Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 90
Tổng truy cập: 1446761
TIN VÀO SỰ SỐNG ĐỜI SAU
Tin vào sự sống đời sau
Đã bước vào cuộc đời này ắt có ngày chết. Đó là chân lý, đó là định luật của đời sống con người. Và như vậy, chết là lẽ thường tình của một kiếp nhân sinh. Tuy nhiên, điều mà chúng ta cần đặt ra, đó là: chết rồi sẽ đi về đâu? Bên kia cái chết là gì?
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại một cuộc tranh luận về giáo lý giữa phái Sađốc và Chúa Giêsu. Phái Sađốc mỉa mai việc kẻ chết sống lại, còn Chúa Giêsu thì khẳng định tín điều ấy. Chúng ta chẳng cần đi sâu vào chi tiết cuộc tranh luận đó làm chi. Điều cần chúng ta quan tâm hơn là hãy suy nghĩ về niềm tin của mình. Vấn đề thực tế đối với chúng ta là chúng ta tin có sự sống lại.
Những câu hỏi như thế, nhóm Xa đốc trong trang Tin Mừng hôm nay đã đặt ra cho Chúac Giêsu. Nhân cơ hội, Chúa Giêsu đã mạc khải cho họ biết về cuộc sống mai hậu. Và đây cũng chính là câu trả lời cho mỗi chúng ta về vấn nạn về cuộc sống mai hậu.
Những người Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để điều tra về giáo huấn của Người. Họ đặt câu hỏi dựa trên luật thế huynh để xem Chúa Giêsu nghĩ gì về việc kẻ chết sống lại. Như trong giai thoại trước (Lc 20,20-26), Chúa Giêsu giải quyết vấn nạn kiểu giải nghi theo cách bất ngờ khiến các kinh sư cũng phải thán phục. Gọi là “giải nghi”, vì ở đây câu hỏi được đặt ra không nhắm đến bản thân Đức Giêsu hoặc quan hệ của Người với giới chức Giêrusalem. Câu hỏi mang tính lý thuyết, mà rất có thể thường được người Xađốc đặt ra cho người Pharisêu.
Họ đến gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài một câu hỏi xem ra không thể trả lời được. Căn cứ theo luật Lêvi ( Đnl 25, 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy người anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.
Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri và các sách khác nữa. Đó là những sách đã khởi sự với phong trào Đệ nhị luật, tức là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ tin lời sách Đaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.
Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình. Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?
Câu trả lời của Chúa Giêsu khẳng định rằng sẽ có sự phục sinh, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự phục sinh mà biện luận của bè Xađốc đơn giản là loại bỏ.
Căn cứ trên bộ Ngũ Thư, bè Xađốc bài bác niềm tin vào sự sống lại. Vì thế, Chúa Giêsu viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3, 2-6), một trong sách thuộc về bộ Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu sai lầm trầm trọng của bè Xađốc. Từ Xh 3, 2-6 trong đó Thiên Chúa tự bày tỏ mình cho ông Môsê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp”, Chúa Giêsu rút ra câu kết luận:“Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối quan hệ với Ápraham, Ixaác và Giacóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ cuộc phục sinh.
Chúa Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng... bởi họ được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã bắt lẽ các người Xađốc ngay trong chính lý luận của họ, khiến họ phải đuối lý không thể nào trả lời được. Vì thế, không lạ gì mà các kinh sư khi chứng kiến cuộc tranh luận đã phải thốt lên lời khen ngợi: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm” (20, 39).
Bề ngoài, người Xa đốc và Đức Giêsu nói về cùng mộtvì Thiên Chúa. Trong thực tế, họ quan niệm Thiên Chúa là một Đấng Tạo hóa và Nhà lập pháp lạnh lùng, đã nói tiếng nói cuối cùng khi bố trí thế giới hiện tại và khi ban Luật Môsê. Đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa không kéo con người ra từ hư vô để rồi lại đẩy nó rơi vào hư vô. Ai đã được Thiên Chúa gọi đi tới sự sống, thì được Ngài nhắm cho đạt tới sự sống đời đời. Đối với chúng ta, mọi sự tùy thuộc Thiên Chúa. Số phận chúng ta tùy thuộc Ngài là ai, và là ai đối với loài người.
