Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 37

Tổng truy cập: 1440758

TIN TƯỞNG VÀO CHÚA KHI GẶP ĐAU KHỔ

Tin tưởng vào Chúa khi gặp đau khổ

 

Trong thông điệp Spe Salvi của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, số 36, ngài đã nói đến đau khổ là thành phần của cuộc sống con người. Đối với những đau khổ thể lý, con người đã thực hiện được các tiến bộ đáng kể. Nhưng các khổ đau tinh thần lại gia tăng rất nhiều trong những thập niên vừa qua. Đứng trước hiện trạng như vậy, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người phải làm hết sức để vượt thắng đau khổ. Thế nhưng, ngài cũng nhấn mạnh việc loại bỏ hoàn toàn đau khổ ra khỏi thế gian này nằm ngoài tầm tay của con người, vì không ai có đủ khả năng khai trừ quyền lực của sự dữ, của tội lỗi vốn là nguồn gốc của đau khổ. Do đó, Đức Giáo Hoàng đã kêu gọi con người hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa trước sự đau khổ của con người, bởi vì chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể chữa lành được những đau khổ của nhân loại.

Những lời kêu gọi chúng ta của Đức Giáo cũng là lời mời gọi trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Maccô đã cho chúng ta thấy hình ảnh người đàn bà bị bệnh băng huyết và ông trưởng Hội Đường tên là Giairô đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng vì phải chịu những đau khổ về thể xác và tinh thần mà họ không thể kêu cầu với ai để cứu giúp họ.

Người đàn bà đã đến với Chúa Giêsu trong sự tuyệt vọng, vì đã 12 năm bà phải chịu đau khổ vì một chứng bệnh mà đã nhiều lần chữa trị đều vô hiệu trong đôi bàn tay của nhiều bác sĩ. Bà cũng đã trả tiền chữa trị cho đến những đồng bạc cuối cùng, bà đã tận dụng hết mọi khả năng chữa trị của con người, nhưng cũng không thể chữa lành bệnh cho bà. Tuy bà phải chịu nhiều đau khổ về thể xác như vậy, nhưng có lẽ không bằng sự đau khổ về tinh thần mà bà phải chịu khi sống trong xã hội, khi sống với những người xung quanh. Đối với người Do Thái, một người đàn bà bị bệnh băng huyết bị coi là ô uế và bị cấm đụng đến người khác, vì ai đụng chạm đến bà cũng sẽ trở nên ô uế. Cho nên, nỗi đau khổ của bà là một tình trạng cô độc vì bị mọi người xa lánh, bà không thể đến được với ai và cũng không ai dám đến với bà để có thể an ủi và cảm thông với sự đau khổ mà bà phải chịu trong một thời gian dài như vậy.

Đồng thời, cùng với sự đau khổ của người đàn bà bị băng huyết này, thì sự đau khổ của ông trưởng Hội Đường cũng không kém, ông rất đau khổ vì đứa con gái của ông đang trong cơn thập tử nhất sinh. Và khi ông đến kêu cầu Chúa Giêsu thì người nhà cho ông biết là con ông đã chết, do đó, sự đau khổ của ông đã tăng lên gấp bội vì phải vĩnh viễn mất đi đứa con yêu quý của mình.

Thế nhưng, trong sự đau khổ lớn lao như vậy, họ không thể kêu cầu đến bất cứ ai được nữa, không còn ai có thể giúp đỡ họ khi mà nhu cầu của họ vượt quá khả năng của con người, thì họ đã đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa và Chúa đã chữa lành cho họ. “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh”.

Đau khổ là một thực tế mà không ai trong chúng ta trốn tránh được, không ai mà không có đau khổ trong cuộc đời của mình. Hay nói khác hơn, mỗi người đều mang trong lòng mình một nỗi đau, nỗi đau muôn hình vạn dạng, anh chị em đau vì chồng, khổ vì con, anh chị em đau đớn trong thân xác mà khổ sở trong tâm hồn. Đó là một thực tế chúng ta không thể phủ nhận được. Và việc loại trừ đau khổ này nằm ngoài tầm tay của chúng ta và không ai có đủ khả năng để khai trừ sự đau khổ này ngoài Thiên Chúa như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, cũng như lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã viết trong thông điệp Spe Salvi.

Khi nói về vấn đề này, có một hình ảnh mà chúng ta cần phải noi gương trong cuộc sống của mình, đó là Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, trong suốt 13 năm giam cầm trong một tình trạng đau khổ về thân xác và tinh thần hầu như tuyệt vọng. Mặc dầu ngài chẳng có tội lỗi gì, một người hiền lành, đạo đức, cả cuộc đời yêu thương, phục vụ người khác mà cuối cùng phải vào nhà tù. Cái hình ảnh đó cho chúng ta thấy một thực tế, đó là không phải mình cố gắng sống đạo đức, sống yêu thương, sống tốt lành mà cuộc đời của mình không có đau khổ, có khi còn phải chịu đau khổ nhiều hơn người khác nữa. Thế mà Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận vẫn đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi mà Đức Giáo Hoàng nói về Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận trong thông điệp Spe Salvi ở số 32, ngài viết như sau: “Nếu không còn ai nghe tôi nữa, thì vẫn còn có Chúa lắng nghe tôi. Nếu tôi không còn có thể nói chuyện với ai, nếu tôi không còn có thể kêu cầu đến bất cứ người nào, tôi vẫn luôn có thể thưa chuyện với Chúa. Nếu không còn ai giúp đỡ, khi nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, thì Thiên Chúa vẫn có thể giúp đỡ tôi”.

Chúng ta có thể dùng những lời này làm châm ngôn để an ủi cho mỗi người chúng ta mỗi khi gặp đau khổ, lúc nào cảm thấy cô đơn quá, không ai hiểu mình, không ai nghe mình, không ai thông cảm với mình, thì đừng quên là vẫn còn có Chúa. Hơn nữa, ngay cả khi chúng ta phạm tội, cũng là một sự đau khổ trong tâm hồn của mình, mà không ai có thể chữa lành được cho chúng ta, thì chúng ta hãy mau mắn chạy đến Tòa Giải Tội, nơi đó, Chúa luôn chờ đợi chúng ta, lắng nghe chúng ta và chữa lành cho chúng ta khỏi mọi tội lỗi và đem lại sự bình an trong tâm hồn chúng ta.

Đau khổ là một yếu tố không thể tránh khỏi của nhân loại. Mặc dù con đường đau khổ có thể dẫn chúng ta đến sự tuyệt vọng trong đời sống. Thế nhưng, với niềm tin của chúng ta, chúng ta hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể giải thoát chúng ta khỏi mọi đau khổ.

Lạy Chúa, trong chương trình quan phòng cứu độ của Ngài, con tin rằng đau khổ không nhận chìm con, nhưng mời gọi con tỉnh thức trong sự cậy trông và tin tưởng. Đau khổ nhắc nhở con thân phận và kiếp sống mỏng manh của mình, để con không quá bám vào bất cứ điều gì hay bất cứ người nào mà chỉ hy vọng vào một mình Chúa mà thôi. Xin ban cho chúng con sức mạnh của lòng yêu mến Chúa để chúng con luôn bình tâm trong mọi nổi khổ đau của cuộc đời mình. Amen.

 

 

 

 

 

32. Bệnh nạn và niềm tin

(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)

 

Nói đến bệnh, có người cho đó là do hậu quả của tội lỗi. Chẳng hạn như: Ăn kẹo sún răng – Uống rượu sinh đau bao tử – Ăn nhiều bội thực – Hút thuốc ho lao…

Không phải thế, nhưng tại vì con bệnh đã có sẵn trong mình, khi gặp được môi trường thích hợp thì nó phát triển thêm. Thực ra đau khổ, bệnh, chết… là một vấn đề nan giải. Tất cả nhắc ta nhớ đến sự yếu hèn, mỏng manh của cuộc sống. Nhắc đến sự mất quân bình của thế giới, nhắc ta hướng lòng tìm sự đẹp đẽ hơn ở nơi Chúa.

Bệnh Lao hiện nay có khoảng từ 10 đến 30 triệu người mắc và mỗi năm chết tới 2 triệu người.

Bệnh cùi hơn một triệu. Đó là những bệnh nan y khó trị nhất.

Bài Phúc âm nói đến bệnh loạn huyết người đàn bà chịu 36 năm là một điển hình, nhưng thời Ngài cũng còn bệnh cùi, hủi, đui, điếc, què, liệt, quỉ ám, chết… mà không vị lang cao tay nào trị được. Còn Chúa Giêsu ngài chữa được hết, nhưng không bằng thuốc mả bằng niềm tin “Tin sao được vậy”. Ngài đã làm vì thương họ.

Đáp lại chúng ta có vì thương Chúa mà hiếu kính Chúa cho trọn đạo làm con? Có trọn nghĩa vụ kẻ thụ ân không? Có tôn nhận Chúa là Chúa và là Cha nhân hiền không? Hãy cảm tạ, hiếu kính, tôn nhận Chúa thực trong tâm hồn và trong hành động đáp đền.

