Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 61
Tổng truy cập: 1444550
THỰC HIỆN SỨ MẠNG
Thực hiện sứ mạng
Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Matthêu cho chúng ta thấy rằng trước khi về trời, trước khi với Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu qui tụ các môn đệ tại Galilê, và tại đây, Chúa Giêsu trao cho các ông một sứ mạng, đó là, làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là, làm cho muôn dân nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu.
Là một người Kitô hữu. Chúng ta cũng là môn đệ của Chúa Giêsu từ khi lãnh bí tích rửa tội. Trong các cộâng đoàn đức tin, trong họ đạo, trong Giáo hội và nhất là giờ đây, trong ngôi thánh đường này cũng là một Galilê khác mà Chúa Giêsu qui tụ chúng ta và trao cho chúng ta sứ mạng mà Chúa đã trao cho các môn đệ ngày xưa. Vậy tôi và ông bà anh chị em thực sứ mạng này như thế nào?
Dựa vào Lời Chúa truyền dạy và dựa vào những gì các môn đệ của Chúa Giêsu thực hiện qua mọi thời đại thì chúng ta có thể tóm gọn việc thực hiện sứ mạng trong 3 chữ đó là: chữ đi, chữ làm và chữ dạy. Chúng ta có thể áp dụng một cách cụ thể và hữu hiệu 3 chữ này trong cuộc sống của chúng ta như sau:
1. Thứ nhất là chữ "đi": đối với chúng ta ngày nay, thực hiện chữ đi này không chỉ theo phương diện thể lý hay địa lý như đi nơi này nơi khác, nước này nước khác. Nhưng trước hết là đi ra khỏi con người của mình, đi ra khỏi cái tôi của mình để mở rộng tâm hồn đón nhận người khác. Đức Hồng Y Px. Nguyễn Văn Thuận kể về một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Ấn độ tên là Gandi như sau: Một hôm ông Gandi đến nhà thờ, nhưng những người Kitô hữu ở đó đã không cho ông vào nhà thờ bởi vì ông là người da đen, còn nhà thờ này chỉ dành riêng cho người da trắng. Ông Gandi đã bỏ về và từ đó về sau ông không đến nhà thờ nữa. Câu chuyện cho thấy rằng đến với người khác, đón nhận người khác là vượt qua những rào cản, những khác biệt về giàu nghèo, địa vị, trình độ tri thức, văn hoá, màu da sắc tộc... Đón nhận người khác là chấp nhận người khác làm phiền mình về thời giờ, sức khoẻ. Vậy để áp dụng chữ đi này trong cuộc sống, mỗi khi gặp gỡ những người chung quanh, chúng ta đến với họ bằng cái bắt tay, bằng một nụ cười, một ánh mắt thân thiện, bằng lời hỏi thăm hay sự quan tâm. Đó là chúng ta đi đến với họ.
2. Chữ thứ hai là chữ "làm": Lời Chúa nói hãy làm phép rửa cho họ, nghĩa là, làm cho họ gia nhập đạo qua Bí tích Rửa tội. Vậy trước khi làm cho họ gia nhập đạo thì chúng ta làm cho họ có một cái nhìn thiện cảm về những người theo đạo, làm cho họ có một cái nhìn tốt đẹp đối với đạo và làm cho họ có một cái nhìn yêu mến đối với Chúa Giêsu bằng chính đời sống của chúng ta. Có 2 người bạn đồng nghiệp của nhau, một hôm cả hai nghe nói về đạo Chúa Giêsu, nhưng một người thì đã theo đạo liền, còn bạn của anh ta thì 1 năm sau mới theo đạo. Thấy vậy, anh ta mới hỏi bạn của mình tại sao như vậy. Bạn của anh ta trả lời rằng, ban đầu tôi không tin Chúa Giêsu, nhưng sau một năm tôi thấy từ khi anh theo đạo, anh đã thay đổi cuộc sống, anh đã ứng xử tốt hơn đối với người khác, cuộc sống của anh lúc nào cũng an vui. Vì thế tôi tin rằng chân lý có trong Kitô giáo nên tôi quyết định theo đạo. Rõ ràng, cuộc sống của chúng ta chính là lời giới thiệu cho người chung quanh chúng ta nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta áp dụng chữ làm này như sau: trong gia đình, chúng ta sống hoà thuận yêu thương nhau, cha mẹ sống đúng bổn phận của cha mẹ như lo cho gia đình và giáo dục con cái, con cái thì sống đúng bổn phận của mình như hiếu thảo, giúp đỡ cha mẹ. Ngoài xã hội, thì chúng ta là một người công dân tốt. Sống như thế là chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.
