Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 95

Tổng truy cập: 1446783

TRÊN KHỔ GIÁ

Trên khổ giá - R. Gutzwiller.

Qua trình thuật trên, Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.

Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài, (Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử. Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại, chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm, đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.

Giải đáp: Thánh Luca đã trình bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’. Không một lời than trách không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên trời thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được ơn cứu thoát.

Họ không biết việc họ làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nini Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu Thiên Chúa đối nghịch laị mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.

Câu nói thứ hai Chúa nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm’. Và hắn tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, ‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì sai trái’. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa. Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả thật, tôi bảo anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định. Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được hưởng ơn cứu thoát.

Như thế qua trình thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản kháng’: Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp nhận’ Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.

 

47. Anh em và chị em của vua.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)

Đôi khi chúng ta là những người Mỹ suy nghĩ vì sao người Anh lại chán chế độ quân chủ của họ. Sự kiện thí dụ như là Nữ hoàng, điều đó đối với chúng ta có vẻ như là một người đại diện hầu như không có quyền lực. Và trong chúng ta cũng có một số người ước muốn có một người nào đó mà chúng ta có thể nhìn lên, một người nào đó hiện thân cho những giá trị và chinh phục sự kính trọng của chúng ta, một người làm cho chúng ta cảm thấy tốt hơn là chính chúng ta.

Nhiều người Mỹ một cách nào đó, đã tìm thấy môt con người như vậy trong cuộc bầu cử tổng thống, đó là tổng thống Kennedy, tổng thống của nước Mỹ. Ông còn trẻ, đẹp trai, thông minh, và ăn nói lưu loát. Ông kết hôn với một phụ nữ xinh đẹp và đối với chúng ta có thể trở thành nữ hoàng và người đó có thể giới thiệu với nước Mỹ những đưa con xinh đẹp, những công chúa và những hoàng tử. Nhà Trắng được biết đã trở thành giống như điện Camelot, nước Mỹ có một gia đình mà người Mỹ coi như là một vương triều. Vào ngày thứ sáu 22-11-1963 giấc mơ đó bị tan vỡ. Trong suốt bốn ngày người Mỹ đã kinh ngạc trước máy truyền hình, họ xem đi xem lại những hình ảnh không thể tin được về cuộc ám sát và đám tang đau khổ, mà đám tang đó đã giúp thuyết phục chúng ta rằng, cái chết của vị tổng thống là thật sự. Từ đó những câu chuyện dần dần trở nên hé mở và tiết lộ mọi sự đều không hoàn hảo như chúng ta tưởng tượng. Giấc mơ về một Camelot đã bị tan vỡ, và những ảo tưởng về vương triều đã hoen úa.

Hầu hết tất cả chúng ta đã định hướng sai lầm khi hướng về nhà Trắng ở Washington D.C như là một hoàng cung. Chúng ta sẽ nhìn trở lại Calvariô bởi vì thánh giá thật sự là ngai của Đức Kitô Vua. Cái chết của Ngài không phải là một bi kịch, không phải là một cú sốc mau qua. Nó là một cuộc khải hoàn chiến thắng trên cả hai kẻ thù của chúng ta, đó là tội lỗi và sự chết. Trên đầu của Chúa Giêsu trên thánh giá nhà cầm quyền Philatô đã đặt lên một bảng khắc: “Đây là Vua dân Do Thái”. Chúng ta đã thay thế bảng khắc đó bằng lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: “Đức Kitô là Vua của chúng tôi”. Với Người chúng ta cầu xin: “Xin hãy nhớ đến chúng con khi Ngài bước vào vương quốc của Ngài”.

Đó là lời cầu nguyện đã được đáp lời bởi vì qua Đức Kitô chúng ta đã được cứu chuộc. Chúng ta đã được cứu thoát khỏi vương quốc của tội lỗi, việc cử hành hy tế Thánh Thể của chúng ta vào ngày Chúa Nhật: “Là dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên giá trị, chia sẻ với các thánh trong ánh sáng. Ngài đã cứu thoát chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của Con yêu dấu Ngài”.

Thiên Chúa đã làm cho chúng ta trở nên những thần dân của Đức Kitô Vua. Ngài đã biến đổi chúng ta qua những đặc ân là ân sủng để chúng ta trở nên anh chị em của Người. Anh chị em của Vua là những hoàng thân và quận chúa. Chúng ta là thần dân của vương quốc, đã được sở hữu những giá trị và phẩm giá mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho.