Chuyện kể rằng: ông vua kia sinh được người con, ông gửi hoàng tử đi ngoại quốc từ nhỏ để học hành. Sau nhiều năm chiến tranh không liên lạc được và cũng chẳng còn biết con ở đâu. Khi chết vua trối lại cho các cận thần là ông truyền ngôi cho con ở ngoại quốc. Sau ít ngày vua cha chết, bỗng từ 3 nước có ba người con về khóc cha. Các vị cận thần không biết ai là con để truyền ngôi cho. Các vị liền lấy một tấm hình của vua cha vẽ một vòng tròn đen vào đúng trái tim rồi cho ba người nhận làm con bắn với chủ đích: “Ai bắn trúng tim vua cha thì người ấy là con, sẽ được nối nghiệp vua cha và chiếm trọn gia tà”.

Người thứ nhất giương cung bắn trật. Người thứ hai cũng trật luôn. Người thứ ba giương cung lên nhìn ngắm nhiều lần, nhưng rồi lại buông xuống. Lần cuối cùng chàng ném cung xuống đất rồi òa lên khóc và nói rằng: “Thà rằng tôi mất quyền làm vua, mất của cải chứ không chịu bắn cha tôi”.

Mặc dù người con lạc mất, nhưng tâm tình vẫn nhớ đến đấng sinh thành. Người con dù biết làm vua là nối dõi tông đường, nhưng thà mất quyền làm vua và danh vọng để giữ được chữ hiếu, không mướn giết chết lương tâm và sự thật của mình.

Chúng ta cũng được Chúa thương gấp bội như câu chuyện trên, nhưng chúng ta xét lại thấy mình phản bội quá nhiều, yêu chiều ý riêng quá lớn, đam mê đủ thứ, có nhiều khi còn liều lĩnh cả trong luân thường đạo lý… bắn Chúa đúng tim đen để mình làm chúa, không giống người con thứ ba chút nào. Chúng ta hãy sửa lại, hãy chạy đến với Chúa như viên bách quan biết mình chẳng đáng đón Chúa, hay như bà bị bệnh chỉ cần đụng đến áo Ngài. Chớ gì tấm gương sống động ấy giúp chúng ta suy nghĩ và sống xứng đáng con Chúa, đáng lãnh nhận mão vương nghĩa tử chân thật.

 

 

 

 

 

33. Thiên Chúa quan tâm

(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)

 

Một giáo sư đại học tự xưng mình là vô thần. Một hôm ông tuyên bố trước mặt các sinh viên rằng ông sẽ chứng minh được là không có Thiên Chúa. Ông chế diễu: “Này Chúa, nếu Chúa thật sự hiện hữu thì tôi muốn Chúa đánh ngã tôi văng khỏi bục giảng này. Tôi cho Chúa đúng 15 phút.”

Cả phòng yên lặng, và mười phút trôi qua, ông lại ngạo mạn: “Tôi đang ở đây, và tôi đang chờ đợi.”

Một anh lính mới giải ngũ rời khỏi chỗ ngồi đi lên gặp vị giáo sư và tặng ông một cú đấm thật mạnh vào mặt, khiến ông văng khỏi bục giảng, ngã xuống bất tỉnh. Sau đó, anh lính bình tĩnh về chỗ ngồi.

Vị giáo sư dần dần tỉnh lại, nhìn anh lính và hạch hỏi: “Có chuyện gì với anh vậy? Tại sao anh lại đánh tôi?”

Anh lính trả lời: “Thiên Chúa đang quá bận rộn, nên ngài gửi tôi tới.” (God is too busy, so He sent me).

Thiên Chúa của chúng ta là Đấng như thế nào? Phải chăng Ngài tạo dựng vũ trụ và rồi thoải mái ngồi chơi xơi nước không để ý chuyện thế gian hay vẫn tiếp tục quan tâm đến cuộc sống của các thụ tạo? Phải chăng Ngài quá bận rộn chăm sóc những nhân vật quan trọng và vì thế không còn đủ thời giờ để săn sóc quan tâm đến những người tầm thường bé nhỏ?

Qua hình ảnh nhân loại của Chúa Giêsu, tin mừng hôm nay đã trình bày khuôn mặt sống động của một Thiên Chúa luôn yêu thương quan tâm:

Đám đông dân chúng đã đang tụ họp lắng nghe Chúa giảng dạy. Đây là dịp tốt thuận lợi để truyền bá giáo lý, nên chắc hẳn Chúa đã chuẩn bị cẩn thận bài nói chuyện. Đang chia sẻ, bỗng dưng chương trình của Chúa bị xáo trộn, khi ông Giairô trưởng hội đường, đến cắt ngang bài nói chuyện và xin Chúa chữa con gái ông sắp chết. Nhìn thấy nỗi khổ của người cha, Chúa đã sẵn lòng hy sinh bỏ chương trình kế hoạch riêng của Chúa để đáp ứng nhu cầu của người cần cứu giúp. Không thấy tin mừng ghi lại Chúa phàn nàn kêu ca vì phải cắt ngang bỏ dở chương trình.

Rồi trên đường đi, Chúa cảm thấy có người đụng chạm, người đó là một người đàn bà bị bệnh loạn huyết. Thật dễ hiểu nếu Chúa có trở nên bất nhẫn với bà: “Tại sao bà lại làm phiền tôi chứ? Bà không thấy rằng tôi đang phải cứu giúp con ông trưởng hội đường khỏi chết sao? Bà và chuyện của bà có thể đợi được mà?”

Nhưng thay vì bất nhẫn hay trách móc, Chúa Giêsu đã nhận thấy người đàn bà cũng đáng thương, và tuy dù bệnh tật của bà không quan trọng bằng chuyện đứa con sắp chết của ông Giairô nhưng cũng là điều thật quan trọng đối với bà. Với lòng thương cảm, Chúa bảo bà: “Này con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh.”

Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta thấy được hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương quan tâm. Có người bảo: “Ngài không quá bận để điều khiển vũ trụ. Ngài có thời giờ cho những nhân vật quan trọng có tên tuổi như ông Giairô trưởng hội đường, nhưng Ngài cũng có thời giờ cho người tầm thường bé nhỏ như người đàn bà không tên tuổi bị bệnh loạn huyết. Ngài có thời giờ cho Đức Giáo Hoàng, cho các vị lãnh đạo, cho những người quan trọng, và Ngài cũng có thời giờ cho những người tầm thường như chúng ta.”

Kiểm điểm lại cuộc sống, có lẽ chúng ta cần phải khiêm nhường xin ơn tha thứ vì rất có thể nhiều lần chúng ta không quá bận như Thiên Chúa nhưng đã không dành thời giờ cho anh chị em khi họ cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Hơn nữa, thay vì ân cần lắng nghe theo dõi đáp ứng những nhu cầu của anh chị em, chúng ta đã nhẫn tâm nhắm mắt bịt tai xua đuổi. Có lẽ còn lâu lắm và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được ở nơi Chúa bài học cảm thông nâng đỡ, và được nên giống Chúa?

Nếu ngày hôm xưa Chúa đã có thời giờ cho dân chúng, đáp ứng những nhu cầu của họ, thì ngày hôm nay Ngài cũng có thời giờ cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có đi đến với Chúa, và kêu xin Người giúp đỡ?

Nếu Chúa đã có thời giờ cho chúng ta, phải chăng chúng ta cũng có thời giờ cho anh chị em chúng ta? Chúa và anh chị em đang chờ đợi câu trả lời của mỗi người chúng ta.

 

 

 

 

 

34. “Ai Chạm Đến Ta?”

(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CRM)

 

“Không ai có thế đến với tha nhân nếu chính mình không sẵn sàng chạm đến thân thể của họ. Nếu bạn không sẵn sàng chạm đến một người vô gia cư, một người say rượu hoặc một người thật dơ bẩn, thì chính bạn không sẵn sàng phục vụ cho những người đó.” (Nhà Tâm Lý Học Charles Gerkin, Đại Học Emory)

Một cử chỉ chạm, một cái ôm và những cử chỉ êm dịu trực tiếp đụng đến thân thể của tha nhân bày tỏ tình yêu thương và chấp nhận họ cách mãnh liệt hơn những lời nói ngọt ngào có thể đem lại được. Cử chỉ chạm là con đường hai chiều: nó ảnh hưởng đến người thụ động cũng như người chủ động.

Trong cuộc sống, chúng ta, ai cũng đã từng đóng vai chủ động và thụ động; nghĩa là ta đã từng chạm đến người khác cũng như được người khác chạm đến. Tôi nhớ lại những lần viếng thăm nhà dưỡng lão cũng như những tháng làm Tuyên Úy trong nhà thương. Mỗi khi đến thăm những người cô đơn cũng như bệnh nhân, họ đều muốn nắm tay tôi khi nói chuyện. Có những lần tôi cầm tay họ cho đến hơn một tiếng mà họ vẫn chưa muốn buông thả. Qua đó, tôi nhận thấy rằng một cử chỉ nhỏ mọn như cầm tay hoặc xoa nhẹ trên vai đều mang lại cho người được chạm cũng như chính tôi một sự bình an, niềm vui và sức sống mới.

Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô cũng tả lại hai cử chỉ chạm. Trước hết, người đàn bà bị bệnh xuất huyết hành hạ 12 năm chạm đến Chúa Giêsu. Kế đến là Chúa Giêsu chạm đến em bé gái 12 tuổi. Cả hai cái chạm đều mang lại sự sống và niềm vui cho người chạm cũng như người được chạm. Người đàn bà bệnh đã 12 năm chạm đến Chúa và được chữa lành. Em bé 12 tuổi được Chúa chạm đến được hồi phục sự sống. Trong hai câu truyện, Marcô có đề cập đến một chi tiết giống nhau mà ta cần chú ý, đó là chi tiết 12 năm.

Theo phong tục thời đó, tuổi 12 là tuổi được lập gia đình. Cô bé đã chết trước khi được trở nên một người vợ và người mẹ. Người đàn bà bị bệnh hành hạ làm cho không thể sinh con. Cả hai đều có khả năng cộng tác với Chúa để mang sự sống vào thế gian, nhưng một người bị bệnh hành hạ và một người bị cướp mất chính sự sống. Nhưng, nhờ hai cử chỉ đụng chạm, Chúa Giêsu đã không chỉ cứu hai người nữ này khỏi chết, nhưng đã hồi phục chọ họ khả năng sinh con, một khả năng ban sự sống.

Ta cũng nên nhớ là không phải ai chạm đến Chúa cũng được khỏi. Đám đông chạm đến Chúa nhưng không gì xảy ra. Ngược lại, người đàn bà chạm đến Chúa đã mang lại một phép lạ. Điều khác biệt giữa hai cái chạm là mức độ ĐỨC TIN. Người đàn bà tin mạnh nên được khỏi và đám đông chỉ chạm đến Chúa vì hiếu kỳ nên không gì xảy ra.

Trong cuộc sống hằng ngày, ta chạm đến nhiều người cũng như được nhiều người chạm đến ta. Nhưng, thử hỏi ta chạm đến tha nhân bằng cách nào? Cử chỉ chạm của ta đem lại cho họ một niềm vui, sự bình an và an ủi hay chỉ là một cái chạm thông thường?

Đặc biệt hơn nữa, nếu Chúa Giêsu xuất hiện, đi ngang qua và ta có cơ hội để chạm đến gấu áo của Ngài, ta sẽ chạm đến Ngài với một thái độ hiếu kỳ như đám đông hay với một ĐỨC TIN, như của người đàn bà trong Tin Mừng, là mình sẽ được biến đổi? Thật sự, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta và chúng ta có cơ hội không chỉ chạm đến gấu áo Ngài, nhưng là chính thân thể Ngài. Đây chính là đặc ân ta được hưởng mỗi khi dự Lễ và rước Chúa vào lòng. Chúng ta đã rước Chúa với thái độ nào?

Xin Lời Chúa hôm nay giúp ta ý thức được đặc ân này và tham dự Thánh Lễ chăm chỉ, dọn mình sốt sàng để rước Chúa vào lòng. Nguyện xin Mẹ Maria, người đã không chỉ được chạm đến Chúa nhưng còn được mang chính Chúa trong lòng, giúp ta luôn biết đặt hết tâm hồn và tấm lòng vào những lời ta đọc trước khi rước Chúa, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.

 

 

 

 

 

35. Bàn tay thi ân

(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)

 

Sau đệ nhị thế chiến, giáo dân thành phố Franfurt tại nước Đức đang trùng tu lại ngôi Thánh Đường đã bị tàn phá vì bom đạn chiến tranh. Tượng Chúa Chuộc Tội vĩ đại tại chính điện cũng là một công trình nghệ thuật cần phải sửa chữa. Người ta tìm được hết các phần của pho tượng đó, trừ ra hai bàn tay không sao thấy được. Sau nhiều phiên họp bàn tính có nên thuê thợ làm lại hai bàn tay giống hệt như cũ không? Toàn thể giáo dân đều đồng thanh quyết định: Cứ để tượng Chúa không có hai bàn tay; nhưng ở dưới pho tượng đó đề một hàng chữ lớn như sau: “Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta”.

THIÊN CHÚA HẰNG THI ÂN GIÁNG PHÚC

Chúa là Cha Nhân Từ hằng thương yêu săn sóc và thi ân giáng phúc cho chúng ta. Chúa đã tạo dựng nên chúng ta như một thụ tạo đặc biệt tốt lành giống hình ảnh Chúa, được thông phần hữu thể và bản tính Chúa, có hồn thiêng bất tử, không nhiễm nọc độc sự chết, để rồi được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban trên Nước Hằng Sống. Nhưng vì ác quỉ ghen tương, cám dỗ nguyên tổ loài người phản nghịch, bất tuân lệnh Chúa, sa phạm giới răn Người, nên sự chết đã nhập vào trần gian.

Tình thương của Chúa vô cùng rộng lượng, hằng tha thứ mọi tội lỗi của loài người đã xúc phạm đến Chúa. Để thể hiện tình yêu thương tha thứ đó cách hữu hiệu và cân xứng với trọng tội ngỗ nghịch phạm đến Đấng cao cả vô cùng, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể xuống thế làm người, sống kiếp sống phàm nhân như chúng ta, lãnh chịu mọi định luật tự nhiên của con người, để cảm thông chia sẻ mọi nỗi thống khổ, rủi ro bất trắc, khó khăn nghịch cảnh, vất vả như chúng ta. Hơn nữa, Người còn gánh lấy mọi tội lỗi của chúng ta bằng cách lãnh nhận bản án bất công tử hình ô nhục trên Thập Giá, để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, cứu chuộc chúng ta.

GIÁO THUYẾT BÁC ÁI THI ÂN

Thánh Phaolô trong thư gởi Giáo Đoàn Corintho đã nhắc lại cho chúng ta mẫu gương của Chúa: “Anh chị em đã biết lòng quảng đại của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; mặc dù giầu sang, Người đã trở thành thân phận nghèo khó, để nhờ sự nghèo khó cùng cực của Người, anh chị em được nên giầu có” (2 Cor 8:9).

Qua gương mẫu cao cả đó, thánh nhân khuyến khích chúng ta, những người được dư giả bù đắp cho những người thiếu thốn, những người giầu có sung túc chia sẻ cho những người nghèo túng, những người khỏe mạnh nâng đỡ những người yếu đuối, những người thông thái khôn ngoan nâng đỡ những kẻ dốt nát quê mùa.

Giáo thuyết bác ái Thánh Tông Đồ dạy chúng ta đây, không chỉ dừng lại nơi những của cải vật chất ở đời này, mà ngài còn khuyên dục chúng ta chia sẻ lòng tin tưởng, sự hiểu biết Thiên Chúa và những ơn phúc chúng ta đã nhận lãnh bởi Chúa cho kẻ khác, để họ cũng được thông phần hạnh phúc của con cái Chúa như chúng ta nữa.

HẠNH PHÚC CỦA TÔI LÀ THI ÂN

Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại một vài ơn phúc trong muôn phần, Chúa Cứu Thế đã thực hiện trong cuộc đời công khai truyền bá Tin Mừng lúc sinh thời trên trần gian. Đi tới đâu, Chúa cũng rộng tay thi ân giáng phúc cho nhân loại, Thánh Sử tường thuật biết bao phép lạ Ngài đã thực hiện, để cứu giúp những người cùng khổ nghèo nàn, những kẻ mù lòa, què quặt, câm điếc và mọi thứ bệnh tật… Nhất là Ngài luôn động lòng trắc ẩn thương cảm đến số phận đời đời của tất cả những ai chưa được Ánh Sáng Đức Tin chiếu soi; những kẻ bơ vơ như đoàn chiên không người chăn dắt, những kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết, trong sự tin vơ thờ quấy, trong mê tín dị đoan và tất cả những ai còn bị tội lỗi và quyền lực hỏa ngục cầm buộc.

Kết Luận

Việc làm và quyết định của người Giáo Dân thành phố Franfurt nước Đức trong câu truyện trên đây có một ý nghĩa sâu xa. Họ để cho tượng Chúa Chuộc Tội thiếu hai bàn tay với hàng chữ: “Chúa Kitô không có hai bàn tay, ngoài hai bàn tay của chúng ta”, là có chủ ý để nhắc nhở cho họ rằng: Chúa cần dùng hai bàn tay của họ để Ngài tiếp tục sứ mạng Cứu Thế, thi ân giáng phúc cho nhân loại.

Vậy, chúng ta đã thực thi lòng Bái Ái như giáo lý Chúa dạy, như lòng Chúa khát mong và như mẫu gương Chúa đã thực hiện chưa?

– Chúng ta đã chia sẻ cơm bánh, áo quần cho người túng quẫn chưa?

– Chúng ta đã an ủi những người sầu buồn, nản chí thất vọng chưa?

– Chúng ta có thương cảm và cầu nguyện cho những ai chưa nhận biết Chúa để họ cũng được diễm phúc trở nên con cái Chúa như chúng ta chưa?