3. Chữ thứ ba là chữ "dạy": Chúa Giêsu nói với các môn đệ dạy cho họ những điều thầy truyền dạy cho anh em. Điều Chúa Giêsu truyền dạy cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: "Anh em hãy yêu thương nhau như thầy yêu thương anh em". Trong xã hội hôm nay người ta thích nhìn thấy những gì chúng ta làm hơn là nghe những gì chúng ta nói. Vậy, để nói cho người khác về yêu thương thì không cách nào tốt cho bằng chúng ta thực hiện yêu thương đối với họ. Chúng ta đã nghe nói về mẹ Têrêsa Caculta. Mẹ Têrêsa Calculta và những người trong tu hội thực hiện yêu thương đối với người khác bằng việc đem những người bị bỏ rơi ngoài đường về tu hội chăm sóc nuôi dưỡng họ, cho họ cảm thấy họ được đối xử và được sống xứng đáng với phẩm giá của một con người. Mẹ Têrêsa Calculta đã trình bày một cách sống động về giới luật yêu thương cho mọi người trong thời đại chúng ta. Thật vậy, đời sống yêu thương của chúng ta chính là lời nói hữu hiệu về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta. Để thực hiện đời sống yêu thương, trong mùa phục sinh này, chúng ta hạn chế chi xài để quyên góp làm quỹ bác ái giúp cho những người đang thiếu thốn, đang gặp khó khăn chung quanh chúng ta. Sống như vậy là chúng ta nói cho người khác một cách cụ thể về giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã dạy.
Mong rằng chúng ta nhớ lời Chúa truyền dạy hôm nay, nhớ sứ mạng chúa trao cho chúng ta trong thánh lễ này, để mỗi ngày sự ra đi của chúng ta, việc làm của chúng ta, đời sống yêu thương của chúng ta là một nhịp cầu đưa những người chung quanh chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Chúa Giêsu. Đó cũng là chúng ta thực hiện lời mời gọi của Đức Thánh Cha trong sứ điệp ngày ngày truyền giáo 2010, Đức Thánh Cha mong đợi các tín hữu "cho thấy Đức Giêsu và làm sáng lên khuôn mặt của Đấng Cứu Chuộc nơi mọi hang cùng ngõ hẻm của trái đất này". Amen.
59. Thiên đàng
Hôm nay chúng ta hân hoan long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Nhưng Chúa Giêsu lên trời có ý nghĩa gì? Trước hết, chúng ta cần xác tín kiểu nói “lên trời, xuống thế” là thế nào. Nếu hiểu “trời” là nơi Chúa ngự, còn “thế” là cõi trần của chúng ta. Và “lên, xuống” theo nghĩa kính Chúa thì đặt Chúa ở trên, còn loài người chúng ta tầm thường thì đặt ở dưới. Hiểu như vậy, thì kiểu nói”lên trời, xuống thế” chả còn đặt thành vấn đề nữa.
Nhưng điều làm cho một số người ngày nay thắc mắc là cách hiểu theo nghĩa đen:”Trời” là trời xanh, là không trung, có tinh tú, có mặt trời, mặt trăng… và đem quan niệm tiến bộ về thiên văn của thế kỷ XX, bây giờ là thế kỷ XXI, áp dụng vào những kiểu nói thời xưa, thì không đúng. Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen và đem áp dụng như thế được. Sự kiện Chúa Giêsu “bay lên khỏi đất” hoặc “bay lên trời” là để nói rằng: Chúa về nơi Ngài ở trước. Ngài không còn ở dưới trần thế như từ ngày giáng sinh đến hôm đó nữa. Ngài lên trời, đó là một cuộc tôn vinh sau khi đã hoàn tất chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Như vậy, việc Chúa Giêsu lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài. Như chương trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Cũng vậy, Chúa Giêsu sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương và công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm. Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian này, để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, đặt bên hữu Thiên Chúa, và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành đi theo Chúa, sống theo lời Ngài, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Vì vậy, mầu nhiệm lên trời dạy cho chúng ta biết: Nước trời, tức là thiên đàng, có thực sự, là nơi Thiên Chúa ngự, là nơi tập họp những người con thảo của Thiên Chúa. Nhưng thiên đàng ở đâu? Ở trên không trung, trên trời, bên trên những đám mây ư? Chỉ những ai ngây thơ mới nghĩ như thế. Thiên đàng mà Chúa Giêsu đã hứa, Nước trời như Chúa đã nói, chẳng dính dáng gì tới bầu trời của những nhà du hành vũ trụ.
Trước đây, người ta kể rằng: Sau những lần đáp tên lửa vòng quanh trái đất, có những nhà du hành để thám hiểm vũ trụ, đã tuyên bố rằng: Họ chẳng thấy gì bên trên những đám mây, chẳng thấy Thiên Chúa, thiên đàng, các thánh, chẳng thấy gì hết. Thế là nhiều người ngây thơ, nông cạn tin rằng: Từ nay trở đi, niềm tin có thiên đàng sẽ hoàn toàn sụp đổ. Những điều đó có đúng không? Thưa không, con người đã lên cung trăng, sẽ đáp xuống sao hỏa, sao kim, rồi tuần tự sẽ thám hiểm thế giới các vì sao. Nhưng con người không thể và không bao giờ đến gần được thiên đàng, dù chỉ cách vài cây số thôi. Thiên đàng của Thiên Chúa ở trong chiều kích khác với thời gian và không gian của chúng ta. Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Ngài hiện diện khắp vũ trụ. Suy đoán thiên đàng ở đâu đó, trên các hành tinh hoặc trên các thiên hà xa lắc, là làm một công việc vô ích. Thiên Chúa ở đâu, thiên đàng ở đó.