Chúng ta không cần những quyền lực thuộc thế gian này làm cho chúng ta được kính trọng. Vua của chúng ta thật sự là thuộc vương triều. Nước của Ngài không phải là một Camelot tưởng tượng. Đó là vương quốc hoàn vũ và vững bền, một vương quốc của sự thật và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của công lý và công chính, của tình yêu và sự bình an. Vua của chúng tôi là Đức Kitô, là Chúa Kitô.

Lời nài xin trung thành với Đức Kitô Vua.

Ngày Chúa Nhật này là thời gian thích hợp để nài xin cho chúng ta sự trung thành với Đức Kitô Vua. Theo những hình thức đề nghị bài kinh làm nền tảng cho kinh tiền tụng của kinh nguyện Thánh Thể vào lễ trọng hôm nay, kinh này có thể dùng vào Thánh Lễ bởi những người lập lại những dòng nài xin theo sau linh mục hoặc vị thừa tác.

Chúng con nài xin được trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con âu yếm vương quốc vũ hoàn và đời đời của Ngài. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc của sự thật và sự sống, của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con ước ao làm một điều gì đó mà chúng con có thể, qua hành động và cầu nguyện. Để mang thế giới đến với vương quốc của Ngài. Vương quốc công chính, tình yêu và sự bình an.

 

48. Đức Kitô Vua.

Thiên Chúa đã tuân giữ lời Ngài đã phán hứa, bằng cách sai phái vị cứu tinh đến, để thiết lập một vương quốc, thế nhưng vương quốc của Ngài không giống như vương quốc con người đã mường tượng ra. Chính Ngài đã xác nhận cho Philatô biết được sự thật ấy.

Đúng thế, những vương quốc trần gian do con người thiết lập bằng sức mạnh, thường đem lại sự giàu sang và vinh quang. Nhưng vương quốc của Đức Kitô thì không do trần gian và cũng không giống với trần gian.

Ngài từ chối loại vương quốc huy hoàng do Satan đề nghị: Nếu ông quỳ gối thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông mọi vương quốc làm sản nghiệp. Ngài thường lẩn trốn mỗi khi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua theo nhãn quan của họ. Ngài không dùng những phương tiện trần gian để bảo vệ nước của mình, cũng không tự biện hộ, để tránh né khỏi bản án tử hình. Nhưng cho dù phải chết, Ngài vẫn xác quyết mình là vua và nước Ngài đã thực sự bắt đầu nơi trần gian: Tôi sinh ra là để làm vua, và tôi đến để làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe tiếng Tôi, và người ấy sẽ thuộc về nước của Tôi.

Đây chính là điểm then chốt của sứ điệp. Thế nhưng chân lý của Chúa là chân lý gì? Tôi xin thưa, chân lý Ngài mang đến là ý định cứu rỗi của Chúa Cha, muốn thu thập mọi người trở thành con dân Ngài. Chúa Giêsu đến trần gian là để làm chứng cho ý định của Chúa Cha, và chứng cớ của Ngài thì trung thực bởi vì Ngài bởi Chúa Cha mà ra, Ngài biết Chúa Cha yêu thương nhân loại và Ngài nhận lãnh sứ mạng nói cho nhân loại biết được sự thật ấy.

Không những Ngài chỉ nói mà hơn thế nữa, Ngài còn làm chứng bằng cả con người và cuộc đời của mình nữa. Ngài chính là tiếng nói yêu thương của Chúa Cha phán với nhân loại. Bằng việc làm vì Ngài đã trở nên một người ở giữa chúng ta, cùng đau khổ, và cùng chết với chúng ta. Nhưng Chúa Cha đã cho Ngài sống lại.

Từ đấy và trong Ngài, nhân loại múc lấy khả năng có thể sống lại, có thể trở về với Chúa Cha. Bởi đó, thánh Phaolô đã gọi Ngài là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại, đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.

Dân Do Thái chỉ dừng lại nơi của cải, giàu sang và uy quyền. Tất cả những cái đó sẽ tan biến theo dòng thời gian, vì thế họ không chấp nhận Ngài. Nhưng nước vĩnh cửu Chúa hứa ban còn vượt trội gấp bội những gì con người mong ước, Ngài hứa và sẽ trao ban vì Ngài đã chiến thắng sự chết và địa ngục. Điều gay go nhất, đó là chúng ta phải đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì với những kẻ tin thì lời Ngài hứa mới chính là điều đáp lại ước muốn căn bản nhất của con người, đó là ơn phúc và bình an.

Báo chí Saigon có một dạo đã xôn xao bàn tán: Ngày 15.11.1969, một cô bé da đen đang sống vất vưởng trong một cô nhi viện tại xóm Gà, lối đi Gò vấp, thì bỗng dưng có một người da đen sang trọng đến thăm, ông đem tới cho cô một sự thật làm đảo lộn đời cô: Cô chính là con của Bokassa, hoàng đế của nước Trung Phi. Từ một cô bé lọ lem, cô nghiễm nhiên trở thành một nàng công chúa.

Còn với chúng ta, thuộc về nước Chúa, trở nên con dân của Chúa, chân lý này có ảnh hưởng gì đến đời sống chúng ta hay không?

 

49. Ánh sáng, sức mạnh và hạnh phúc.

Khi tuyên xưng Đức Kitô là vua, thì điều ấy có ý nghĩa gì? Hay nói cách khác Đức Kitô là gì đối với chúng ta?

Tôi xin trả lời:

- Trước hết Ngài là ánh sáng.

Chúng ta thường nói:

- Người là một con vật có trí khôn.

Với trí khôn, chúng ta không ngừng băn khoăn và thắt mắc, để rồi tạo được những tiến bộ trong mọi lãnh vực.

Vì thế, hai chữ “tại sao” thường được lặp đi lặp lại trên đôi môi của chúng ta, nhất là đối với những vấn đề quan trọng.

Chẳng hạn: Ai đã dựng nên tôi? Tại sao tôi lại sống trên trần gian này? Tôi từ đâu mà đến? Và tôi sẽ đi về đâu? Đâu là con đường tôi phải bức đi và đâu là những bổn phận tôi phải tuân giữ?

Nếu Đức Kitô không trả lời được cho tôi những băn khoăn và thắc mắc kể trên, thì cuộc đời tôi sẽ chìm vào trong tăm tồi, trong tuyệt vọng.

Thế nhưng, Ngài đã xác quyết:

- Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.

Ngài không lừa dối ai. Ngài đến để tỏ lộ cho chúng ta biết những chân lý, những sự thật. Nhờ Ngài, chúng ta biết được chúng ta bởi đâu mà đến và chúng ta sẽ đi về đâu. Ngài đã chỉ cho chúng ta biết con đường và đã xác định cho chúng ta những bổn phận phải tuân giữ, nếu chúng ta muốn tiến đến với chân lý, với Nước Trời.

Vua thánh Đavít đã diễn tả niềm vui mừng và hạnh phúc của những người sống gắn bó kết hiệp với Thiên Chúa trong thánh vịnh 23 như sau:

- Chúa chăn nuôi tôi,

Tôi chẳng thiếu thốn chi.

Trên đồng cỏ xanh rì,

Ngài để tôi nằm nghỉ.

Tới nguồn nước,

Chỗ nghỉ ngơi.

Ngài hướng dẩn tôi.

Tâm hồn tôi,

Ngài lo bồi dưỡng.

Tiếp đến, Đức Kitô là sức mạnh.

Thực vậy, Chúa Giêsu không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước. Ngài không phải chỉ chiếu tỏa ánh sáng và truyền ban những mệnh lệnh, nhưng chính Ngài đã thực thi trước đã. Nhìn vào Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và sức mạnh.

Ngài không truyền cho chúng ta:

- Hãy sống hiền lành và khiêm nhường.

Nhưng Ngài đã bảo chúng ta:

- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

Ngài cũng đã phải lần từng bước một trên con đường lên đỉnh Canvê. Ngài đã sống tinh thần nghèo khó. Ngài đã thực sự cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Ngài đã thực thi những hành động bác ái yêu thương trước khi truyền dạy.

Hơn thế nữa, Ngài còn ban sức mạnh để chúng ta tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, với điều kiện là chúng ta phải gắn bó và cộng tác với Ngài.

Sau cùng, Đức Kitô còn là niềm hạnh phúc của mỗi người chúng ta.

Thực vậy, nếu chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài và chu toàn những điều Ngài mong muốn, thì định mệnh cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm, như lời sách “Gương Phúc” đã viết:

- Gắn bó với Đức Kitô, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm hạnh phúc Nước trời. Tìm thấy Đức Kitô là tìm thấy cả một kho tàng quí giá. Trái lại, mất Đức Kitô là mất tất cả.

Ngày kia, thánh Bemoit mệt mỏi vì đường xa, đã ngồi nghỉ dưới một gốc cây và dùng bữa. Bữa trưa của Ngài chỉ có bánh mì đen và nước lạnh. Giữa lúc đó có một đám người đi dự tiệc cưới trở về. Nhìn thấy thánh nhân với bữa cơm thanh đạm, họ liền tỏ lòng thương xót. Nhưng thánh nhân đã trả lời như sau:

- Không, có nhiều người còn đáng thương hơn tôi nữa. Tôi là một người bạn hữu nghĩa thiết cùng Chúa, chỉ điều này mà thôi cũng đã là làm cho tôi được hạnh phúc.

Hãy gắn bó mật thiết với Chúa, để rồi chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc Nước trời, một niềm hạnh phúc tuyệt vời như lời thánh Phaolô đã diễn tả:

- Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa sẽ dành cho những người trung thành phụng sự Ngài.

 

50. Vua vũ trụ.

Hôm nay Chúa nhật cuối cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Đặt lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.

Với tâm tình của người trộm lành bên cạnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối cùng, chúng ta cũng hãy tuyên xưng vương quyền của Ngài và nói lên với Ngài tất cả niềm tín thác của mình, xin Ngài tiếp tục đồng hành và gìn giữ chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

Thật vậy, nếu phong thánh là một cữ hành, qua đó Giáo Hội long trọng tuyên bố rằng, một người nào đó đang được hưởng phúc trên thiên đàng, thì con người đầu tiên phải được phong thánh chính là một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu, tức là người thường được mệnh danh là “kẻ trộm lành”.

Trong một số tài liệu không được Giáo Hội nhìn nhận là linh hứng thì kẻ trộm có tên là Dysmas, theo truyền thuyết thì ngay cả thập giá của Dysmas cũng đã được mang về bên Italia. Nhiều vị thánh trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo đã kính nhớ một cách đặc biệt vị thánh Dysmas này. Dysmas kẻ trộm lành quả thật là một vị thánh đầu tiên trong Giáo Hội đã được chính Đức Giêsu phong thánh khi Ngài tuyên bố rằng: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Còn bằng chứng nào hùng hồn hơn chính lời của Chúa Giêsu. Dysmas đã được Chúa Giêsu phong thánh, bởi vì ông là người đầu tiên trong nhân loại đã tuyên xưng niềm tin vào vương quyền của Chúa Giêsu, khi ông thưa với Chúa rằng: “Lạy Ngài, khi nào về về Nước Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”.

Vậy có thể nói được rằng, hẳn phải có một niềm tin sâu sắc của một vị thánh thì người ta mới có thể thốt lên được một lời tuyên xưng như thế trong một hoàn cảnh nghiệt ngã hầu như tuyệt vọng. Dysmas kẻ trộm lành đã có thể thách thức và nguyền rủa Chúa Giêsu như người bạn cùng treo với ông hoặc như đám lý hình đang đứng dưới chân thập giá. Thế nhưng ông đã không làm thế, ông đã có tâm hồn của một vị thánh khi ông biết nhìn xuyên qua cái bề ngoài tất tưởi thương đau bất lực của Chúa Giêsu để thấy được quyền năng của một vị vua mà vương quốc của Ngài không thuộc về trần thế này. Chính trong cái cảnh trơ trụi và tàn bạo nhất do con người tạo ra đó mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một vị vua.

Thật thế, các sách Tin Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi trên lưng của một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian. Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.

Mặt khác, lời tố cáo mà nhiều người đã đưa ra để buộc tội Ngài là: “Hắn đã tự xưng mình là vua”, và quan tổng trấn Philatô đại diện cho chính quyền Lamã cũng hỏi Ngài: “Ông có phải là vua dân Do thái không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Ta là Vua”. Sau cùng, bản án của Ngài được ghi trên thập giá và được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và tiếng Do thái, bản án được ghi như sau: “Jesu Nazareth, vua người Do thái”.

Chính trong niềm đau tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một vị vua, nhưng cũng chính trong cuộc tử nạn ấy mà Ngài đã xác quyết rằng: “Vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này”, và Ngài không làm Vua theo các cung cách của vua chúa ở trần gian. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Ngài là Vua của phục vụ, của khiêm hạ, của quên mình và nhất là của tha thứ trong yêu thương.

Thật vậy, còn gì vương giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.

Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.

Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.

 

home Mục lục Lưu trữ