 

 

 

 

 

36. Sức mạnh niềm tin

 

Một tổng thống có những cuộc thăm viếng thường xuyên những người lính tại một bệnh viện. Ông đi từ phòng này tới phòng khác, khích lệ và cảm thông với những bệnh nhân. Ông đến cạnh một anh lính trẻ đang hấp hối và hỏi: “Này bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn?”

Anh nhìn lên và diễn tả điều ao ước: “Ngài sẽ viết thư cho mẹ tôi giúp tôi được không?”

Ông đồng ý: “Tôi sẽ viết” và yêu cầu lấy giấy bút. Ông ngồi cạnh giường và viết những gì anh đọc cho. Viết xong, ông quay lại nói: “Tôi sẽ gởi thư này ngay sau khi rời khỏi văn phòng. Và bây giờ còn điều gì khác tôi có thể làm không?”

Anh ngước nhìn, ngập ngừng, và cuối cùng buộc miệng: “Ngài có thể ở lại với tôi? Tôi muốn ngài nắm tay tôi”. Ông nắm tay anh cho đến khi anh chết vài giờ sau đó.

Trong truyện người bệnh dám đòi điều kiện với viên tổng thổng. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm không dám mở miệng xin Đức Giêsu mà chỉ lén “sờ vào áo của Người”. Còn ông Giaia thì đỡ hơn không phải e dè như người đàn bà bị băng huyết. Vì băng huyết là một chứng bệnh dơ dáy. Người Do thái không chỉ thấy nó dơ về mặt thể lý mà còn coi nó là một thứ ô uế luân lý. Cho nên có luật cấm những kẻ mắc bệnh đó không được đụng chạm tới người khác, chạm tới ai thì người ấy kể như bị lây ô uế đó. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết này cũng không dám cất tiếng kêu xin Đức Giêsu vì sợ người ta biết mình bệnh và xua đuổi mình. Bà định im lặng rờ vào mình Đức Giêsu. Nhưng vậy là phạm luật thánh, là có tội: thật là khó xử. Còn ông Giairô thì xin Chúa đến chữa trị cho con gái mình đang bệnh nặng. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì ông được tin con gái đã chết. Cả hai mới bắt đầu nhen nhúm hy vọng thì lề luật khắc khe đó như ngăn cản sự sống của hai con ngưòi khốn khổ này. Nhưng cuối cùng thì rào cản đó đã bị phá bỏ nhờ tình yêu Đức Giêsu và đức tin của người bệnh.

1. Tình yêu với người bất hạnh

Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng cho tất cả mọi người nhưng Ngài đặc biệt quan tâm đến những người nghèo khổ, bệnh tật. Đôi lúc tự chúng thất vọng như bị Chúa bỏ rơi, có thể đó là những lúc chúng ta chưa cảm nhận được tình yêu Chúa, chứ ơn Ngài luôn đổ tràn và tình thương Người không bao giờ chấm dứt. Cũng tương tự, như người đàn bà bị loạn huyết và ông Giai-rô hôm nay chắc chắn khi Đức Giêsu chưa chữa lành bệnh thì họ vẫn chưa thấy được tình Chúa yêu. Họ đã gặp được Chúa mà họ vẫn còn chưa hoàn toàn tin, bằng chứng là những người xung quanh “chế nhạo Người” mà ông Giai-rô là chủ nhà mà lại không có một lời biện minh, vì ông ta chưa cảm nhận đủ tình yêu mà Thiên Chúa dành cho gia đình ông nên ông không đủ can đảm để làm chứng. Có câu chuyện kể rằng: Một người vô thần ngày nọ đứng giữa công trường, ngửa mặt thách Chúa trong 5 phút, xem có dám giết ông không. 5 phút trôi qua, chẳng có chuyện gì xảy ra. Anh ngạo nghễ ăn nói xúc phạm đến Chúa. Chợt một bà già hỏi:

– Này ông, ông có đứa con nào không?

– Ồ, sao bà lại hỏi thế?

– Nếu một đứa con anh cầm con dao đưa cho anh bảo anh giết nó, anh có làm không?

– Không, tôi thương chúng lắm.

– Chúa cũng vậy, Ngài thương anh lắm, đâu nỡ giết anh.

Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta luôn bao la nhưng nhận được bao nhiêu tùy ở mỗi người.

2. Đức tin

Người được biệt danh là “cha của những kẻ tin” là Abraham, khi đã lớn tuổi mới có được một đứa con trai, nhưng vâng lệnh Chúa ông đưa con lên núi sát tế và lòng đau như cắt mà vẫn tin rằng Chúa sẽ thực hiện lời hứa làm cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và quả thực Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin. Và mẫu gương thứ hai là Phêrô khi tin ông dám bước đi trên mặt nước biển, Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống. Khi có đức tin thì con người sẽ được múc lấy nguồn năng lực từ Đức Giêsu như chính người đàn bà bị bệnh hôm nay, chính nhờ đức mà bà đã được nhận nguồn năng lực từ Đức Giêsu “Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra”. Thì ngày hôm nay, đức tin chính là điều kiện cần và đủ để chúng ta được sống và sống dồi dào, vì chính Đức Giêsu đã khẳng định “Ta là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Ta, cho dầu có chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không chết bao giờ”.

Lạy Chúa, Xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, và biết chạy đến với Chúa xin Ngài chữa con lành chứng bệnh phần hồn và phần xác. Amen.

 

 

 

 

 

37. Lòng tin của con đã cứu con

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

 

1. Thân phận con người

Đức Giêsu thực hiện hai phép lạ: phép lạ chữa bệnh và phép lạ làm cho sống lại. Hai phép lạ này liên quan đến hai nghịch cảnh của đời sống con người, trong đó có những người thân yêu của chúng ta và có khi, có cả chúng ta nữa.

– Người cha có đứa con gái mới 12 tuổi đã chết. Sự bất hạnh của em bé, nhưng cũng là nỗi đau của bố, của mẹ, của cả nhà. Theo sách Tin Mừng của thánh Mát-thêu, em bé đã chết rồi, còn theo thánh Mác-cô và thánh Luca, lúc người bố đến kêu xin Đức Giêsu, thì em bé chưa chết; nhưng lúc Ngài đang trên đường tới nhà, cháu bé mới chết. Chi tiết này làm bật lên nỗi đau của người bố và của cả gia đình là một nỗi đau kéo dài.

– Người phụ nữ, có lẽ đã lớn tuổi, mang một thứ bệnh kín đáo trong người đã 12 năm. Có những thứ bệnh ai cũng biết, nhưng cũng có những thứ bệnh chỉ có một mình biết, kéo dài, nỗi đau triền miên.

Hai nghịch cảnh của hai lứa tuổi nói cho chúng ta thật nhiều về thân phận và những vấn đề muôn thủa của con người: bệnh tật và cuối cùng là cái chết, có thể xẩy ra ở bất cứ lứa tuổi nào; bệnh tật và sự chết làm bật lên sự liên đới của nhiều người; bệnh tật và sự chết tất yếu đặt ra con con người vấn đề Thiên Chúa và buộc phải lựa chọn tin hay không tin.

Và Lời Chúa cũng mặc khải cho chúng ta biết cách Thiên Chúa, ngang qua Đức Giêsu-Kitô, liên đới với đau khổ và cả sự chết thuộc về thân phận con người như thế nào.

2. Lòng tin

Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.

Nhưng để được chữa lành thực sự, nghĩa là trọn vẹn, chúng ta được mời gọi đi vào tương quan mãi mãi với một ngôi vị, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Và đó chính là điều mà người phụ nữ được ban tặng, vượt xa nhu cầu chữa bệnh của bà. Được khỏe là một nhu cầu quan trọng, nhưng điều này vẫn chưa giải quyết được hết những vấn đề liên quan đến “sự sống” của một con người. Đời sống con người cần sức khỏe, nhưng khỏe thôi vẫn chưa đủ. Hơn nữa, xét cho cùng, người ta đâu có khỏe được mãi, và có rất nhiều phận người, sinh ra đã tật nguyền. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nói: “lòng tin của con đã cứu con”. “Cứu” ở đây vượt xa vô hạn phép lạ hết bệnh.

Cái chết của đứa con, nhưng lòng tin lại là lòng tin của người cha: “con gái tôi mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên cháu, là nó sẽ sống”. Lòng tin của bố cứu được con mình. Điều kì diệu này được ghi lại khắp nơi trong các Tin Mừng. Chính vì thế mà chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho nhau, cho người sống và kẻ chết. Vì Chúa cũng yêu thương những người chúng ta thương yêu trong Chúa.

Đức Giêsu không quan tâm đến tiếng tăm của mình, nhưng quan tâm đến sức khỏe và sự sống của em bé: “Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm” (c. 40). Sau này trong cuộc Thương Khó, Ngài sẵn sàng mang vào mình cái chết đau đớn và sỉ nhục tận cùng, để hiện diện, cảm thông với mọi đau khổ và mọi cách chết của con người, để bày tỏ lòng thương xót và dẫn chúng ta vào niềm Hi Vọng. Biến cố cá biệt, nhưng đem lại cho nhân loại chúng ta niềm hi vọng thật lớn: tất cả người chết sẽ sống lại, nếu Đấng Phục Sinh “cầm lấy tay”.