Đối với người Xađốc, Thiên Chúa là một vì Thiên Chúa của những quy định pháp lý và là một vì Thiên Chúa có quyền năng đã bị cạn kiệt khi tạo dựng thực tại trần gian như hiện có. Đấy là những tiền giả định mà Đức Giêsu không chấp nhận. Họ coi Thiên Chúa như là Đấng đã ban cho dân Israel một loạt những giới luật nhằm bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt lành và trật tự trên mặt đất này. Ngược lại, đối với Đức Giêsu, Thiên Chúa trước khi là Thiên Chúa của các quy định, là Thiên Chúa của lòng nhân lành luôn chiếu cố đến từng con người, hướng dẫn, săn sóc từng con người. Thiên Chúa không liên hệ với con người trước tiên bằng luật lệ, nhưng bằng lòng nhân ái tỏ ra với các tổ phụ. Thiên Chúa không chỉ săn sóc các ngài trong một thời gian ngắn để rồi sau đó bỏ mặc cái ngài trong cái chết. Đã được Thiên Chúa cúi mình xuống trên mình với lòng nhân ái, con người mãi mãi được nhắm cho sống, bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống.
Chúa Giêsu phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25-26). Thiên Chúa làm chủ sự sống. Thiên Chúa là "Thiên Chúa của kẻ sống". Chúa là Thiên Chúa của tôi nếu tôi đang sống, nghĩa là nếu tôi còn đang ở trong tương quan mật thiết với Ngài. "Thiên Chúa của kẻ sống" có nghĩa là "đối với Người, tất cả đều đang sống". Vậy nếu tôi cắt đứt tương quan với Người tức là tôi đã chết và như thế Thiên Chúa không thể là Thiên Chúa của tôi nữa.
Muốn được sống đời sống ấy trong ngày sau hết, mỗi kitô hữu cần phải đặt trọn niềm tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa. Sống tương quan mật thiết với Chúa, thực thi lời Chúa dạy, sống công bình bác ái và hãy loại bỏ những hành vi gian ác, lối sống sa hoa, những lời nói gian tà, những tình cảm bất chính, những đam mê trần tục, không chiều theo cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt.
Thật vậy, Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin Chúa cho ta biết đi trên đường lối của Chúa, biết tin tưởng phó thác nơi lòng thương xót của Chúa để ta cũng được sống lại ngày sau hết, được nên giống các thiên thần và là con cái của Thiên Chúa.
12. Chết không phải là hết
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.
Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.
Quả thực, nếu cuộc đời là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:
“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh
Biết mình thế này thà đừng sinh ra”
Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.
Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).
Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.
Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.
Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giêsu luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen.
13. Nếu chết là hết? – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong ngôn ngữ Việt Nam khi nói về sự chết luôn hàm ý là một sự chuyển tiếp chứ không kết thúc. Sự chết luôn là một khởi hành cho một chuyến đi mới ở một thế giới khác với chốn dương gian. Có lẽ chúng ta đã từng nghe và cũng từng nói những từ ngữ như: Từ trần, Qua đời, Băng hà, Đi rồi,… khi nói về một người chết. Những từ này theo từ điển Việt Nam được giải thích như sau:
+ Từ trần nghĩa là từ giã cõi này để đi đâu đó. Vậy là chết rồi vẫn còn đi tiếp.
+ Qua đời nghĩa là qua đời này đến một đời khác. Vậy là còn một đời nữa.
+ Băng hà nghĩa là đi qua một dòng sông, hàm ý qua sông để đến một chỗ mới.