Câu chuyện sau đây minh họa cho chúng ta: Có một tu sĩ kia, sau khi đã dày công tu luyện và suy nghĩ về niềm hạnh phúc của một thiên đàng hạ giới, đã lên đường đi tìm. Ngày tháng trôi qua, vị tu sĩ đã lên đường năm mươi năm, nhưng vẫn chưa tìm ra được một nơi nào để có thể hưởng trọn hạnh phúc xứng đáng được gọi là thiên đàng. Khi đã mệt mỏi mà chưa đạt đích, vị tu sĩ này đã đi lại con đường cũ dẫn tới tu viện nơi ông đã bỏ đó để đi tìm thiên đàng hạ giới. Khi ông vào tu viện gõ cửa để xin tá túc, thì không ai trong tu viện nhận ra ông nữa. Vị tu viện trưởng bằng lòng cho ông tá túc. Ông được dẫn đến căn phòng, đó chính là căn phòng ông đã ở trước kia. Một tư tưởng bỗng lóe lên trong tâm trí của người tu sĩ già này đã trả lời cho câu hỏi mà ông đã tìm câu giải đáp mấy chục năm qua, là thiên đàng ở đâu? Thiên đàng chính là nơi bạn đang sống. Thiên đàng không tùy thuộc nơi chốn nhưng tùy thuộc ở lòng người.
Đây chính là điều Chúa Giêsu đã quả quyết: “Thiên đàng ở giữa các ngươi”. Thiên đàng hiện ra trong từng giây phút chúng ta đang sống, thiên đàng là xã hội chúng ta đang sống, nếu xã hội là nơi mà quan niệm về hạnh phúc được thực hiện và thỏa mãn. Nếu xã hội là nơi mà sự hòa bình, sự bình an, sự hiệp nhất, tình liên đới, nghĩa huynh đệ được thực hiện thật sự và đích thực.
Hoặc chúng ta có thể nói rằng: ở đâu có bác ái, yêu thương, thì thiên đàng ở đó, câu chuyện sau đây cho chúng ta hiểu rõ điều đó: Có một chàng hiệp sĩ kia. Là hiệp sĩ nhưng rất sống thô lỗ, hung bạo. Một hôm, anh đến gặp một vị thiền sư và hỏi:”Xin ngài chỉ dạy cho tôi biết thiên đàng và hỏa ngục là gì? Vị thiền sư nhìn anh ta một hồi rồi nói:”Tôi không thể dạy cho anh bất cứ điều gì. Anh là nỗi tủi nhục cho hàng ngũ hiệp sĩ. Anh hãy đi đi”. Tức giận, chàng hiệp sĩ rút gươm sát hại vị thiền sư. Nhưng vị thiền sư giơ tay cản lại và nói: “Hỏa ngục là thế đó”. Chàng hiệp sĩ dừng tay lại, anh hối hận và nhận ra bài học thực tiễn. Anh xỏ gươm vào bao và quì xuống trước mặt vị thiền sư. Anh không nói gì, chỉ cúi đầu tỏ vẻ thành tâm sám hối. Vị thiền sư đỡ anh dậy, nhìn vào đôi mắt anh và nói: “Thiên đàng là thế đó”. Quả thực, nơi nào có hận thù, chém giết, thì nơi đó là hỏa ngục. Hỏa ngục không hẳn là một nơi chốn như chúng ta thường tưởng tượng mà là một tình trạng vắng bóng yêu thương, nơi nào ích kỷ, và hận thù ngự trị, thì nơi đó là hỏa ngục; hỏa ngục không chờ đợi ở đời sau mà xuất hiện ngay trong tâm hồn mỗi người chúng ta khi nào chúng ta để cho hận thù ngự trị và điều khiển mọi suy tư và hành động của chúng ta. Nếu hận thù là hỏa ngục, thì thiên đàng chính là tình yêu. Thánh Phaolô đã nói: “Ở đâu có bác ái yêu thương thì ở đấy có Thiên Chúa”. Mà Thiên Chúa là thiên đàng. Như vậy, thiên đàng là điều con người có thể xây dựng và thụ hưởng ngay ở trần gian này. Và không có thiên đàng trần gian thì cũng không có thiên đàng đời sau, vì Thiên Chúa căn cứ vào đời sống hôm nay để thưởng phạt chúng ta.
60. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Phải chăng công việc cứu thế của Đức Giêsu đã chấm dứt kể từ khi Ngài từ giã các tông đồ để về trời? Nếu việc ấy còn tiếp tục thì tiếp tục thế nào, và do ai thực hiện? Người ấy có phải là bạn, là tôi không?
2. Đức Giêsu có cần ta và có mời gọi ta cộng tác với Ngài trong việc cứu thế của Ngài không? Ngài muốn ta làm gì để cộng tác với Ngài?