3. Niềm hi vọng

Cách Đức Giêsu đến với mỗi người mỗi khác. Với người phụ nữ, bà cố để đụng được vào gấu áo của Đức Giêsu; nhưng với em bé, Ngài đến tận nơi: “Người đi vào, cầm lấy tay em bé, nó liền trỗi dậy”. Đó chính cũng là cách Chúa ban ơn cứu độ cho từng người, luôn luôn đích thân và duy nhất. Bởi lẽ người ta không thể công thức hóa ơn cứu độ, lề luật hóa lòng tốt của Thiên Chúa được.

Đức Giêsu quan tâm đến sự sống của mỗi người, của cả loài người. Những gì Ngài làm, thật lạ lùng, nhưng cũng thật giới hạn. Vì người phụ nữ cũng sẽ bệnh lại và chết; em bé lớn lên và cũng qua đi. Nhưng đó là những dấu chỉ làm cho chúng ta hướng tới và đặt hi vọng nơi ơn huệ còn lạ lùng hơn: đó ơn huệ sự sống vô hạn trong Chúa và cùng nhau, mà Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh hứa ban cho chúng ta.

Chính niềm hi vọng đặt nơi ngôi vị của Đức Kitô phục sinh, làm cho chúng ta bình an và can đảm đảm nhận hôm nay phận người của mình và thân phận của cả những người khác nữa, nhất là những người thân yêu của chúng ta trong Gia Đình và trong ơn gọi dâng hiến.

 

 

 

 

 

38. Mắt nhìn tay chạm – Lm. Nguyễn Khoa Toàn

 

Người sống, khi phải nói về người đã chết, thường uất nghẹn và nước mắt chạy vòng quanh. Nghẹn ngào hơn khi đối tượng là một người thân mình hằng yêu dấu. Và lại càng tưởng chừng như không thể khi nói về người mẹ đã đứt ruột xé lòng chắt chiu nuôi nấng mình lớn khôn giờ không còn nữa…

Tôi đã làm điều tưởng chừng như không thể kia cách đây non hơn một tuần. Lệ tuôn trào làm nghẹn lại từng chữ từng lời. Mà chữ và lời cũng gần như vô nghĩa khi nói về nỗi đau sâu thẳm nhất trong mọi nỗi khổ đau này.

Đau đớn vì cái chết đã muôn đời miên viễn cách ngăn người ở bên này và kẻ ở bên kia. Chết! Nghe sao quá hãi hùng! Sao quá tang thương! Và sự hãi hùng tang thương càng tăng thêm cường độ khi chung quanh đầy những màu tang tím. Khi chỉ nghĩ đến khoảng không gian cách ly hiện tại mà quên bẵng đi một đời kiếp thiêng liêng hội ngộ tương lai. Khi niềm tin chỉ giới hạn đến những vật chất hữu hình và không thể đưa mắt nhìn sâu nhìn xa đến những gì tinh thần bao la vô tận.

Và thường khi phải cần đến một bàn tay chạm đến để niềm tin vào đời sống mai sau được muôn đời bừng lên thắp sáng. Như Beethoven một ngày nọ đến thăm một thiếu phụ kia đang gập cúi người nức nở khóc bên cạnh xác chồng. Cảm thông với nỗi đau đớn của người goá phụ tuổi còn đang xuân và nhan sắc còn hồng, Beethoven đến trước đàn dương cầm và thiên tài âm nhạc bậc nhất cổ kim kia đã đan tay chuyễn ngón tấu lên một nhạc khúc Phục Sinh rồi lẳng lặng ra về trước đôi mắt quá đỗi kinh ngạc của người thiếu phụ buồn. Và sự sững sờ kinh ngạc kia cũng chính là sự kinh ngạc sững sờ của các môn đệ Chúa trên thuyền giữa biển khơi cuồng nộ sóng.

Như những thương nhân vượt biển, “họ đã nhìn thấy những kỳ công của Chúa nơi chỗ thâm uyên”. Hạt giống đức tin chỉ có thể nẩy lộc đâm chồi khi tâm trí thấu hiểu vũ trụ Chúa tạo dựng cho con người và vì con người; khi không còn biên giới giữa bên này và bên kia sự chết vì “Thiên Chúa không tạo dựng sự chết” và vì “công chính thì vĩnh cửu và bất tử.”

Hal Lindsey đã viết là “con người chỉ có thể sống bốn mươi ngày không cần ăn, ba ngày không cần nước, tám phút không cần không khí, nhưng chỉ một giây thôi nếu không tin yêu và hy vọng.”

Đã chết khi không tin không hy vọng; khi không còn kinh ngạc khi không biết sững sờ và nhất là khi không chu toàn sứ vụ cai quản làm chủ vạn vật mà Thiên Chúa tín cẩn trao ban. Cũng không còn sống nữa khi tâm trí chỉ nghĩ đến mình mà quên bẵng tha nhân. Đức tin cần đôi mắt giương to nhìn thế giới. Và cần thật cần đôi tay chạm đến những tâm hồn đang ngóng chờ một chút hơi ấm thương yêu.

Như đôi mắt khẩn cầu của người cha cho đứa con gái vừa trút hơi thở cuối. Như đôi bàn tay yếu đuối khăng khiu của người đàn bà kinh niên bệnh hoạn. Đời sống đức tin đã biểu hiện vẹn toàn trong khoé mắt người cha. Trên đầu từng ngón tay người mẹ.

Johann Wolfgang von Goethe cảm thấy như đã chết khi mỗi ngày không nhìn một hình ảnh đẹp, ngâm một đoạn thơ hay hoặc nói vài lời có ý nghĩa. Chẳng còn gì chua xót và đau đớn hơn khi tiến dần về cái chết mà đôi mắt vẫn không buồn mở và đôi tay vẫn khư khư không sờ không chạm. Đến tận cùng thế giới. Và đến mỗi tha nhân…

 

 

 

 

 

39. Niềm tin thắp sáng hy vọng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

 

Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay được cả ba tác giả trong Tin Mừng Nhất Lãm kể lại. Tuy nhiên, Máccô kể dài hơn, gồm 23 câu, do vậy nhiều tình tiết hơn, cảm động hơn khiến chúng ta bị cuốn hút một cách tự nhiên từ đầu đến cuối câu chuyện. Máccô đã lồng hai câu chuyện vào với nhau một cách khéo léo, tài tình, nhưng ý nghĩa vẫn là một: Đức Giêsu ban tặng sự sống cho những ai vững tin và biết cộng tác với Ơn Thánh.

1. Chúa ban sự sống, con người có lòng tin.

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể rằng, giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Người. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, bất chấp lệnh cấm theo lề luật Do thái. Mười hai năm mắc bệnh băng huyết. Mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi. Mười hai năm bị coi là ô nhơ, không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ. Người phụ nữ thận trọng và đầy can đảm đã đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”. Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Phép lạ thứ hai, Máccô kể, ông Giairô đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái ông đã mười hai tuổi. Ông là viên chức trưởng hội đường. Tình yêu của người cha đối với đứa con gái đã làm cho ông can đảm. Ông sẵn sàng tin cậy vào một người xa lạ. Ông tín nhiệm vào một người từ nơi khác đến. Ông chỉ mới nghe danh tiếng về người ấy. Ông đến gặp Chúa và “phủ phục dưới chân Đức Giêsu và năn nỉ”. Đức Giêsu đã chấp thuận, nhưng khi hai người đang trên đường về nhà ông thì được tin con gái đã chết. Vậy là hết, vô phương cứu chữa nữa! Đức Giêsu động viên ông “Đừng sợ, cứ tin”. Khi đến nhà, thấy đông đảo bà con xóm làng đến, Người nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Cô bé đã chết rồi, nhưng đối với Đức Giêsu, cái chết chẳng có tính chung cuộc mà chỉ là một giấc ngủ thôi. Người có quyền năng đưa kẻ chết ra khỏi giấc ngủ ấy. Với cử chỉ đơn sơ cầm tay đứa bé và nói “Talithakum”, nghĩa là “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!” Đức Giêsu đã khiến cho đứa bé đứng dậy và đi lại được. Người còn bảo họ cho đứa bé ăn để chứng thực là nó đã sống lại thật.

Hai phép lạ đều liên quan đến sự sống. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết đang mất dần sự sống: máu là nguyên lý sự sống, mà bà này đã bị mất máu liên tục mười hai năm, nghĩa là sức sống đang dần dần rời xa bà. Vì thế khi Đức Giêsu làm cho bà hết bệnh, là Người trả lại sức sống cho bà. Đứa con gái ông Giairô thì đã chết, sự sống đã hoàn toàn rời khỏi nó. Nhưng Đức Giêsu đã làm cho nó sống lại.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin. Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”. Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Giarô: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

– Như Abraham đã 90 tuổi mới có được một đứa con trai. Vâng lệnh Chúa, ông đưa con yêu quý lên núi sát tế mà lòng đau như cắt. Ông tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa ban cho ông thành tổ phụ một dân đông đảo. Ông vẫn tin và Chúa đã làm ông thành tổ phụ những người tin.