Nhiều người còn lý luận rằng phải có sự sống sau khi chết mới có thể trả lại công bằng cho sự sống trần gian. Nếu không thì cuộc đời này là một phi lý khi người sống thiện lại bị thiệt thòi còn kẻ gian ác lại sống sung sướng hưởng lạc. Thế nên, sự sống đời sau sẽ là phần thưởng cho những ai sống tốt lành và ngược lại là hình phạt cho ai ăn ở ác nhân ác đức.
Đây cũng là lẽ công bằng vì nếu chết là hết thì người ta đâu cần sống tốt như bài thơ của ai đó đã viết:
Nếu chết là hết thì
Sống tốt để làm gì
Học hành có nghĩa chi
Phấn đấu làm việc cũng vậy thôi
Giàu có sung sướng rồi gì nữa
Văn minh lịch sự để làm gì
Danh tiếng này kia có ích chi
Lời Chúa còn dạy rằng: "Con người đã được định là phải chết một lần rồi sau đó chịu phán xét." Chết một lần rồi sau đó chịu phán xét, đó là quy luật của Thiên Chúa đã định cho loài người. Chết một lần rồi chịu phán xét nghĩa là chết rồi không phải là hết mà còn có đời sau. Theo Kinh Thánh thì con người là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, nhưng đó chỉ là phần thân xác. Con người chúng ta không những chỉ có thân xác mà còn có linh hồn. Linh hồn thì giống hình ảnh Thiên Chúa nên sẽ bất tử, vĩnh hằng, dầu cho cái chết thể xác có trở về với bụi tro thì linh hồn vẫn sống trường sinh bất tử.
Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.
Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.
14. Có chăng một thế giới bên kia?
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatio Trần Ngà)
Sau khi Raymond Moody xuất bản quyển Life after life (Cuộc Sống sau cõi đời nầy) vào năm 1975, công chúng phương Tây ngày càng quan tâm đến kinh nghiệm cận tử (tạm gọi là trải nghiệm sự chết đi sống lại). Có một số người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã được giới chuyên môn về y khoa xác nhận là đã chết lâm sàng và thi thể của họ được đưa vào nhà xác. Nhưng sau đó họ hồi sinh.
Năm 1982, George Gallup ước lượng có khoảng 8 triệu người ở Mỹ và 23 triệu người trên toàn thế giới đã trải qua kinh nghiệm nầy.
Những năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ rất chú ý đến hiện tượng nầy. Họ đã phỏng vấn 1,370 người trải qua kinh nghiệm cận tử. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:
- Có một cuộc sống khác ở "cõi bên kia" và cuộc sống đó hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
- Điều đặc biệt là sau khi "chết đi sống lại", không ai còn sợ chết nữa, không còn ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. (Willie Hoffsuemmer).
Bác sĩ George Rodonaia, có học vị tiến sĩ trong ngành thần kinh học (về sau nầy cũng là một tiến sĩ tâm lý học tôn giáo) vốn là công dân Liên Xô, nhập cư vào Mỹ năm 1989. Ông là chuyên gia nghiên cứu về thần kinh tại Đại học Moscow. Ông đã trải qua một kinh nghiệm cận tử đặc biệt nhất được ghi nhận từ trước đến giờ. Ông được giới y khoa xác nhận là chết ngay lập tức sau một vụ tai nạn ô tô vào năm 1976, được đưa vào nhà xác và được quàn tại đó trong ba ngày. Ông vẫn không hồi sinh cho tới khi bác sĩ tiến hành giải phẩu phần bụng như một phần của công tác khám nghiệm tử thi.
Ông thuật lại trải nghiệm về cuộc sống bên kia và xác quyết rằng chính biến cố nầy khiến ông đổi đời tận gốc rễ.