3. Nếu Đức Giêsu muốn yêu anh chị em ta bằng trái tim của ta, muốn phục vụ họ bằng đôi tay của ta, muốn rao truyền Tin Mừng cho họ bằng miệng lưỡi của ta, bạn có sẵn sàng cho phép Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giêsu giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian - vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực - để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.
Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người (lúc ấy con người chưa có), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ. Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giêsu. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.
Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc? Đức Giêsu có làm được điều ấy không? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác?
2. Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giêsu mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài
Đức Giêsu đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Kitô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.
Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã trăn trối cho các ông di chúc này: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giêsu, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Kitô hữu.
3. Đức Giêsu mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta
Sứ mạng của Đức Giêsu thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi. Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài. Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây hơn 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giêsu, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.
4. Hãy trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta
Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26.27; 9,6; Ep 4,24), là con cái Thiên Chúa (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4). Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.
Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.
Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em". Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau. Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giêsu ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giêsu trở thành hiện thực và cụ thể: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Chúng ta hãy trở nên Giêsu hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình!
Cầu Nguyện
Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:
"Cách đây hơn 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giêsu, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giêsu nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không?"
61. Suy niệm của Huy Châu
THẦY Ở CÙNG CÁC CON MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ
Trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng, ĐTC Gioan Phaolô II đã viết như sau, khi trả lời về vấn đề Hồi giáo: "Tuy Thiên Chúa trong kinh thánh Koran được gọi bằng những danh xưng tuyệt đẹp, nhưng cuối cùng Ngài cũng chỉ là một Thiên Chúa ở bên ngoài thế giới này. Ngài là một Thiên Chúq uy phong, nhưng không bao giờ là một Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta."
Ngay chương đầu Phúc âm Matthêu, chúng ta thấy thiên thần đã loan báo cho thánh Giuse là trẻ Giêsu, khi sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (x.Mt 1,23). và trong đoạn cuối của Phúc âm Matthêu chúng ta nghe hôm nay, lời sau cùng Chúa nói trước khi về trời: "Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Cùng với lời hứa này, Chúa truyền cho các tông đồ cũng như chúng ta ngày nay một sứ mạng: "Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, làm phép Rửa cho họ..." (Mt 28,19). Như vậy xem ra việc Chúa ở với chúng ta có liên quan đến nhiệm vụ rao giảng hay truyền giáo của chúng ta.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy có rất nhiều vĩ nhân như Pla-tông, A-rít-tô, Khổng Tử, hay Mẹ Têrêsa v.v., sau khi chết đi, đã để lại cho thế hệ sau những gia sản tinh thần vĩ đại khiến tên tuổi của họ còn lưu lại đến thiên thu; dầu thế các ngài đều không còn ở trên trần gian này nữa.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác: sau 33 năm sống kiếp con người với nhân loại, Chúa Giêsu không còn hiện diện với chúng ta với thân xác như một người nữa, nhưng với lời hứa: "Thầy luôn ở cùng các con mọi ngày", Chúa bảo đảm một thực tại là Ngài đang sống động giữa và trong chúng ta.
Do đó sự kiện Chúa lên trời không phải là việc kết thúc sự hiện diện của Ngài giữa nhân loại, nhưng nói lên một sự hiện diện của Ngài một cách phổ quát và sâu thẳm hơn trong nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội mà mỗi chúng ta là thành phần, như lời thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: "Thiên Chúa khiến mọi sự qui phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội thánh là thân thể Ngài, và là Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người" (Eph 1,22-23). Hợp với Chúa Giêsu là Đầu, Giáo Hội đang cùng với Ngài tiếp tục sứ mạng cứu độ. Là thành phần của thân thể Chúa Kitô, chúng ta cũng có nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ với Giáo Hội tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Một trong những cách truyền giáo hiệu nghiệm là làm chứng sự "HIỆN DIỆN" của Thiên Chúa nơi trần gian này qua đời sống Đức Tin của chúng ta, vì người Kitô Hữu có nghĩa là người có Chúa Kitô. Trong Thông Điệp Evangeli Nuntiandi (về truyền giáo) Đức Thánh Cha Phaolô VI nói: "Qua đời sống chứng nhân thầm lặng, người Kitô hữu sẽ khơi lên trong tâm trí những người chứng kiến đời sống của họ những câu hỏi đầy hấp lực: tại sao người Kitô hữu sống như thế? Điều gì hay ai đã thúc đẩy được họ sống như thế... Đời sống chứng nhân như thế quả là sự rao giảng Tin Mừng mạnh mẽ và hiệu nghiệm."
Là một giáo dân trong cộng đoàn hay giáo xứ, chúng ta có rất nhiều cơ hội làm nhân chứng truyền giáo. Thí dụ, người ta thấy bà Tư luôn tránh nói hành nói xấu người khác; hay thấy ông Ba không nhậu nhẹt cờ bạc, mà còn dành thời giờ đi thăm bà con đau yếu trong cộng đoàn, giáo xứ; hay thấy cậu Hai luôn chăm chỉ học hành, không bè đảng du đãng v.v. và người ta biết bà Tư, ông Ba, cậu Hai có những đức tính tốt như vậy vì họ là người có đạo, là Kitô Hữu, thì quả thật họ là những người truyền giáo hiệu nghiệm.