– Như Phêrô dám bước đi trên mặt nước. Ông đã đi khi vững tin vào Chúa. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi thì cũng là lúc ông bắt đầu chìm xuống.

Đức Giêsu bày tỏ quyền năng trên thiên nhiên, trên ma quỷ, trên bệnh tật và trên sự chết, vì Người là Đấng ban sự sống. Tin vào Người, chúng ta luôn có được sự sống dồi dào.

2. Cộng tác với ơn Chúa

Chuyện kể rằng một bà già bị đau răng, bà đã làm Tuần chín ngày để kính thánh Antôn, vì người ta nói: Thánh Antôn “chuyên trách” về bệnh này.

Hết tuần chín ngày bà vẫn còn đau. Lúc đó một vị linh mục đến thăm. Bà liền hỏi:

– Xin Cha nói cho con biết: có phải thánh Antôn chuyên trách bệnh đau răng không?

Vị linh mục nói:

– Bà hãy nghe tôi: Đây là địa chỉ của nha sĩ. Hãy đến đó và nói là tôi giới thiệu, họ sẽ làm không công cho bà.

Bà già la lên:

– Trời đất ơi, một ông linh mục vô thần.

Thánh Antôn tự nhủ:

– Kể ra cũng đau lòng, để nhận lời cầu nguyện của bà, chính ta đã gởi cho bà vị linh mục này. Thế mà!

Người phụ nữ xuất huyết và bà già đau răng đều tin tưởng vào Chúa. Nhưng niềm tin của họ có sự khác biệt rất lớn. Người phụ nữ xuất huyết nghĩ mình phải làm điều gì đó chứ không chỉ tin suông. Bà đến với Chúa chứ không chờ Chúa đến với mình. Bà già đau răng thì cầu nguyện rồi chờ phép lạ. Bà không chịu làm gì nữa.

Ông Giairô cũng tin rằng Chúa có thể cứu sống con gái ông. Ông đã làm hết sức mình. Con gái ông hấp hối không thể đến với Chúa được, nên ông đã xin Chúa đến chữa cho con gái ông.

Cộng tác với ơn Chúa là điều kiện để Chúa ban ơn. Chúng ta không thể chỉ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy sử dụng hết những phương tiện bình thường Chúa ban. Phần còn lại tùy Chúa định liệu cho ta. Thánh Ignatio de Loyola đã cho chúng ta lời khuyên bất hủ này: “Hãy làm như thể mọi việc tùy thuộc chúng ta và hãy cầu nguyện như thể mọi việc tùy thuộc Thiên Chúa”. Mc.Kenzie nói: “Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm những điều ta không thể”.

Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do, Người không thúc ép, nhưng để chúng ta toàn quyền sử dụng tự do của mình. Thiên Chúa không đối xử với chúng ta như những con bù nhìn, nhưng luôn coi trọng chúng ta như những cộng tác viên của Người.

Trong các phép lạ Chúa làm, Người đều cần sự cộng tác của con người. Trong tiệc cưới Cana, Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta đã “múc nước đổ đầy các chum” (Ga 2,7)

Trong phép lạ về bánh, Người chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi “có 5 chiếc bánh và 2 con cá” (Mc 6,35-43).

Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào mắt anh, còn phần anh phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40).

Thiên Chúa muốn chúng ta sử dụng hết các khả năng của mình, và Người sẵn sàng can thiệp khi cần. Cộng tác với Ơn Chúa bằng lòng tin là con đường của hy vọng.

3. Niềm tin thắp sáng hy vọng

Các phép lạ Đức Giêsu đã làm thường là điểm giao tiếp giữa quyền năng đầy tình yêu của Thiên Chúa và niềm tin của con người. Thiên Chúa giàu lòng xót thương nên ở đâu có niềm tin, ở đó có phép lạ. Chúa nói với người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con”; và nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20). Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội.

Mẹ Têrêxa nói với ông: Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin.

Người phóng viên hỏi: Tôi phải làm gì để có đức tin?.

Mẹ Têrêxa đáp: Ông hãy cầu nguyện.

Ông chống chế: Tôi không biết và không thể cầu nguyện.

Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta.

Đức tin thắp sáng niềm hy vọng và trổ sinh hoa trái bằng việc làm.

 

 

 

 

 

40. Tin và sờ – Guy Morin.

 

 “Đừng sờ!” đó là điều cấm đoán đầu tiên trong thời thơ ấu của chúng ta. Những món đồ chưng bày mảnh mai, những đồ vật nguy hiểm bị cấm đụng tới, và người lớn đàn áp chúng ta, không muốn chúng ta tiếp xúc với chúng. Trái lại họ tìm cách dụ dỗ chúng ta khi bắt chúng ta sờ con chó khiến chúng ta sợ hãi. Trong cuộc sống, chúng ta có kinh nghiệm là xúc giác hủy bỏ khoảng cách giữa những con người. Người ta có thể nhìn và nghe thấy từ xa nhưng người ta chỉ sờ khi ở gần mà thôi, sờ tức là gần ai đó, thân mật với họ.

Chúa Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể, rất thường dùng đến việc tiếp xúc thể lý. Ngài dùng tay sờ mắt, lưỡi, lỗ tai, da thịt bệnh nhân. Ngài ôm hôn trẻ con. Hơn nữa Ngài để cho những người bệnh đụng tới mình và bảo thánh Tôma thọc bàn tay vào cạnh sườn Ngài. Để diễn tả sự thật không chối cãi được của nhân tính Ngài, thánh Gioan viết: “Những gì tay chúng tôi đã sờ nơi Ngôi Lời sự sống… chúng tôi đã loan báo cho anh em” (Ga 1,1). Trong Tin Mừng hôm nay, có hai trường hợp sờ: Một phụ nữ sờ gấu áo Chúa Giêsu; Ngài nắm tay một cô bé đã chết để làm cho cô được sống lại. Lúc ban đầu, người phụ nữ này cũng như ông Giairô không muốn trở nên thân thiện với Chúa Giêsu; họ chỉ muốn được Ngài chữa lành thôi. Tuy nhiên đối với Chúa Giêsu những việc tiếp xúc này không chỉ là hành động thể lý mà thôi; chúng phải dẫn đến một mối tương quan cá vị, mối tương quan của đức tin.

Từ tiếp xúc đến đức tin.

Trong đám đông có một phụ nữ băng huyết. Thất vọng về các y sĩ, bà đã nghe nói về Chúa Giêsu và thấy Ngài là cơ hội cuối cùng để bà được chữa lành. Bà táo bạo vì bệnh của bà hay lây và làm cho bà trở nên ô uế (Lv 15,25). Không sao! Bà vẫn len lỏi tới, sờ vào gấu áo Chúa Giêsu và bà được chữa lành. Chúa Giêsu là ai đối với bà? Bà xem Ngài như thế nào? Bà không nghĩ đến việc này nhưng cử chỉ của bà cho thấy Ngài là ai. Ngài là người chữa lành; còn bà là bệnh nhân. Ngài có thể thỏa mãn nhu cầu về sức khỏe của bà; nơi Ngài có những năng lực chữa lành. Bà muốn được đón nhận năng lực này. Hoàn toàn chỉ quan tâm đến bệnh tật của mình, bà không tìm kiếm tương quan cá vị với Chúa Giêsu. Sờ được vào gấu áo của Ngài là đủ cho bà rồi. Đối với bà, Chúa Giêsu trước hết là một phương tiện để được chữa lành.

Chúa Giêsu sẽ dẫn đưa bà đến một mối tương quan cá vị. Bà muốn lẩn trốn; Ngài kéo bà ra khỏi sự vô danh của bà khi đưa mắt tìm bà. Và này đây bà run rẩy sụp lạy dưới chân Ngài. Lúc này, Ngài chữa lành bệnh cho bà, bây giờ, là Ngài làm cho bà run sợ. Chúa Giêsu không để bà phải sợ hãi, Ngài bảo: “Hãy đi về bằng an. Đức tin của bà đã cứu bà”. Ngài trả lại sức khỏe cho bà nhân danh đức tin của bà. Bà được chữa lành không vì đã đụng tới áo Chúa Giêsu như bà tưởng, nhưng vì bà đã tin nơi Ngài. Từ nay, bà biết rằng chính đức tin đã cứu thoát bà. Chúa Giêsu đã dẫn đưa bà từ một tin tưởng ma thuật đến đức tin vào bản thân Ngài.

Trường hợp ông Giairô lại khác hẳn. Với niềm tin tưởng, ông xin Chúa Giêsu đến đặt tay lên con gái ông đang hấp hối để nó được sống. Dọc đường có người đến báo cho ông hay rằng cô bé đã chết và khuyên ông đừng làm phiền Chúa nữa: “…Phiền Thầy làm gì nữa?”. Tức khắc Chúa Giêsu đã hỗ trợ đức tin của ông Giairô, duy trì mối liên hệ của ông với Ngài và đồng hành với ông, giúp ông vượt qua nỗi sợ hãi: “Đừng sợ chỉ cần tin mà thôi”. Cứ tiếp tục tin, dù sao cũng cứ tin! Khi đến nhà ông, Chúa Giêsu nắm tay cô bé đã chết và cho cô sống lại như Ngài đã làm sống lại đức tin đang tàn lụi của ông Giairô để giúp ông niềm tin vào quyền năng của Ngài, quyền năng làm cho kẻ chết sống lại.

Tin, tức là gặp gỡ.

Người phụ nữ bệnh hoạn và ông Giairô đã tin vì họ đã gặp Chúa Giêsu. Từ đó họ có những lý do riêng biệt để tin: Người phụ nữ tin vì bà được chữa lành, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để làm cho đức tin của bà biến chuyển: Ông Giairô tin, vì việc con gái ông được sống lại, nhưng nhất là vì cách mà Chúa Giêsu đã dùng để nâng đỡ niềm tin của ông và giúp ông thắng vượt nỗi sợ hãi.

Bài tường thuật của thánh Marcô hôm nay cũng có liên quan đến Kitô hữu chúng ta: Đức tin của chúng ta có được nuôi dưỡng bằng việc gặp gỡ Chúa Kitô Phục Sinh hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Đó là luật của Tin Mừng: Chúng ta tin tùy theo mức độ chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Ta hãy nghiêm túc tự đặt câu hỏi này: Tôi đã gặp Chúa Giêsu khi nào? Tin Mừng sẽ chúng ta trả lời. Mỗi lần chúng ta xem Chúa Giêsu như Đấng Cứu Độ chứ không phải như kẻ chữa lành hoặc giúp đỡ điều nọ điều kia, mỗi khi lâm cảnh đau buồn hoặc nguy nan, chúng ta vẫn tiếp tục tin, đó là những khi chúng ta gặp gỡ Ngài.

 

 

 

 

 

41. Lòng tin

 

Bài Tin Mừng tường thuật hai phép lạ Chúa Giêsu đã làm: phép lạ cho một phụ nữ được khỏi bệnh băng huyết, và phép lạ cho con gái ông trưởng hội đường Gia-ia được sống lại. Chúng ta thấy hai phép lạ như có một số điểm tương đồng: người phụ nữ mắc bệnh đã 12 năm, bằng với số tuổi của em bé kia, vì Tin Mừng cho biết khi em chết em được 12 tuổi. Cả hai phép lạ xảy ra đều do hành động thể lý là chạm tay vào tua áo Chúa và Chúa cầm tay em bé đã chết. Chúa Giêsu ban phép lạ này do lòng tin.

Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu nhận lời kêu xin của ông Gia-ia đi chữa bệnh cho con gái ông. Dân chúng đông đảo đi theo có vẻ háo hức và chen lấn, các môn đệ cùng đi bên Chúa. Gĩưa lúc ấy các môn đệ nhận ra một người đến quỳ trước Thầy mình, nhưng lúc ấy phép lạ đã xảy ra rồi, đó là một phụ nữ đầy lòng tin đã được Chúa cho khỏi bệnh. Thực vậy, giữa đám đông dân chúng dày đặc, phụ nữ này nhận ra một vị Thiên Chúa ẩn dật nhưng đầy quyền năng, bà không dám công khai trực tiếp xin Chúa trước mặt mọi người, có thể là vì xấu hổ hoặc ngại ngùng. Ngoài ra, bà cũng biết luật Lêvi cấm ngặt về loại bệnh này. Đối với người Do Thái, băng huyết là một bệnh được liệt vào số các chứng bệnh nan y và ô nhục, làm cho người bệnh ra dơ bẩn trước mặt Chúa và cộng đồng. Hơn nữa, chứng bệnh này còn làm cho người khác lây sự dơ bẩn của bệnh nhân, tức là họ đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến họ đều trở thành dơ bẩn và phải dâng lễ tẩy uế mới được sạch. Đó là điều hết sức rắc rối.

Nên bà không dám đến trước mặt Chúa xin Chúa chữa lành, nhưng bà có một lòng tin chắc chắn vào sức mạnh uy quyền toàn năng của Chúa. Bà tự nhủ: “Không cần phải ra mặt, chỉ cần đụng chạm vào tua áo khoác ngoài của Ngài thôi thì chắc chắn sẽ được khỏi”. Chúng ta thấy bà thật khiêm tốn. Vì thế, bất chấp tất cả luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định rút ơn Chúa, và kết quả bà được toại nguyện. Bà thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.

Phép lạ thứ hai Chúa Giêsu làm là nơi nhà ông trưởng hội đường Gia-ia. Ông có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu con ông. Lòng tin mạnh mẽ được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quỳ sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa Giavê trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên con ông. Ông tin chắc chắn chứ không hồ nghi: “Thưa Thầy, con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. Ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.

Đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài.

Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin mai như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa đang chờ đợi ở chúng ta cónhững tâm tình như thế.

Xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta.

 

 

 

 

 

42. Đức tin khai mở quyền năng Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

 

Sau phép lạ dẹp yên bão tố và phép lạ giải thoát người bị quỷ ám, hôm nay chúng ta được nghe trình thuật diễn tả hai phép lạ khác đan kết với nhau một cách chặt chẽ: phép lạ chữa người đàn bà loạn huyết và phép lạ phục sinh con gái ông Giaia. Qua các phép lạ này, ta thấy có một sự tăng trưởng dần dần trong niềm tin của các môn đệ vào quyền năng của Chúa Giêsu. Quyền năng trên các định luật thiên nhiên: làm cho sóng yên biển lặng. Quyền năng trên các thần ô uế: giải thoát người bị quỷ ám ở Ghêrasa. Quyền năng trên bệnh tật: chữa lành người đàn bà bị chứng xuất huyết. Và quyền năng trên sự chết: phục sinh con gái ông trưởng hội đường. Thế nhưng để quyền năng của Chúa Giêsu được biểu lộ, đòi hỏi con người phải có niềm tin. Nói cách khác, tin là điều kiện cần có để được Đức Giêsu thực hiện các phép lạ.

Chính nhờ đức tin mà người đàn bà loạn huyết được chữa lành. Chúa Giêsu đã xác nhận điều này: “Đức tin con đã cứu chữa con” (Mc 5,34). Đức tin đã khai mở quyền năng của Ngài, như thể Chúa Giêsu quy gán phép lạ cho khả năng của con người. Đức tin đã giúp bà tìm đúng địa chỉ để dứt điểm căn bệnh mà bà phải gồng mình chịu đựng trong suốt 12 năm trường. Trình thuật Marccô cho thấy người đàn bà bị loạn huyết đang đối diện với một căn bệnh được xem là nan y thời đó. Căn bệnh đang lấy dần đi sự sống nơi bà, vì máu là căn nguyên sự sống, trong khi bà đang bị băng huyết. Nhưng bà tin Chúa Giêsu có dư năng quyền để chữa bà lành bệnh. Bằng chứng là bà tự nhủ rằng chỉ cần một chút quyền năng phát ra nơi gấu áo của Chúa Giêsu thôi cũng bằng ngàn vạn thầy thuốc giỏi nhất trần gian. Quả đúng như thế. Bà vừa mới sờ vào gấu áo Chúa Giêsu, tức khắc căn bệnh đã “say goodbye” với bà. Kỳ diệu thay quyền năng của Thiên Chúa và cũng diệu kỳ thay đức tin của con người.

Cũng vậy, chính nhờ đức tin của ông trưởng hội đường mà con gái ông được cứu sống. Cứ xem diễn tiến của câu chuyện chúng ta sẽ thấy rõ sự kỳ diệu của đức tin.

Khi hay tin con gái cưng của ông đã chết và những người nhà của ông đã tuyệt vọng, ông vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Con gái của ông không còn là một bệnh nhân, mà đã trở thành một xác chết. Và điều ông nài xin Chúa Giêsu giờ đây đối với gia nhân của ông cũng không còn giá trị nữa, như lời họ khuyến cáo: Con gái ông đã là người thiên cổ rồi còn làm phiền Thầy chi nữa (x. Mc 5,35).

Sự kiện “người ta khóc than kêu la” là dấu chứng con gái ông đã chết. Thánh sử Matthêu còn thêm chi tiết là “đến nơi Chúa Giêsu thấy phường kèn và đám đông xôn xao” (Mt 9,23). Đang sống thì phường kèn không có lý do gì để có mặt ở đó. Điều này chứng tỏ con gái ông rõ ràng đã chết thật, và đức tin của ông lúc này đang bị thử thách nặng nề. Có thể nói được là thử thách đã lên tới đỉnh điểm. Tuy nhiên, khi được Chúa Giêsu khích lệ, ông đã một lòng tin tưởng và tín thác, mặc cho bầu khí kém lòng tin, do những người bà con lối xóm gây ra, đang bao trùm chung quanh. Kết quả là đức tin ấy đã được tưởng thưởng xứng đáng: người con gái yêu quý đã được tử thần trả lại cho ông. Nói cách khác, chính đức tin đã đem con gái ông trở về từ cõi chết. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng có lần nói: “Mọi sự đều có thể đối với người có lòng tin” (x. Mt 21,21-22).

Nói tóm lại, tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…

Qua phép lạ, Ngài kiện cường, thanh luyện niềm tin của những kẻ theo Ngài vốn còn nông cạn, thậm chí còn mang hơi hám ma thuật sơ đẳng, như đức tin của người đàn bà bị loạn huyết, hay còn đang bị chao đảo như đức tin của ông trưởng hội đường, trở thành một đức tin chân chính và sâu xa.

Niềm tin của tôi đang mang màu sắc nào? Tôi có để cho Chúa thanh luyện và “nâng cấp” để đức tin của tôi ngày càng trở nên tinh ròng và kiên vững hay không? Xin Chúa gia tăng lòng tin còn non yếu của chúng ta, hầu chúng ta có thể mở các kho tàng ân sủng trào tràn của Thiên Chúa. Amen.

 

 

 

 

 

43. Hãy chỗi dậy – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 

Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Thiên Chúa tạo dựng sự sống nơi thực vật, động vật, con người và thiên thần. Chúng ta thấy được sự sống gắn liền nơi các tao vật. Mọi tạo vật đều nhận hơi thở sự sống. Rút hơi thở, chúng sẽ tan biến. Ngay chương đầu của sách Khôn Ngoan, tác giả được linh lứng viết rằng: Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong (Kn 1,13). Sự sống ở mọi tạo vật sinh động sẽ tiêu vong, nhưng sự sống thật sẽ tồn tại muôn đời. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về sự sinh, lão, bệnh và tử. Con người sinh ra và từ từ đi về cõi chết. Đã là người, ai cũng bước qua lúc sinh lúc tử.

Từ muôn thế hệ, dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Sự sống mà Thiên Chúa trao ban cho tổ tông của loài người vẫn được tiếp tục phát triển và sinh xôi nẩy nở. Sự sống của từng cá nhân sẽ chấm dứt ở đời này, nhưng sự sống của con người sẽ tiếp tục. Với niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi. Người ta thường nói: Sinh ký tử qui, sống gởi thác về và từ trần hay qua đời. Qua đời này để vào đời khác. Chết không phải là chấm hết mà bước qua một cuộc sống mới.

Sự sống và sự chết là một mầu nhiệm. Chúng ta không hiểu được mầu nhiệm của sự sống, mà chỉ chiêm ngắm và sống mầu nhiệm này. Biên giới giữa sự sống và sự chết là một hơi thở. Có những người được sống cả trăm năm. Có những thân phận bé bỏng chỉ được nương nhờ sự sống nơi cung lòng mẹ ít ngày tháng. Cuộc đời dài vắn của mỗi sinh linh đều khác nhau. Chúng ta không thể so sánh hay phân bì. Mỗi một sự sống là một huyền nhiệm. Sự sống như nhau, nhưng sự sống đi vào cụ thể trong những định mệnh hoàn toàn khác nhau. Mỗi một cá nhân được trao ban một số mệnh cuộc đời. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được mở mắt chào đời và được hiện hữu trên thế gian. Chúng ta hãy trân quí từng giây phút trong cuộc đời. Cuộc đời dù ngắn hay dài đều có một sứ mệnh, một ý nghĩa và cùng đích. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn:Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người (Kn 2,23).

Chúa Giêsu là Ngôi Hai và là Con Thiên Chúa. Nhờ Chúa Ngôi Hai mà muôn vật được tạo thành.Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga 1,3-4). Thánh Gioan đã thâu tóm chân lý sáng tạo vũ trụ muôn loài qua một lời tròn đầy ý nghĩa: Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành. Ngôi Lời là trung gian của tất cả vạn vật hữu hình và vô hình. Ngài có quyền năng sáng tạo, biến đổi và tái tạo. Chúa Giêsu đã chứng minh quyền năng bằng các phép lạ và lời uy quyền. Biến đổi vật chất như nước thành rượu, bánh cá hóa nhiều, cho sóng gió im lặng, mẻ cá đầy, chữa các loại bệnh hoạn tật nguyền, cải đổi tâm hồn và quyền cho kẻ chết sống lại.

Suy về cuộc đời vô thường, là người ai trong chúng ta cũng có lúc khỏe mạnh và khi yếu đau, khi vui vẻ và lúc buồn sầu, khi hạnh phúc và lúc bất hạnh, khi may mắn và lúc hiểm họa. Sự sống sự chết cận kề. Ai cũng sợ đau yếu bệnh hoạn và chết chóc. Ông trưởng hội đường tên Giairô đến sụp lạy và van xin Chúa Giêsu: Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống. Trên đường về nhà ông, có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết. Bà cũng cực khổ tìm thầy chạy thuốc. Bà tự nhủ: Miễn sao tôi được chạm tới áo Người thì tôi được lành. Bà đã chạm và bà đã cảm nhận sự chữa lành trong thân thể bà.

Chúa Giêsu chính là nguồn sự sống và có quyền trên sự sống. Con người là loài thụ tạo, khi đã tắt hơi thở hoàn toàn thì thân xác đi vào cõi tiêu diệt. Không có một quyền lực hay loại thuốc nào có thể cứu gỡ. Đã ra đi là ra đi vĩnh viễn. Con người đành bó tay trước sự chết. Chúa Giêsu nhìn vào sự chết như một giấc ngủ. Thánh Marcô diễn tả về quyền năng của Chúa: Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! (Mc 5,39). Nhiều người cười nhạo Ngài vì họ đã biết em bé đã tắt thở và đã chết. Nhưng Chúa Giêsu cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! (Mc 5, 41).

Chỉ Đấng trao ban sự sống mới có quyền ban lại sự sống. Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho em gái sống lại trước mặt đám đông. Sự kiện cho kẻ đã chết được sống lại hoàn toàn mới lạ, vượt ra ngoài sự hiểu biết và suy nghĩ của con người. Đôi khi chúng ta nghe nói có những người đã chết nhưng được hồi sinh. Có những trường hợp con người đã chết lịm đi, hơi thở quá yếu và các cơ quan lưu chuyển trong cơ thể hầu như ngưng động. Tin rằng sự sống vẫn còn hiện diện trong thân xác và họ từ từ được hồi sinh. Khi chúng ta có cơ hội chứng kiến những người trong lúc lìa trần, họ cố gắng hít khí vào phổi, nhưng chỉ thở hắt ra đôi lần. Sự cách biệt giữa sự sống và sự chết chỉ là hơi thở. Khi con người trút hơi thở là vĩnh viễn ra đi.

Chúng ta bước vào đời với hình hài một trẻ thơ bé bỏng. Chúng ta được nuôi nấng dưỡng dục, được học hỏi trau dồi kiến thức, được học làm người và học làm con Chúa. Mỗi người lãnh nhận những khả năng và nguồn vốn khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta sinh lời không riêng cho chính mình mà chung cho đồng loại. Thánh Phaolô tông đồ trong thơ gởi tín hữu Corintô đã nhắc nhở rằng: Kẻ được nhiều thì cũng không dư, mà kẻ có ít, cũng không thiếu. Phaolô đã khích lệ tín hữu rằng anh chị em vượt trổi về mọi mặt về sự hiểu biết, lòng tin, sự nhiệt thành và lòng bác ái. Trồng người như trồng cây. Ai mà không mong cây trồng phát triển và sinh hoa trái. Con người có sứ mệnh cao qúi. Mỗi cuộc sống con người cũng phải sinh hoa kết trái cho đời. Người ta thường nói: Cọp chết để da, người chết để tiếng.

Chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay trắng nhưng không thể thiếu hành trang. Cuộc sống bên kia cần có nhiều phước báo và việc thiện như là hoa qủa cuộc đời. Phải tạo nhân tốt mới có qủa tốt. Có lòng bác ái vị tha, chúng ta mới có sự yêu thương ràng buộc. Sự sống rất quí giá và đáng sống. Mỗi giây phút sống trong cuộc đời đều là hồng ân. Chúng ta không có quyền tiêu diệt hay hủy hoại sự sống của người khác hay của chính mình. Ai cũng muốn sống hạnh phúc nhưng đôi khi chúng ta làm ngơ trước những hạnh phúc mà chúng ta đang thừa hưởng. Niềm vui và sự bình an nằm ngay trong cuộc sống hằng ngày. Hạnh phúc ví như một chiếc khăn tinh sạch, đôi khi có điểm vài vết nhơ sầu khổ. Vì quá chú trọng đến những chấm nhỏ buồn phiền của cuộc sống, để rồi có nhiều người bi quan cho rằng cuộc đời là bể khổ. Thực sự đời chỉ buồn khổ đối với những ai chấp ngã không dám buông bỏ.

Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với danh phận của con người. Chúa tác thành mọi sự cho có. Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và thông phần sự sống vĩnh cửu.

 

 

 

home Mục lục Lưu trữ