Trước khi trải qua kinh nghiệm cận tử, ông vừa là bác sĩ vừa là một nhà thần kinh học, và là người theo chủ nghĩa vô thần. Vậy mà sau lần chết đi sống lại đó, ông chú tâm học bộ môn tâm lý học tôn giáo, nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tôn giáo. Sau đó ông trở thành tín đồ thuộc giáo hội Eastern Orthodox. Hiện nay, ông là mục sư tại nhà thờ the First united Methodist ở Nederland, bang Texas, Hoa Kỳ. (nguồn: Tổ Chức Nghiên Cứu Về kinh nghiệm cận tử (Near Death Experience Reseach Foundation. (http://www.nderf.org/Vietnamese/index.htm)
Có chăng một cuộc sống đầy hoan lạc ở 'cõi bên kia' như những người trải qua kinh nghiệm cận tử xác quyết?
Những người thuộc phái Xa-đốc không tin điều đó. Họ dựng lên một kịch bản một vợ bảy chồng để phi bác niềm tin vào sự sống đời sau.
Chúa Giêsu Dạy Cho Chúng Ta Biết Có Sự Sống Đời Sau
Khi những người thuộc phái Xa-đốc đến chất vấn Chúa Giêsu về sự sống lại, Chúa Giêsu khẳng định có sự sống đời sau. Ngài dạy rằng có những người được xét là đáng được hưởng phúc đời sau thì không còn chết nữa. Họ giống như các thiên thần (câu 36). Rồi Ngài cũng trích dẫn sách thánh, đoạn sách nói về Thiên Chúa hiện ra với Mô-sê trong bụi gai, để chứng tỏ rằng Abraham, Isaac và Gia-cóp dù đã từ trần từ lâu nhưng vẫn còn đang sống. Mà nếu các vị nầy còn sống, tức là có sự sống đời sau.
Trong dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng, Đức Giêsu cũng tỏ cho thấy kẻ dữ thì "phải ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng lấy sự sống muôn đời." (Mt 25,46) Như thế, Chúa Giêsu tỏ cho thấy không những có cuộc sống đời sau mà còn cho biết cuộc sống đó sẽ kéo dài "muôn đời muôn kiếp."
Cuộc Đời Của Đức Giêsu Minh Chứng Cho Sự Sống Lại
Ngoài những lời dạy của mình, Chúa Giêsu còn dùng cả cuộc đời của Ngài để minh chứng cho thấy có cuộc sống đời sau.
* Nếu không có cuộc sống đời sau, không có thiên đàng hoả ngục, con người chết rồi là hết, chỉ còn là bụi đất... thì Chúa Giêsu chịu khổ nạn để làm gì? Máu Chúa Giêsu đổ ra hoàn toàn vô ích.
Nhưng chính vì để cứu con người khỏi hư mất và đem lại cho họ sự sống hoan lạc đời sau nên Con Thiên Chúa đã xuống trần, chịu vô vàn đau thương khổ luỵ và chấp nhận trả bằng giá máu để chuộc lấy con người.
* Chúa Giêsu, dù là Thiên Chúa quyền năng, nhưng đã trở nên hoàn toàn là người như chúng ta, đã sống như chúng ta, đã chết như chúng ta nhưng rồi Người đã từ trong cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển.
Sự kiện Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ cho chúng ta biết có sự sống đời sau và những ai gắn bó với Chúa Giêsu, trở nên chi thể trong Thân Mình Người thì cũng sẽ được sống lại như Người.
* * *
Niềm tin vào sự sống mai sau đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và cho mọi sinh hoạt của chúng ta hôm nay.
Ước gì niềm tin nầy thôi thúc chúng ta sống theo đường lối Chúa Giêsu để rồi chúng ta sẽ đạt đến nơi mà Người đã đến. Ước gì niềm hy vọng nầy cũng sẽ thúc đẩy chúng ta hy sinh cầu nguyện nhiều hơn, siêng năng dâng lễ nhiều hơn trong tháng 11 nầy để cầu cho ông bà cha mẹ và các tín hữu đã ra đi trước chúng ta được về quê trời vui hưởng hạnh phúc ngàn thu.
15. Có chăng sự sống bên kia cái chết – Lm Thiện Duy
Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo không còn kịp nữa:
“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều. Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm,cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Tuy nhiên cũng có người thấy chán ngán cuộc đời, muốn bỏ cuộc đời này đi:
“Ta muốn bỏ đi bỏ cuộc đời
Quay lưng nhìn lại chẳng mỉm cười
Còn gì thương nhớ còn lưu luyến
Cứ thế mà đi bỏ cuộc chơi
Thế sự quay cuồng chẳng còn chi
Có chăng mộng mị cõi hồn si
Tâm tư trống rỗng ôi chán ngán
Cười, khóc, buồn, vui...để làm gì?
…
Ta đã bỏ đi bỏ cuộc chơi
Bỏ đi phiền muộn bỏ sầu rơi
Mình ta lê bước mình ta bước
Mỉm cười nhàn nhạt hỡi ta ơi...!
(Thơ chán đời, Vô danh)
Từ hai khuynh hướng đó cho chúng ta thấy cuộc đời này sẽ qua đi. Có người cố bám víu, có người muốn thoát khỏi… nhưng chung quy vẫn là sự tạm bợ của cuộc sống trần gian; dù có níu kéo hoặc chối từ thì nó cũng sẽ qua đi.
Nhưng sau cuộc sống đời này là gì? Có người cho rằng: không là gì cả. Vì vậy bao lâu còn sống phải lo hưởng thụ kẻo không kịp như nhà thơ Cao Bá Quát: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo”.
Còn đức tin dạy cho chúng ta như thế nào về sự sống đời sau? Phụng vụ lời Chúa hôm nay là một câu trả lời rõ ràng nhất.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
1. Bài Đọc I: (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)
Đoạn sách Macabê kể về câu chuyện bắt đạo thời vua Antiôkhô. Một người mẹ và bảy người con thà chịu chết chứ không chối bỏ niềm tin của mình. Đoạn này kể về cái chết anh dũng của bốn người con đầu. Nhà vua muốn dùng những cực hình khủng khiếp nhằm làm cho họ sợ mà bỏ Chúa, đồng thời cảnh cáo cho những người sau. Ví dụ người con thứ ba: “Vừa được yêu cầu, anh ta thè lưỡi, can đảm đưa tay ra và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó” (2Mcb, 7, 11). Tuy nhiên dù hình phạt, dù giết chết vẫn không làm họ sợ. Họ vẫn mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình. Đâu là lý do để họ mạnh mẽ như vậy? Thưa vì: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb, 7, 14). Nghĩa là họ tin tưởng vào hạnh phúc đời sau mà Thiên Chúa hứa ban cho họ, nên họ không sợ điều gì hết, kể cả cực hình và cái chết.
2. Tin Mừng: Lc 20, 27-38
Luca kể câu chuyện những người Sađốc không tin có sự sống đời sau, nên đến hỏi Chúa Giêsu về một điều luật của Môsê. Luật này thực ra đã bị bãi bỏ vào TK I, đó là luật nối dõi tông đường. Luật này cho phép người ta cưới chị dâu khi anh mình chết mà không có con, với mục đích để anh mình có người nối dõi. Vấn đề mà những người Sađốc đặt ra để bắt bẻ và cười nhạo Chúa Giêsu là có bảy anh em trai cùng cưới một người đàn bà, vì hễ người nào cưới xong cũng chết. Vậy thì nếu có sự sống đời sau, thì người đàn bà đó là vợ của ai? Quả thật một vấn đề hóc búa!
Qua câu hỏi này thể hiện được cái nhìn của một nhóm người, rằng không có sự sống đời sau. Và giả dụ có thì sự sống đời sau cũng tiếp nối sự sống đời này. Cũng cần sinh sản để lưu truyền nòi giống. Cũng có cưới vợ lấy chồng và mọi sinh hoạt giống như ở trần thế. Một câu hỏi khó đối với con người, nhưng với Đấng “là sự sống và là sự sống lại” thì không có gì là khó khăn.