Ngày nay Chúa Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài đang ở giữa nhân loại, tuy phần nhiều chưa nhận ra Ngài. Mỗi nguời Kitô Hữu chúng ta tự hỏi: Chúa đang ở với tôi và trong tôi, tôi phải làm gì hay sống như thế nào để những người chưa tin Chúa nhận ra và tin theo Ngài.
"Các con hãy đi giảng dậy muôn dân. Ban phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khuyến dậy họ tuân giữ những điều Thầy đã dậy các con. Và Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28:18-20) là lời cuối cùng tại thế của Chúa Kitô. Chúa trao trọng trách và buộc các tông đồ và các tín hữu phải thi hành. Chúa về trời, nhưng sứ mệnh giảng dậy vẫn liên tục và bổn phận truyền giáo không bao giờ được ngừng.
Thân xác Chúa nhẹ bay lên cao. Tay Ngài ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Ngài nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận. Một lớp mây vô tình đóng cửa trời và vĩnh viễn phân cách Chúa với nhân gian. Các tông đồ ngây ngất nhìn trời và tâm trí các ngài như mất hút vào không gian vô định. Các ông chỉ ra khỏi cơn ngất trí khi hai thiên sứ đến thức tỉnh và đưa các ông trở về với một thực tại không mấy sáng sủa. Cô đơn, lo sợ, và hoang mang đã gom các tông đồ vào phòng kín. Cầu nguyện và chờ đợi Chúa Thánh Linh là việc làm duy nhất lúc này của các ông.
Chúa đi thật rồi! Còn đâu những giây phút thân ái! những tháng ngày dong duổi truyền giáo đó đây! những hãnh diện khi Biệt Phái im miệng! Những hân hoan trước các phép lạ! và những ngỡ ngàng trước các lời thánh! Tất cả đã thành dĩ vãng của một ngày xưa tuyệt vời ấy và kết nên một nuối tiếc khôn nguôi! Lời Ngài không được ghi chép đã là một mất mát vô vàn nghiêm trọng. Nhưng đây là ý định của Chúa Kitô, vì Lời Ngài không thể vô hồn, cô đọng và cứng ngắc trên giấy trắng mực đen. Trái lại Lời Ngài phải đi vào tâm hồn, thấm nhuyễn lòng người và trở nên linh động, trong sáng, uyển chuyển và là nguồn sống của mỗi tín hữu.
Lời Ngài phải phong phú phát triển theo trình độ hiểu biết, mức độ chiêm niệm, phản tỉnh và đức tin của mỗi người. Chúa Kitô vì thế đã dùng một hình thức khác biệt và lạ đời là Thánh Linh để Lời Ngài được ghi tâm khắc cốt và luôn là chân lý, là đường, là ánh sáng, là muối ướp của tín hữu. "Ta đã dậy các con tất cả. Nhưng Đấng Phù Trợ, Thần Khí từ Chúa Cha sai đến, sẽ dậy các con mọi điều, và sẽ gợi nhớ những gì Ta đã chỉ dậy các con. Ta ban bình an cho các con... Chớ để tâm hồn xao xuyến và đừng sợ hãi" (Jn 14,25-27).
Biến cố Chúa Lên Trời vì thế đã thành niềm vui và hy vọng cho tông đồ đoàn và các tín hữu tiên khởi. Họ vui vì từng chi tiết Chúa tiên báo đã thực hiện đầy đủ. Họ hy vọng vì tuy Chúa không còn hữu hình ở thế gian nhưng Lời Ngài cam kết "Ta ở với các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20) đang thực hiện. Tin vào Lời Chúa, các Tông đồ trở nên mạnh mẽ và kiên nhẫn chờ đợi một phép lạ mới: Chúa Thánh Linh.
Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ trở thành một Phúc Âm sống động, tinh tuyền và trong sáng. Với Chúa Thánh Linh, mỗi tín hữu sẽ mạnh dạn sống điều họ tin và loan truyền tin mừng họ sống. Với Chúa Thánh Linh, Giáo Hội và thế giới sẽ song hành bước vào một trật tự mới. Trời tái mở trên không trung trong một giải xanh vô tận. Chúa Kitô hiển trị nơi mỗi tâm hồn, trong các gia đình và trên toàn thế giới. "Chúa về trời, chúng ta vào đời" làm chứng nhân của tin mừng cứu độ và loan báo ngày mai chúng ta cũng sẽ về trời.
62. Lên trời: ước mơ cao đẹp – Lm. Bùi Quang Tuấn
Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.
Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.
Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5"5 và nặng 140 cân Anh (pounds).
Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: "Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình."
"Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống", và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?
Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.
Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.
Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói "Chúa Giêsu lên trời" người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: "Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói "Lạy Cha chúng con ở trên trời"".
Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.
Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.
Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. "Lên thiên đàng" không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.
Thế nên khi nói "Chúa Giêu lên trời" có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.
Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn... Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.
Thế nhưng qua việc "lên trời", Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.
Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.
Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân", "các con là chứng nhân của Thầy". Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau."
Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.
63. Sứ mạng truyền giáo
Ngày 15/11/1998, linh mục Luchiano Benedicti thuộc hội Giáo Hoàng truyền giáo đã được các phiến quân Hồi giáo ở mạn nam Phi Luật Tân trả tự do sau đúng sáu mươi tám ngày bị bắt làm con tin. Trong một cuộc phỏng vấn liền sau đó, linh mục này cho báo chí biết ngài sẽ trở lại chính nơi mình đã bị bắt cóc. Ngài khẳng định rằng: “Sứ mệnh của tôi chưa hoàn tất” (Chu Văn, Truyện Tử Tế, tập 3, Làm chứng cho tình yêu, trang 15).
Khi nói đến “Sứ mạng của tôi chưa hoàn tất”, Cha Lucchiano muốn nói đến sứ mạng làm chứng cho mọi người về tình yêu của Đức Giêsu, một tình yêu dám “chết vì người mình yêu”. Sứ mạng này không phải do tự ý Cha Luchiano muốn làm hay thích làm, nhưng là do chính Đức Giêsu trước khi về trời đã trao cho cha Luchiano, và không chỉ cho cha Luchiano mà còn cho từng người chúng ta, cho tôi và quý ông bà anh chị em khi Ngài phán “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.
1. Truyền giáo, bản chất của người Kitô hữu:
Sứ mệnh này đã được trao cho từng người chúng ta vào ngày chúng ta lãnh nhận phép Rửa. Nhờ phép rửa, mỗi người chúng ta trở thành một chi thể trong Nhiệm Thể có Chúa Kitô là Đầu như lời thánh Phaolô trong bài đọc hai “Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm Đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài”. Vì là chi thể, mỗi người chúng ta có nhiệm vụ đóng góp phần của mình để làm cho cả thân thể ngày càng lớn lên và được sung mãn, nghĩa là làm cho Nước Chúa ngày càng được mở rộng, hay nói một cách khác, mỗi người chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Truyền giáo là một bổn phận đòi buộc của mọi tín hữu, của những người tin vào Đức Kitô, Đấng đã chết và phục sinh để cứu độ chúng ta. Vì thế, Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh về truyền giáo số 2 viết: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo”. Khi nói tự bản tính, Công đồng muốn nhấn mạnh với từng người chúng ta rằng, nếu không truyền giáo, thì không còn là Giáo Hội, mà Giáo Hội là do từng người chúng ta, do quý ông bà anh chị em và tôi làm nên. Do đó, nếu chúng ta không truyền giáo, thì chúng ta không còn lý do tồn tại, không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa nữa.
Chính vì muốn nhấn mạnh đến sứ mạng truyền giáo này của Giáo Hội, mà sau khi Phục Sinh, Đức Giêsu đã hẹn gặp các Tông đồ, không phải tại Giêrusalem, thủ đô và là thành thánh của người Do Thái, nhưng trên một ngọn núi tại xứ Galilê, một miền đất vẫn được coi là biểu trưng của dân ngoại (x. Mt 4, 12-23). Nếu như trước đây, Ngài đã sai các môn đệ chỉ đi rao giảng cho những chiên lạc nhà Israel (x. Mt 10, 5-6), thì giờ đây, sau khi Phục Sinh, cũng từ nơi miền đất Galilê ấy, và cũng từ chính Đức Giêsu, và cũng một lệnh lên đường ấy, nhưng được mở rộng hơn, không còn giới hạn: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”.
Lệnh truyền giáo được mở rộng vì giờ đây Đức Giêsu ấy sau khi từ cõi chết sống lại, đã được Thiên Chúa “đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa đã khiến mọi sự quy phục Người”. Vâng, chính với quyền năng ấy mà Ngài sai các môn đệ và từng người chúng ta lên đường đến với muôn dân.
Như thế, đoạn Tin mừng theo thánh Matthêu mà chúng ta vừa nghe, nhìn bên ngoài là một đoạn kết thúc, nhưng thực ra, nó chưa kết thúc, nhưng là một đoạn khởi đầu. Khởi đầu một giai đoạn mới trong đời sống Giáo Hội, giai đoạn sống và loan truyền niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Và cũng trong tinh thần đó, Giáo Hội đã chọn ngày lễ Thăng Thiên hôm nay làm ngày “Truyền Thông Thế Giới”. Chúng ta cần thông truyền cho cả thế giới và từng người trong thế giới hôm nay biết về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại và tất cả những ai tin nơi Ngài sẽ nhận được sự sống đời đời.
2. Việc truyền giáo trong thế giới hôm nay:
Khi nói đến truyền giáo, chúng ta thường nghĩ đến công việc của các nhà Thừa Sai, của các linh mục, tu sĩ, của những người ra đi đến những miền đất xa xôi nào đó, để rao giảng Tin mừng. Và như thế, vô tình, chúng ta đã tách bổn phận truyền giáo ra khỏi đời sống hàng ngày của chúng ta.
Suy nghĩ như thế là chưa đủ. Truyền giáo, trước hết, là bổn phận của từng người chúng ta và đối tượng của việc truyền giáo vừa là những người chưa tin, nhưng cũng lại là chính chúng ta.
Truyền giáo là làm cho mọi người trở thành môn đệ của Đức Kitô, làm cho Tin mừng của Đức Kitô thấm nhập vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Như thế, việc truyền giáo không chỉ là nói về Thiên Chúa, về Đức Kitô, nhưng quan trọng hơn, đó là dẫn đưa mọi người về với Đức Kitô bằng chính đời sống chứng tá của từng người chúng ta. Đó là điều mà chính Đấng Phục Sinh trước khi về Trời đã căn dặn các tông đồ và cũng là với tôi và quý ông bà anh chị em: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy”.
Tuy nhiên, để có thể làm chứng cho Đức Kitô, và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài, tôi thiết nghĩ, từng người chúng ta, tôi và quý ông bà anh chị em cần có những cảm nghiệm riêng tư của mình về Đức Kitô, cần nhận ra được tình yêu của Đức Kitô đang bao phủ cuộc đời mình, cần có một xác tín về sự quan phòng của Ngài trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta cần có một cảm nghiệm về sự bình an và niềm vui của một người đang có Chúa ở cùng. Có được như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ kinh nghiệm này với các người khác, và dạy họ tuân giữ các giới luật của Đức Giêsu, mà thực ra chỉ tóm gọn lại trong một giới luật là tình yêu. Khi nói về việc rao giảng Tin mừng trong thế giới hôm nay, thì chúng ta không thể không nhắc đến Đức Cố Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II. Với một đức tin chân thật và một cuộc sống luôn gắn bó với Chúa trong lời cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã không ngần ngại khi phải lên tiếng xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ, nhưng cũng thật kiên quyết khi phải lên tiếng để bảo vệ các chân lý của Thiên Chúa. Ngay khi nghe tin Đức Thánh Cha vừa qua đời, Thủ Tướng nước Anh, Tony Blair đã phát biểu: “Ngay cả nếu bạn không phải Công Giáo, hay không phải là Kitô hữu, thậm chí không có chút niềm tin nào, điều mà người ta có thể thấy nơi Đức Giáo Hoàng Gioan - Phaolô II là một đức tin chân thật và sâu sắc về tinh thần, một tấm gương sáng chói cho thấy đức tin là gì”.
Như thế, để việc truyền giáo trong thế giới hôm nay thực sự trở nên sống động và hiệu quả, thì lời rao giảng của chuùng ta cần phải đi đôi với chính đời sống chứng nhân của chúng ta. Thí dụ, cùng sống trong cùng một khu xóm, nhưng nếu mọi người thấy quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến thăm nom, an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; hay thấy quý bà không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; hay thấy các bạn trẻ trong giáo xứ sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ học hành, sẵn sàng giúp đỡ cha mẹ, nhiệt thành với công việc chung … thì hẳn những người xung quanh phải đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta sống được như vậy ở giữa đời? Và khi đi tìm câu trả lời, họ sẽ tìm đến được với Đức Kitô, Đấng đã dạy chúng ta sống như vậy, thì đó quả là một lời rao giảng hiệu nghiệm nhất, và từng người chúng ta sẽ là những nhà truyền giáo đúng nghĩa nhất.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn là Đấng Emmanuel, Ngài vẫn đang hiện diện và ở giữa nhân loại, nhất là trong bí tích Thánh Thể. Chớ gì nhờ việc hiệp lễ, mỗi người chúng ta thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta, để đến lượt chúng ta sống và làm cho những người chưa tin Chúa, nhận ra và tin theo Ngài. Amen.
64. Chứng nhân
Báo “Le Figaro” đã đăng tải cuộc phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
- Có lần ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Ông trả lời:
- Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho anh em”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh người đến tận thế.
Tổng thông Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống theo đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các Ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
65. Đời thường
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu về trời, tức là mừng biến cố Chúa ngự về thiên đàng cùng với Thiên Chúa Cha, sau thời gian Ngài sinh sống với chúng ta ở trần gian này trong bản tính nhân loại của Ngài. Đối với những người chỉ có óc phê bình thực nghiệm thì đây là một biến cố hoang đường, một câu chuyện giả tưởng, một hình ảnh ngây ngô của một thời đại mà trái đất được coi là một mặt phẳng rộng lớn, giới hạn ở bốn chung quanh mà Thiên Chúa đã đặt trên nền tảng vững chắc giữa đại dương bao la, còn bầu trời là một vòm cao ngất, bên trên được cấu tạo bằng vật chất cứng như xi măng cốt sắt. Mặt trời, mặt trăng là những vật thể sáng di chuyển dưới vòm trời như đen soi sáng mặt đất, còn các vì sao chỉ là những cửa sổ của bầu trời sáng láng bên trên, qua các cửa sổ đó, các thiên thần có thể trông xem nhìn ngắm trần gian.
Vì óc phê bình thực nghiệm, một phi hành gia vô thần trong những năm đầu tiên con người thử nghiệm bay vào vũ trụ, sau khi bay quanh quỹ đạo của trái đất và trở về an toàn, anh ta đã tuyên bố như sau: “Tôi đã bay lên trời, nhưng tôi đã không gặp Chúa cũng không thấy thiên đàng đâu cả”.
Tạ ơn Chúa, Nước Trời không thuộc về vũ trụ vật chất này, chứ nếu Nước Trời chiếm một chỗ nào đó trong không gian này, có lẽ Thiên Chúa và các triều thần thánh của Người phải nghĩ đến chuyện di cư tị nạn, bởi vì con người với chương trình chiến tranh hành tinh chắc chắn sẽ đem đạn súng đến dày xéo quê hương của Đấng Tối cao.
Để diễn tả biến cố Chúa Giêsu về trời, các Phúc âm ghi lại rất đơn sơ. Như thế có nghĩa là một sự nâng cao lên cùng Thiên Chúa trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu để con người thấy rằng đó là mẫu mực để ngày kia sẽ về cùng Thiên Chúa như vậy.
Thật thế, với sự Nhập Thể Chúa Giêsu là gương mẫu là lý tưởng của đời sống con người, để từ nay Thiên Chúa Chúa yêu thương loài người điều Ngài quí mến nơi Con Một của Ngài. Chính nhờ đời sống của Chúa Giêsu nơi trần gian mà đời sống con người chúng ta được thánh hóa. Nhờ sự chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hy vọng được sống đời đời sau khi con người rời bỏ cuộc sống trần thế này. Nhờ sự lên trời của Chúa Giêsu, con người tìm thấy cửa thiên đàng mở rộng. Chính vì niềm tin đó mà Giáo Hội trong kinh Tiền tụng I của lễ Thăng Thiên tuyên xưng rằng: “Ngài lên trời không phải để lìa xa chúng ta là những kẻ yếu đuối nhưng vì là Đầu và là Thủ Lãnh của chúng ta, nên Người lên trước để chúng ta là những chi thể của Ngài vẫn một lòng tin tưởng cũng sẽ được lên theo”.
Để theo Đức Kitô, Đấng đã về cùng Thiên Chúa Cha, chúng ta phải bắt đầu ngay từ bây giờ trong đời sống này là biến đổi con người chúng ta nên giống Chúa Giêsu. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự lên trời của mình không phải chỉ bằng cách đứng nhìn về trời như những người Galilêa xưa, mà phải bằng cách ôm lấy đời sống của mình như Chúa đã an bài cho đến hơi thở cuối cùng trong Chúa.
Người ta kể lại rằng, khi xưa có hai vị khách nọ đọc được trong thủ bản cổ một đoạn sách chép như sau: “Ở thế gian này có một nơi mà trời và đất gặp nhau”. Hai vị nghĩ rằng: Có lẽ chân trời là chỗ ở phía trước kia và nếu mình tìm gặp được thì chỉ cần gõ cửa là có thể vào được Nước Trời nhà của Thiên Chúa. Và ý tưởng đó đã thúc đẩy hai vị ra đi tìm cửa thiên đàng. Cuối cùng hai vị tìm được cánh cửa mình mong muốn ước ao đó. Vô cùng phấn khởi, hai vị gõ mạnh vào cửa, cánh cửa mở ra, hai vị bước vào và vô cùng bỡ ngỡ, hai vị nhận ra chính đây là nhà của mình. Sau những phút ngỡ ngàng, hai vị hiểu ra ngay rằng, nơi trời và đất gặp nhau chính là nơi mình đang sống, nơi đó tình thương Chúa bao trùm lấy cuộc đòi mình, ơn Chúa tuôn đổ dồi dào trên đời sống mình. Nơi đó sức thánh hóa và công nghiệp của Chúa Cứu Thế đang trào dâng trong lòng mình như nhựa cây cuồn cuộn trong thân cây để giúp mình càng ngày càng xứng đáng như công dân Nước Trời hơn.
Vậy mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay, chúng ta không cần nhìn đâu xa trên trời, không cần tìm một niềm tin xa xôi để khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính hằng ngày chúng ta chu toàn bổn phận Chúa trao phó cho mình đó là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, là nơi con người gặp Chúa và Chúa đang nắm tay hướng dẫn mình đi. Và Đức Kitô sống lại về trời không phải trở thành Đấng đứng ở ngoài trái đất, là cửa Nước Trời. Cho nên mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay không phải chúng ta giã biệt Ngài mà chính là chúng ta mừng Ngài là Đấng Cứu Thế đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc để con người trông vào đời sống của Ngài mà cố gắng rập khuôn đời sống của mình.
Vì thế, biến cố Chúa Giêsu về trời không phải là một kết thúc mà là bắt đầu một cuộc sống mới. Các tông đồ bắt đầu rao giảng khắp mọi nơi, và con người bắt đầu cải tà qui chánh trở về con đường Chúa Giêsu đã đi và dạy chúng ta cùng đi để hưởng nhờ ơn cứu chuộc. Hôm nay chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau biết sống cuộc sống hằng ngày của chúng ta theo thánh ý Chúa cách trọn vẹn.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam