến và quan điểm. Bên cạnh những người có thái độ thích nghi vào xã hội, cũng có những nhóm người chống lại sự thích nghi.

Trong Tin Mừng, Đức Giêsu nhấn mạnh đặc biệt đến sự thích nghi của nhóm sau này: nó làm cho con người không còn tự do cũng như trách nhiệm với xã hội, với cộng đoàn. Những người này nghĩ rằng chỉ cần tuân theo những khoản luật “được phép” hay “không được phép”, và do đó, chỉ cần loại trừ sự ô uế bên ngoài là đủ.

Trong sạch và ô uế

“Rửa tay” là xoá đi những dấu vết còn lưu lại sau khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. “Rửa tay” còn có nghĩa là không chịu trách nhiệm, không quan tâm gì đến cuộc sống, coi như mình ở ngoài các sinh hoạt của thế giới.

Đối với Đức Kitô, sự ô uế không phải là một tính chất gắn liền với sự vật, nhưng là cách thức con người giải thích về thế giới và áp dụng vào sự vật. Theo Đức Giêsu, sự ô uế và do đó cả sự chọn lựa, diễn ra trong tâm hồn con người chứ không phải là bản thu tóm các quy tắc.

Như thế, ngoài việc nhấn mạnh đến tình trạng tâm hồn, Đức Giêsu còn nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát, một Giáo Hội vượt khỏi biên giới của dân tộc Do-thái. Nhiều phong tục tập quán của Do-thái là tốt, nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên toàn thế giới. Cần phải sàng sảy, chọn lọc để chỉ giữ lại những điều cốt yếu và loại bỏ, hay ít ra giảm nhẹ, những điều phụ thuộc. Những tập tục nào do con người tạo nên thì cần được thay đổi, điều chỉnh hầu làm sáng tỏ tinh thần tôn kính Thiên Chúa và chu toàn luật bác ái đối với người khác (theo Quesson).

Vậy, con người luôn được mời gọi và thúc đẩy vượt lên phía trước, đồng thời phải hoán cải không ngừng để đón nhận những điều mới. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại. Truyền thống vẫn cần được tuân giữ, nhưng cũng cần được thích nghi cho phù hợp với thời đại đồng thời làm sáng tỏ điều cốt yếu.

Từ ý hướng đến hành động

Thắc mắc của nhóm biệt phái là một cơ hội tốt để Đức Giêsu xác định trật tự trong các cử chỉ và nghi lễ.

Thoạt đầu, người ta có cảm tưởng rằng chính ý hướng trong “tâm hồn” quyết định giá trị của việc làm, và người ta sẽ nêu lên câu ngạn ngữ “hoả ngục được lát bằng những ý hướng tốt”.

Thực ra, phải nhìn vấn đề theo một góc cạnh khác: cử chỉ diễn tả được bao nhiêu ý hướng trong tâm hồn, và ngược trở lại, hành vi bên ngoài có phải là sự bày tỏ của tâm hồn không? Bạn có luôn yêu mến người mà bạn bắt tay hay tỏ vẻ thân thiện? Chúng ta muốn diễn tả thực tại nào bên trong khi trao cho người khác một cử chỉ hữu nghị? Chúng ta có thực sự muốn hoà giải khi cười với người giận ghét mình không?

Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Bao nhiêu lời cầu nguyện, bao nhiêu hành vi đạo đức có phải thực sự phát xuất từ mối tương giao với Thiên Chúa, và có hướng về mục đích đó không? Chúng ta đã nhiều lần đọc lên “con yêu mến Chúa”, thế mà cuộc sống của chúng ta vẫn đầy dẫy những xung đột, những hận thù, cả trong đời sống cá nhân lẫn đời sống cộng đoàn…

Quả thế, cả tôi lẫn các bạn, chẳng có ai hoàn hảo. Vấn đề của chúng ta không phải chỉ là làm một điều gì đó, nhưng là thay đổi tình trạng tâm hồn của chúng ta.

Dù vậy, với tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong lòng chúng ta, ít ra chúng ta có thể thực hiện một cách nào đó sự hoà hợp giữa ý hướng và hành động. Rửa tay hay không, điều đó không quan trọng, nhưng chúng ta phải ý thức rằng tâm hồn chúng ta cũng có chút xấu xa bẩn thỉu và chúng ta phải xin Đức Kitô ban cho chúng ta thứ nước có thể thanh tẩy chính tâm hồn. Đàng khác, cũng cần nhớ rằng, cuộc đời vẫn ở phía trước và chúng ta luôn phải giữ lấy điều cốt yếu, trong khi cuộc đời luôn có những đổi thay.

 

49. Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng

Luật Chúa ban hành nhằm thăng tiến đời sống con người

Luật Chúa được ban hành là để hướng dẫn đời sống con người và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực nhằm thăng tiến hoá đời sống con người. Như vậy mục đích của việc giữ luật là nhằm giải phóng con người khỏi sống theo bản năng và khỏi áp dụng luật rừng. Trong bài trích sách Đệ nhị luật, Môsê nhắc nhở cho họ: Hãy tuân giữ những mệnh lệnh của Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà tôi truyền cho anh em (Đnl 4:2). Theo ông Môsê thì nhờ việc giữ luật, họ sẽ được các dân tộc coi là khôn ngoan và thông minh (#nl 4:6) vì họ có Chúa ở gần kề và hướng dẫn đời sống họ.

Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư lại toan đè nặng trên dân chúng với nhiều khoản luật chi tiết của tiền nhân. Theo Phúc âm thì nhóm người Pharisêu là phe biệt phái, nằm trong Do thái giáo. Theo sử gia Josephus, có chừng sáu ngàn người Pharisêu thời vua Hêrôđê. Họ thường phê bình chỉ trích, bắt bẻ và chống đối Đức Giêsu và các môn đệ. Thánh Phaolô tông đồ là cựu thành viên của phái Pharisêu. Ông Nicôđêmô (Ga 3; 7:45-48) và ông Ga-ma-li-ên (Cv 5:34) cũng là người Pharisêu. Còn nhóm kinh sư là những học giả và trí thức trong đạo Do thái, được nhận tước hiệu ráp-bi hoặc người chỉ đạo. Họ không thuộc phe đảng nào. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người kinh sư thuộc phái Pharisêu nên họ cũng tỏ thái độ và hành động chống đối Chúa như phái Pharisêu.

Trong Phúc âm hôm nay, hai nhóm Pharisêu và kinh sư quan sát thấy vài môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay nên bèn thắc mắc, đặt vấn đề với Chúa. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay cho được sạch bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng. Vì thế Đức Giêsu cảnh giác thái độ giả hình của họ vì họ giữ luật vụ vào hình thức bên ngoài.

Theo luật truyền khẩu và tập tục Do thái trong sách Tan-mút thì nghi thức rửa tay trước khi ăn không buộc hết mọi người, mà chỉ có hàng tư tế mới phải theo. Sách Tan-mút sưu tầm luật truyền khẩu và tập tục Do thái không được ghi trong Bộ luật viết ra của sách luật Tora, cũng gọi là sách Ngũ kinh, là năm cuốn sách đầu của Kinh thánh Cựu ước. Theo nghi thức rửa tay được kể lại trong sách Tan-mút, thì nước phải đổ trên mỗi tay hai lần. Lượng nước cũng được qui định đổ cho tới cổ tay. Tại Galilê, vì thiếu nước nên người ta thường bỏ qua việc rửa tay trước khi ăn. Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư từ Giêrusalem lên vẫn đòi phải áp dụng luật này.

Đức Giêsu cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư vì họ đã đi lạc đường lối, toan nô lệ hoá con người bằng việc giữ tập tục của tiền nhân. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, mà tâm hồn họ xa Chúa và họ còn sống đời bất công. Do đó Đức Giêsu cảnh giác họ: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7:8a). Người còn trích lời ngôn sứ Isaia để quở trách họ: Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).

Chúa Giêsu còn dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế như: Những ý định xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22).

Lời Chúa cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư trong Phúc âm phải nhắc nhở ta dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả của việc tự xét và tự kiểm về đời sống nội tâm, có thể làm ta hài lòng hay trách mình. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra thái độ giả hình của người Pharisêu và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không phát xuất từ nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội hoặc giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải do lòng mến.

Giữ luật theo kiểu người Pharisêu và kinh sư khiến người ta trở thành nô lệ cho luật, làm cho đời sống trở nên cằn cỗi. Giữ luật vị luật khiến cho luật trở thành bất động và bất biến. Giữ luật vì yêu mến thì luật sẽ trở thành luật biến đổi, luật trổ bông. Việc giữ luật như vậy có tính cách biến đổi, mang lại hoa quả thiêng liêng cho đời sống. Đối với người con thảo có tâm hồn đạo hạnh thì việc tuân giữ luật Chúa và tìm sống theo thánh chỉ của Chúa phải là khát vọng của họ. Và phần thưởng dành cho người tuân giữ giới răn Chúa và sống theo thánh chỉ của Chúa là có được tâm hồn bình an và thư thái trong cõi siêu việt.

Lời cầu nguyện xin cho tâm hồn và đời sống được biến đổi trong việc tuân giữ giới răn:

Lạy Chúa là Thiên Chúa, Đấng thông biết mọi sự,

và thấu suốt cõi lòng người.

Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng và yêu mến.

Xin tha thứ những lần:

con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài,

mà lòng thì xa Chúa.

Xin giúp con làm mọi việc vì yêu mến Chúa

đễ lời cầu nguyện của con được đi đôi với việc làm,

cho đời sống con được thăng tiến hoá. Amen.

*******

Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến

Xin tha thứ

* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa,

* những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín.

* những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.

* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm

Xin tha thứ

* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác

* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành

Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa.

Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.

Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.

 

50. Suy niệm của JKN.

Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu

Câu hỏi gợi ý:

  1. Nhiều người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
  2. Đức Giêsu thánh thiện hơn các kinh sư Do thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật Thiên Chúa như thế nào?
  3. Hành động bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong? vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?

Suy tư gợi ý:

  1. Quan niệm của các kinh sư Do thái về sự công chính

Đọc bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: «Người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng». Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện.

Chắc chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành, với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài: «Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?»

  1. Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu

Nhưng Đức Giêsu đã cho họ – và cả ta nữa – thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên ngoài. Người ta vẫn nói: «Đạo tại tâm!». Cái đó chính là cái quan trọng nhất trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.

Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.

Thiết tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do thái là cứ quan trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài thành thái độ hay hành động.

  1. Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước

Nếu chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là «việc đạo đức», những nghi thức do con người sáng tạo, việc rước sách đình đám… thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao. Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: «Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm».

Tôi thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn, lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn. Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho «chìm xuồng», vì thế công ích bị thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?

  1. «Đạo tại tâm». Đúng rồi! nhưng coi chừng… tâm giả!

Tuy nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng «Đạo tại tâm». Họ cho rằng họ đã có cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng thánh Giacôbê tố cáo họ: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.

  1. Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài

Đức Giêsu nói: «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế». Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người «tình ngay mà lý gian», hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.

Vì thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái «tâm» ở bên trong trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói: «Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!» (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy – dù bên ngoài có tốt lành đến đâu – cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy giá trị trước Thiên Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành động tốt.

 

51. Giải thích và suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long

TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ: TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHÀM VÀ ĐIỀU RĂN CỦA THIÊN CHÚA

1.- Ngữ cảnh

Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia thành hai phần:

1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (7,1-8);

2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (7,14-15.21-23).

3.- Vài điểm chú giải

– tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc đơn, cũng vì lý do này.

Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy: người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng” cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân). Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái “ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại quốc).

– rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”). Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay” [Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách, theo đúng nghi thức.

– truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của Israel kể từ Môsê tại núi Sinai cho đến hôm nay. Tác giả giải thích cho các độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại biết lối thực hành luật trong sạch của người Do Thái bằng cách nêu ra một vài ví dụ chọn lọc. Tuy nhiên, khẳng định rằng mọi người Do Thái đều giữ các quy tắc về trong sạch thì không đúng về mặt lịch sử. Trong thực tế, chỉ người Pharisêu mới đặc biệt bám vào đó, dân thường không quan tâm lắm, còn phái Xađốc đã đả kích việc chuyển các tập tục của hàng tư tế vào đời sống tôn giáo của dân chúng. Thật ra, người Pharisêu đang tìm cách áp dụng luật trong sạch theo nghi thức mà các tư tế trong Cựu Ước phải giữ, cho mọi người Israel, để toàn thể Israel trở thành dân tư tế.

– rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (4): Một vài nhà chú giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên, hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.

– đạo đức giả (6): Nghĩa chữ của từ hypokritês là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.

– Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.

– Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật trở thành thực tiễn và cụ thể!

– Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện đối lập với luật của Cựu Ước. Người mời con người đi ra khỏi tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước mặt Thiên Chúa và loài người.

– những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp… (22): Danh mục này kể ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân Ước còn lại, cũng có những danh mục như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).

– Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)

Vấn đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế, mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên Chúa?

Đức Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.

* Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)

Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người (7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt 5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó (tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể nói là một bài bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.

+ Kết luận

Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta được sống muôn đời.
  2. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ; chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa. Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ, nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm.
  3. Tuy nhiên, con người chúng ta dễ rơi vào thói ỷ lại, qua việc để cho ai đó quyết định mọi sự cho mình. Chúng ta yêu cầu có những quy luật và nguyên tắc rõ ràng để tuân giữ, nhưng chúng ta cằn nhằn bởi vì chúng ta không thể thấy lý do vì sao có những quy luật và nguyên tắc đó hoặc vì thấy chúng quá khó giữ. Cuối cùng, chúng ta lại bị cắn rứt hoặc đi xưng tội chỉ để trấn an lương tâm. Kitô hữu không coi thường bất cứ “truyền thống”nào, nhưng muốn kiểm chứng tất cả. Họ muốn xem là các “truyền thống” có thật sự là cách diễn tả và là kết quả của các yêu cầu theo Tin Mừng chăng, hay chúng chỉ là những thói tục (ít nhiều khôn ngoan), là kết quả của những nhạy cảm hoặc là những đường lối suy nghĩ của những nhóm người nào đó. Nếu gặp một quy luật nào đó không có liên hệ gì với Tin Mừng, các Kitô hữu phải bỏ ngay đi, cho dù những người trình bày cam kết rằng chúng là thánh ý của Thiên Chúa!
  4. Sự lây nhiễm không đến từ bên ngoài nhưng đến từ bên trong, từ trái tim. Đức Giêsu đã kể ra các tật xấu làm cho người ta trở thành ô nhơ. Điều làm cho một hành vi nên tốt hoặc thành xấu không phải là sự phù hợp với một quy luật hay một nguyên tắc nào, nhưng là nó có tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho người khác không.

 

52. Chú giải của Noel Quesson.

Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến

Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.

Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.

Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.

Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”, được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.

Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.

Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:

1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?

2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.

3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.

Người trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”

Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.

Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:

Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.

Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.

Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).

Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:

Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn”.

Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.

Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.

Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).

Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.

Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?

Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.

home Mục lục Lưu trữ