Trước hết Chúa Giêsu khẳng định có sự sống lại, vì “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Lc 20, 37). Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những tổ phụ đến muôn đời, chẳng lẽ lại chấm dứt vào lúc họ chết sao? Vì vậy cái chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn thôi, chắc chắn sẽ có sự sống đời sau, sự sống mới. Vì chúng ta tin: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”.
Điều thứ hai mà Chúa Giêsu tiết lộ là đời sau không như đời này: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ và cũng chẳng lấ chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36). Chính vì đời sau bất tận, chúng ta sẽ sống muôn đời nên không cần đến việc lưu truyền nòi giống nữa. Mà không cần lưu truyền nòi giống nên chẳng cần phải cưới vợ, lấy chồng nữa. Quá hợp lý!
Có người sẽ đặt vấn đề về hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Nếu không cưới vợ lấy chồng nữa thì làm sao hạnh phúc? Thưa khi đối diện với Thiên Chúa thì không còn hạnh phúc nào có thể sánh bì. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, chỉ Nước Trời, chỉ Đất Hứa, chỉ Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc đích thật, còn tất cả niềm vui, hạnh phúc từ tiền bạc, của cải, danh vọng, dục vọng chỉ có ngần có hạn và không phải là vĩnh cửu. Hay như lời Thánh vịnh đã nói: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình”, và “ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc, đâu là an vui”.
Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, qua tuyên tín của Giáo hội, chúng ta tuyên xưng lại: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Có sự sống đời sau, và hạnh phúc đích thật của sự sống đời sau là được ở bên Chúa.
II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI
Chúng ta xác tin điều đó, thì chúng ta phải sống làm sao để khi chấm dứt cuộc sống này, mình được bước vào sự sống đời sau với niềm hạnh phúc bên Chúa. Muốn được hạnh phúc bên Chúa ở sự sống đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó với Chúa và gắn bó với con người, vì “ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.
1. Gắn bó với Chúa
Dân Do Thái trước khi vào vùng Đất Hứa phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm. Đó là thời gian để dân Do Thái biết rõ về tương quan của họ với Thiên Chúa, Đấng đã chọn và yêu thương họ, để coi họ có thực sự tin tưởng Người hay không. Chính trong sa mạc dân Do Thái đã gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn. Thánh Phaolô nói: "Hành trình trong sa mạc của dân Israel cũng là một biểu trưng cho hành trình của chúng ta đến với Thiên Chúa".
Vậy thì trong hành trình đức tin nơi trần thế, giống như dân Do Thái lang thang trong sa mạc, chúng ta cũng phải gắn bó với Thiên Chúa. Nghĩa là nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời ta và quy hướng mọi sự về Ngài. Những khi dân Do Thái chạy theo một thần minh nào khác là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa của mình. Những khi dân Do Thái nổi lên đòi làm theo ý riêng mình là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa. Và cụ thể nhất khi sụp lạy trước con bò vàng là họ đang chối từ Thiên Chúa. Khi đòi quay trở lại Ai Cập là họ đang bắt Thiên Chúa làm theo ý mình…
Sự gắn bó với Chúa trong đời sống của Kitô hữu được thể hiện qua việc họ có nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời họ không? và có sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa không?
a. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời, thì mọi ưu tiên trong cuộc sống họ phải dành cho Ngài. Những giờ phút cầu nguyện, những thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật, việc học hỏi Giáo lý và suy niệm lời Chúa, những việc đạo đức như lần chuỗi, cầu lễ… phải luôn chiếm ưu tiên trong cuộc đời họ. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể thì phải sẵn sàng từ bỏ những thú vui, những lôi kéo khác như bài bạc, rượu chè, sắc dục…
Thánh Augustinô là tấm gương rõ ràng nhất về việc dành mọi ưu tiên cho Chúa. Tuy với quá khứ đầy dẫy những đam mê, những tội lỗi, nhưng từ khi biết Chúa, yêu Chúa thì Ngài đã sẵn sàng từ bỏ tất cả và đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.
Vì vậy giả dụ có những ai còn những đam mê khiến họ không thể dành ưu tiên cho Chúa được, thì hãy nhớ rằng không phải là không được, mà vì chúng ta chưa yêu Chúa đủ.
b. Nếu sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa thì phải “vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Có những đau khổ, những buồn phiền, những bệnh tật, những trái ý xảy ra, chúng ta cứ van xin hoài mà không thấy theo ý mình. Hãy biết rằng, chúng ta chỉ thấy những cái trước mắt, còn Chúa thấy cả cuộc đời chúng ta. Nếu trong những hoàn cảnh như vậy mà chúng ta chán nản, thất vọng, thậm chí bỏ Chúa luôn thì rõ ràng chúng ta không chấp nhận vác thập giá theo Chúa. Mà nếu không có thập giá thì sẽ không có Phục Sinh.
2. Gắn bó với con người
Nếu gắn bó với Thiên Chúa là yêu mến Ngài “hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”, thì gắn bó với con người là “Yêu người như mình ta vậy”.
Yêu người như chính bản thân ta là muốn họ cũng được như ta, cũng hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vì vậy vừa phải quan tâm đến họ trong cuộc sống này, nhưng nhất là phải quan tâm đến phần hồn phần rỗi của họ.
a. Quan tâm đến người khác trong cuộc sống này là tình người dành cho nhau. Thánh Phaolô đã nói: “Vui với người, khóc với người khóc”. Nghĩa là cùng chia sẻ với nhau mọi hoàn cảnh. Nhưng phải coi chừng đó là sự chia sẻ hay sự tò mò để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chúng ta.
Trong thời gian qua, cả xã hội sôi sục với việc đi tìm thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền, nạn nhân vụ phi tang xác của thẩm mỹ viện Cát Tường. Thi thể của chị Huyền thì vẫn chưa thấy đâu, tuy nhiên đã có 6 cái xác khác bị nghi là của chị. Cùng trên sông Hồng, cùng trong một địa bàn tìm kiếm, cùng là những người không may mắn, nhưng sự đối xử của xã hội với họ lại không như nhau. Có những người xung quanh vô cảm với những cái xác đó bởi vì không phải là điều mà họ đang mong đợi. Có vẻ mọi người cũng không chú ý đến những nhân vật phụ này lắm. Biết đâu trong số các thi thể trôi sông kia, ai đó cũng là nạn nhân của một vụ án dã man như chị Huyền? Nhiều người trong chúng ta đang quên đi nỗi đau của người khác mà chỉ chăm chăm đến mục đích của mình. Chúng ta đang lo lắng cho con người, lo lắng đến các giá trị của xã hội hay chúng ta chỉ đang thỏa mãn sự tò mò những câu chuyện giật gân thôi? Hãy quan tâm đến người khác, chứ đừng tìm thỏa mãn tính tò mò của bản thân mình.
b. Nhất là chúng ta phải quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của người khác. Khi còn sống, phải nhắc nhở nhau để sống đạo tốt. Khi đã qua đời, hãy tha thứ những gì có thể tha thứ để anh chị em chúng ta giảm bớt thời gian thanh luyện.
Nói tóm lại, phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật thích hợp khi chúng ta đang sống trong tháng 11, tháng cầu nguyện cho các Linh hồn. Chúng ta tin rằng có sự sống đời sau, để ngay từ bây giờ chúng ta lo gắn bó với Chúa và gắn bó với con người để có thể được hạnh phúc viên mãn ở sự sống đời sau, trong Nước Chúa.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam