Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1444061

THU LẠI NHỮNG MẢNH BÁNH VỤN

Thu lại những mảnh bánh vụn

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (X. Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm Chúa làm phép lạ lần thứ hai nữa (X. Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).

Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Họ đói khát, nghèo khổ, bệnh tật, bơ vơ. Họ đi tìm Chúa để được chữa lành, được an ủi, được dạy dỗ. Chúa đã yêu thương họ và muốn tặng cho họ một bữa tiệc đơn sơ bất ngờ ở ngoài trời. “Ta mua đâu bánh cho họ ăn đây?”. Chúa muốn đưa các môn đệ đi vào mối bận tâm của Ngài, cần sự cộng tác. Các môn đệ thất vọng vì chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhỏ.

Phản ứng các môn đệ là bế tắc được ghi lại trong 4 phúc âm như sau:

– Matthêu: Ở đây chúng tôi chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá thôi.

– Marcô: Thế chúng tôi phải đi mua 200đồng bạc bánh mà cho họ ăn sao?

– Luca: Chúng tôi không có hơn 5 chiếc bánh và 2 con cá, hoạ chăng là chúng tôi phải đi mua thức ăn cho cả toàn dân này.

– Gioan: Philipphê thưa: Có mua hết 200đ bạc bánh cũng chẳng đủ phát cho mỗi người một miếng nhỏ. Anrê nói: Ở đây có một em bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con cá nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!

Thái độ của các môn đệ là muốn thoái thác: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn” (Mt 14,15). Đó là giải pháp hợp lý. Lo cho hàng ngàn người ăn là ngoài khả năng các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng, ai lo phần nấy, tự đi mua lấy thức ăn.

Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ đó. Chúa muốn các môn đệ nhận lấy trách nhiệm và cùng cộng tác với Ngài: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn đi”.

Chúa Giêsu cầm 5 chiếc bánh và 2 con cá hướng nhìn về trời cao, đọc lời chúc tụng, những bế tắc âu lo của các môn đệ đã được giải toả. Đám đông ăn no nê đầy ứ và còn dư dả phủ phê.

Chúa Giêsu đã cho họ ăn một bữa đã đời và đó cũng là bữa để đời. Để đời vì là lời mời gọi cộng tác và hãy biết quý chuộng ân sủng Chúa ban.

  1. “Anh em hãy cho họ ăn”.

Phép lạ xảy ra do quyền năng Thiên Chúa và sự cộng tác của con người.

“Anh em hãy cho họ ăn”.

Chúa không làm phép lạ từ không ra có. Chúa làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá, là phần đóng góp nhỏ bé của con người. Phần đóng góp nhỏ bé, nhưng lại cần thiết. Chúa cần sự cộng tác của con người cho dù sự cộng tác ấy là nhỏ bé, nhưng với tấm lòng rộng lớn thì Chúa sẽ biến sự nhỏ bé thành lớn lao, biến điều tầm thường nên vĩ đại.

Chúa không làm phép lạ ngay tức khắc biến bánh và cá thành một kho thức ăn để người ta tự do đến lấy tùy thích.

Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Mọi người trao cho nhau. Đó là bài học lớn lao của phép lạ hoá bánh. Khi mọi người chia sẻ cho nhau, quan tâm giúp đỡ nhau trong tình thương, biết bẻ ra, biết trao đi, thì Chúa Giêsu làm phép lạ hoá nhiều.

Nghèo nàn hay thiếu khả năng, điều ấy không quan trọng. Chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà Chúa đã làm phép lạ ra nhiều. Hãy đóng góp hết khả năng nhỏ bé của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện.

“Anh em hãy cho họ ăn”.

Đây còn là lời mời gọi lên đường thực thi đức ái. Giáo hội không bao giờ thờ ơ né tránh các vấn đề nhân sinh của nhân loại. Giáo hội quan tâm đến mọi nhu cầu của con người và thế giới. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ thụ động, viện cớ này nọ để tự biện minh: “Chúng con chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, như thế thấm đâu cho ngần ấy người”.

“Anh em hãy cho họ ăn”.

Chúa nhắc nhở Giáo hội phải chủ động đi đến với người nghèo khổ, phải ở bên người nghèo đói và phải bênh vực chăm lo cho người nghèo nàn. Mọi Kitô hữu không thể thờ ơ trước những nỗi đau khổ, nghèo đói, thiếu thốn của anh chị em chung quanh. Nổ lực hết mình góp phần với Thiên Chúa để xoa dịu nỗi đau của tha nhân.

  1. “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”.

Đoạn kết Phúc Âm cho biết: sau khi mọi người ăn no thỏa, người ta thu lượm được “mười hai thúng đầy vụn còn dư”. Hồng ân tràn đầy của tình thương Thiên Chúa. Phúc Âm luôn luôn nói về chân lý này: một khi Thiên Chúa ban ơn là Ngài ban dư dật. Người mù xin sáng mắt,Chúa Giêsu cho sáng cả linh hồn; người bất toại xin sức khỏe để vác chõng về nhà, Chúa Giêsu cho sức khỏe cả về phương diện tôn giáo để hội nhập vào nhịp sống cộng đoàn.

Với 5.000 người không để đàn bà con nít, vậy số người rất đông, cả một rừng người. Có cả ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy tại sao Chúa lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mảnh vụn?

Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều là vì “chạnh lòng thương”: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32). Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ của Ngài. Nó là tình thương, là ơn sủng, là ơn cứu độ của Chúa trao ban. Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời, thành trăm ngàn vụn nhỏ thì càng rực rỡ huy hoàng.

Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, nó trở thành nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.

Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra, vóc dáng Người sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra chảy tràn kín vũ trụ, tỏa sức sống cho nhân sinh.

Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn, Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sức khoẻ, thời gian, tài năng, trí tuệ đều là ân huệ được ban tặng, cần trân trọng nâng niu gìn giữ. Trong ơn sủng của Chúa, không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường.

Có một cụ bà đã 73 tuổi (có lẽ là một Kitô hữu {trong hình thấy đeo tràng chuỗi Mân Côi} đi nhặt những mãnh vụn thai nhi, sinh linh bị giết chết, đem về chôn cất. Chuyện rất cảm động và thật cảm phục “Mười năm nhặt xác ba ngàn hài nhi!”. (x. Người Lao Động Online, 26.6.2011).

Gần 10 năm nay, có một bà cụ đã bước sang tuổi 73, vẫn ngày ngày lặn lội khắp nơi để nhặt những thai nhi bị bỏ rơi, đem về chôn cất. Đó là bà Phạm Thị Cường, ngụ xã Nghĩa Thắng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Bà bộc bạch: “Hãy yêu thương những linh hồn bé nhỏ bị bỏ rơi, kể cả khi chúng đã qua đời, bởi những đứa trẻ tội nghiệp ấy đã gánh thay chúng ta những tai họa ở trần gian”.

Ở làng quê nghèo ven biển xã Nghĩa Thắng, không ai còn lạ với hình ảnh một người đàn bà đã vào cái tuổi thất thập cổ lai hy, ngày ngày âm thầm đi gom nhặt thi hài những đứa trẻ khắp nơi về chôn cất. Trên đường về Nghĩa Thắng, khi hỏi thăm nhà bà Cường, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về bà qua những nông dân ở vùng quê này. Ở nơi đây, mọi người vẫn trìu mến gọi bà là bà Cường “hài nhi’’, có lẽ một phần cũng do những công việc mà bà đã và đang làm.

Bà là một người hiền lành, phúc hậu. Đã gần 10 năm nay, không quản ngày nắng cháy da cháy thịt hay đêm đông lạnh giá, bà vẫn lặn lội khắp mọi ngả đường của huyện Nghĩa Hưng, đặc biệt là khu vực thị trấn Đông Bình, để nhặt các hài nhi xấu số bị phá bỏ, về chôn cất.

Cuộc sống của bà Cường chỉ trông vào gánh bán rau quả và những đồ tạp hóa ở khu chợ Đông Bình. Nơi đây, có một số cơ sở nạo phá, hút thai nhi. Mỗi ngày có hàng trăm ca nạo phá thai đã diễn ra, một phần công khai, còn chủ yếu là bí mật, cũng đồng nghĩa với việc hàng trăm hài nhi bị vứt bỏ.

“Mỗi lần nhìn thấy thi hài của các cháu bị vứt bỏ nơi đầu đường, xó chợ, tôi lại không thể kìm lòng, càng thương các sinh linh bé nhỏ bơ vơ chưa kịp cất tiếng khóc chào đời, đã phải chịu thay tội vạ mà cha mẹ chúng đã gây ra. Đáng trách quá!”…

Gần 10 năm nay, họ đã tìm nhặt và an táng hơn 3.000 sinh linh bé bỏng.

Bà Cường tâm sự về “cơ duyên” dẫn mình đến cái nghiệp làm phúc này. Bà cho biết vẫn nhớ như in ngày 8.3.2002. Trên đường đến chợ Đông Bình để bán rau, khi đi đến cầu Đông Bình, bà Cường thấy có một túi nilông màu đen, ruồi muỗi bám đen.

Bà Cường nhớ lại: “Lúc đầu tôi cứ nghĩ đây là túi rác của gia đình nào đó ném ra đây. Nhưng rồi đi được một đoạn, tự dưng trong người tôi như có lửa đốt, cứ bồn chồn chẳng yên, đặc biệt là hình ảnh chiếc túi màu đen cứ như ngay trước mắt mình. Đứng lại suy nghĩ một lúc, tôi quyết định quay lại xem bên trong túi bóng đó chứa thứ gì”.

Bà Cường bàng hoàng và đau xót khi chứng kiến một hài nhi đang thoi thóp thở, thân thể bị kiến bu đầy, nhưng đôi mắt bé mở to nhìn bà chằm chằm như muốn nài nỉ, van xin. “Tôi đem đứa bé về nhà, lau rửa sạch sẽ, rồi đi xin sữa cho cháu bú nhưng cũng chỉ được ít phút sau, cháu đã tắt thở. Tôi cứ bị ám ảnh mãi ánh mắt của cháu, cứ đau đáu nhìn tôi. Nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, tôi quyết định phải làm một việc gì đó, chứ không thể để những cảnh thai nhi bị người ta bỏ đi mà không hề được chôn cất”.

Nhiều lúc bà Cường cũng nản khi có quá nhiều đứa bé bị nạo hút như vậy. Nhiều lúc bà định dừng công việc này, nhưng lại nghĩ đến những đứa trẻ bơ vơ, sống không thấy mặt cha mẹ, chưa kịp chào đời đã bị bỏ rơi.

Bà lại thấy mình không thể đứng nhìn được, phải làm việc gì sao cho có ích. “Vì vậy, tôi không kể gì là gian khổ, mưa nắng hay ngày đêm, lúc nào nghe tin ở đâu đó có thi hài bị bỏ rơi, là lại tìm đến để xin về mai táng”.

Nghĩa trang Quần Vinh trong một chiều mùa hạ, bà Cường lặng lẽ thắp những nén nhang thơm lên phần mộ của những hài nhi xấu số. Rồi bà nói trong tiếng nấc: “Các con chưa kịp chào đời đã phải trả giá cho sai lầm của những kẻ sinh thành nên các con. Bà thắp nén nhang thơm, mong các con được an nghỉ”…

Tuy hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bản thân lại già yếu, nhưng lúc nào bà Cường cũng hiển hiện niềm tin cuộc sống và tình thương yêu con người. Tâm sự với chúng tôi, bà Cường không mong ước điều gì ngoài việc mình được… thất nghiệp. Bà mong sẽ không còn phải ngày ngày đi làm công việc thu gom xác hài nhi đầy đau đớn này nữa. Tuy vậy, bà Cường vẫn khẳng định: “Tôi sẽ tiếp tục công việc này cho đến khi nào còn sức khỏe. Tôi sẽ tiếp tục đi thu gom những hài nhi xấu số về chôn cất, bởi theo tâm niệm của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp đó đã quá bất hạnh. Tôi quyết không để các cháu cô đơn mặc dù đã rời trần thế”…

Đức Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814). “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước, nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816). “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày, mới đạt được đích họ hy vọng” (ĐHV 817).

Suy niệm câu chuyện hóa bánh ra nhiều, nghe Chúa mời gọi chúng ta: hãy mở rộng trái tim để biết “chạnh lòng thương” anh em đồng loại. “Chạnh lòng thương” được thể hiện qua những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh chị em.

Chúa muốn trái tim chúng ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Kinh. Hãy nhìn Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Thánh Thể. Tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong Thánh Kinh, Thánh Giá và Thánh Thể. Một tình yêu tha thứ, phục vụ mạnh hơn hận thù. Một tình yêu phục sinh mạnh hơn sự chết. Một tình yêu khiêm tốn bao dung, mạnh hơn mọi kiêu căng và hẹp hòi.

 

  1. Đào tạo lòng tin – Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm loá mắt thiên hạ bằng sự lạ lùng.

Khi chống lại sự cám dỗ của Satan trong sa mạc, Chúa không làm ảo thuật ngoạn mục là khiến đá biến thành bánh trong nháy mắt hay gieo mình xuống từ nóc đền thờ.

Chúa làm phép lạ chỉ để cứu giúp người khác và từ sự cộng tác của họ.

Tại Cana, Chúa không khiến cho sáu chum đầy rượu tức khắc mà lại bảo các gia nhân: “Hãy đổ nước đầy các chum!” (Ga 2, 7). Các môn đệ sau một đêm vất vả chẳng bắt được con cá nào, Chúa không truyền lệnh cho cá đầy thuyền mà bảo Simon “ra khơi mà thả lưới đánh cá” (Lc 5, 4 -7). Trong phép lạ hoá bánh ra nhiều cũng vậy: “Các anh có mấy chiếc bánh?” (Mc 6, 38). Chúa đã làm phép lạ từ 5 chiếc bánh và 2 con cá của một cậu bé.

Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều với mục đích đào tạo lòng tin của các môn đệ.

Chúa Giêsu tỏ ra cho các môn đệ thấy lòng xót thương của Ngài đối với dân chúng “vì họ như cừu chiên không người chăn giữ”. Chúa chạnh lòng thương và chữa lành các bệnh nhân chứng tỏ Ngài là vị Mục tử mà ngôn sứ Êdêkien đã nói đến (x. Ed 34). Chúa muốn các môn đệ nhận ra Ngài là Chúa Chiên, là Mục tử nhân lành. Phép lạ hoá bánh là cả một bài dạy bằng thực hành về người chăn chiên tốt lành. Chính các môn đệ còn được “tập sự” chia sẻ công việc của chủ chăn. Họ phải đi kiếm bánh, phân phát cho dân chúng và thu lượm những gì còn sót lại.

– Phép lạ hoá bánh là dấu chỉ báo trước Thánh Thể “Ngài cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ” (Mt 14, 20). Trong Tiệc Ly “Ngài cấm lấy bánh, chúc tụng” (Mc 14, 22). Cử chỉ Bẻ Bánh đã trở thành nét đặc trưng của Chúa Giêsu (x. Lc 24, 30) và của Giáo hội (x. Cv 2, 42).

– Được bánh ăn, dân chúng muốn “bắt lấy Ngài tôn lên làm vua” (Ga 6, 15). Họ tiếp nối Satan cám dỗ Ngài lần nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở họ rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh “Hãy ra công làm việc, đừng vì lương thực hư nát nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi” (Ga 6, 27). Họ xin cho được ăn mãi thứ bánh ấy và Chúa đã bảo họ: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với ta không hề phải đói, ai tin vào ta, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). Chóp đỉnh của mạc khải về Bánh Hằng Sống, chính là “Ai ăn thịt ta và uống máu ta thì được sống muôn đời, và ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54). Ăn thịt, uống máu nhấn mạnh đến cái chết trên thập giá của Chúa.

“Bánh ta sẽ ban” hướng về cái chết của Chúa Giêsu và gợi đến Tiệc Thánh Thể lưu niệm vĩnh viễn sự chết cứu độ của Chúa trên Thập giá. Giá trị cứu rỗi của của cái chết trên Thập giá được hiện tại hoá lụôn mãi trong Tiệc Tạ Ơn của Giáo Hội. Người tín hữu được sống dồi dào khi ăn uống Mình Máu Chúa Giêsu.

– Chúa vẫn tiếp tục đồng hành cùng Giáo hội, thực hiện công trình cứu độ trong Giáo hội, qua Giáo hội và với Giáo hội.

Các anh có mấy chiếc bánh? (Mc 6, 38), đó vẫn mãi mãi vừa là câu hỏi, vừa là lời mời gọi khẩn thiết của Chúa Kitô. Trao cho chúng ta Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng ta bẻ ra và trao cho anh em mình.

Bánh Lời Chúa:

“Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Lời Thiên Chúa là Lời Quyền Năng, nhưng Ngài lại trao cho con người sứ mạng công bố lời Ngài “Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các Ngôn sứ” (Dt1, 1).

Cũng một sứ mạng ấy được tiếp nối trong Giáo hội hôm nay “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9, 2). Sứ mạng đó là nhiệm vụ cốt yếu của các tông đồ “Chúng tôi không thể sao nhãng Lời Thiên Chúa để lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6, 2) và chính Thánh Phaolô kêu lên “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Thế là con người tội lỗi được giao trách nhiệm công bố Lời thánh hoá, con người yếu đuối công bố Lời quyền năng, con người giới hạn công bố Lời vĩnh cửu. Một vinh dự quá đổi lớn lao!

Lời Chúa có thể đọc và giải thích ngoài phụng vụ, trong phạm vi cá nhân hoặc khi làm việc đạo đức. Khi đó Lời Chúa là cơ hội ban ơn hiện sủng và hiệu năng ở đây là hiệu năng “do nhân” (ex opere operantis), tuỳ thuộc thái độ tâm hồn của người đọc và người nghe. Lời Chúa được công bố khi cử hành phụng vụ. Đó là Lời do Chúa Giêsu hoặc Giáo hội ấn định, được công bố nhân danh Chúa và Giáo hội bời Thừa tác viên chính thức.

Lời Bí Tích mang hiệu năng “do sự” (ex opere operato), qua các bí tích, Chúa Kitô ban ân sủng cho người lãnh nhận.

Sứ vụ công bố Lời Chúa được thực hiện trong tác động của Thánh Thần. Bởi thế người rao giảng Tin mừng chỉ có thể thực rao giảng Lời Chúa nhờ quyền năng và tác động của Thánh Thần. Chính Thánh Thần tác động lên người nói cũng như người nghe, để Lời được công bố không còn là Lời của người phàm, nhưng là Lời Thiên Chúa. Dù ta có cố gắng đến đâu cũng không thể cải hoá lòng người vì: “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không do Thánh Thần” (1 Cor 12, 3) và “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” (Tv 127, 1).

Các Con có mấy chiếc Bánh Lời Chúa để trao cho anh em? Chúa vẫn luôn hỏi chúng ta điều ấy mỗi ngày. Bởi đó, cần trau dồi Lời Thiên Chúa, vì người được sai đi để công bố Lời Thiên Chúa, chứ không phải lời của thế gian, cho dẫu lời ấy có khôn ngoan đến đâu chăng nữa. Đồng thời, cũng phải trau dồi lời con người, là khả năng nói, loan báo, kỹ năng diễn đạt tư tưởng và rao giảng để Lời Chúa chinh phục các tâm hồn.

Công bố Lời Chúa, vừa là một hồng ân, vừa là một trách nhiệm. Là hồng ân vì con người tầm thường được Thiên Chúa mời gọi làm ngôn sứ. Là trách nhiệm vì phải nổ lực để chu toàn sứ vụ.

Bánh Thánh Thể:

Bánh và rượu tương trưng đầy đủ chính con người chúng ta. Bánh là kết quả công lao khó nhọc của con người. Người ta thường nói: Đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có mà ăn. Bánh như thế tượng trưng công lao khó nhọc của con người và chính sự sống con người.

Bên cạnh đời sống vật chất còn có đời sống tinh thần. Vì thế cùng với bánh, chúng ta dâng rượu. Rượu tượng trưng cho mọi nỗi vui buồn sướng khổ của đời người: khi vui, ta uống chén rươụ mừng, nhưng khi buồn, ta uống chén rượu giải khuây. Dâng lên Chúa bánh và rượu, là chúng ta dâng lên tất cả đời sống với mọi nỗi vui buồn sướng khổ, tất cả dệt nên cuộc sống hiện tại của chúng ta.

Đến Nhà Thờ dâng Lễ, mỗi tín hữu mang lễ vật riêng, là chính đời sống của mình, nhưng khi dâng lễ, nó được thu hợp lại thành lễ vật chung của cộng đoàn dâng lên Chúa. Tấm bánh được hình thành bởi trăm ngàn hạt lúa miến đã được xay nát ra và hoà trộn với nhau trong chậu bột. Ly rượu là kết quả của nhiều trái nho được ép ra và hoà tan với nhau. Cả hai tượng trưng đầy đủ ý nghĩa cộng đồng cho lễ vật mỗi người cũng như lễ vật toàn thể cộng đoàn.

Linh mục đọc Lời Truyền Phép là lời Chúa Kitô, nhờ quyền năng chúa Thánh Thần, bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Đồng thời Chúa Kitô cũng biến đổi những hy sinh, những hạnh phúc đau khổ, những trách nhiệm của cộng đoàn trong hiến lễ, để rồi khi mỗi người rước lễ, họ đón nhận Mình Máu Chúa là đón nhận lại của lễ mình dâng lên mà giờ đây đã được thánh hiến.

Người tín hữu được lớn lên trong đức tin, trong lòng mến nhờ ân sủng của Thánh Thể Chúa Kitô “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói;ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35). “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Thánh Thể như thế là mối hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người; là quà tặng Thiên Chúa trao ban cho nhân loại, và chính là lương thực thiêng liêng, bảo đảm hạnh phúc trường cửu của chúng ta. Bởi đó, tham dự thánh lễ cách đầy đủ, tích cực, trọn vẹn với tất cả con người, là cách tốt nhất đáp lại tình thương của Chúa, yêu mến Thánh Thể.

Đức Hồng Y Phanxicô Xaiviê Nguyễn Văn Thuận viết “Con muốn hỏi: ‘Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?’. Hãy tham dự Thánh lễ, vì không kinh nào, không tổ chức, nghi thức nào sánh bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên Thánh giá”. (Đường Hy Vọng #349).

Bí tích Thánh Thể là ‘nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Kitô hữu’ (GH 11), là trung tâm điểm của Phụng Vụ vì cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, ‘mầu nhiệm Chúa Kitô hoàn tất công trình cứu độ chúng ta’ (GLCG 1068).

Tham dự Thánh Lễ cách “trọn vẹn, ý thức và linh động”, và “qua cuộc sống biểu lộ cho người khác thấy mầu nhiệm Chúa Kitô và bản tính đích thực của Hội Thánh chân chính” (PV 2) là cách tốt nhất thể hiện lòng yêu mến Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một niềm tin nhạy cảm để biết nhận ra bàn tay quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng con tấm lòng quảng đại, để biết sống chia sẻ, hầu cảm nhận được tình yêu của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Amen!

 

  1. Các con hãy cho họ ăn đi.

Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng nghèo về của cải vật chất, nhưng giàu có về của cải tinh thần. Bà cầu nguyện rất nhiều. Trong khi người chủ nhà sống ở căn hộ sát bên, ông ta không có đức tin, không cầu nguyện, không tôn giáo. Ông ta lại thường chế nhạo bà già về lòng tin vào Thiên Chúa. Có một ngày bà già cầu nguyện lớn tiếng, thưa với Chúa rằng: “Bà không còn chút thực phẩm nào trong nhà”. Người đàn ông không có đức tin ờ sát căn hộ bên nghe được, và quyết định: “Ta phải chơi khăm mụ già này”. Thế là ông ta đem một ổ bánh mì đặt ở trước cửa nhà, bấm chưông rồi vội vã trở về căn hộ của mình, và lắng nghe qua bức tường tiếng kêu sung sướng của bà già: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, con biết rằng Chúa không bỏ rơi con”. Ông già nham nhở trở lại cửa trước nhà bà già và bảo bà: “Bà già thật ngờ nghệch. Bà nghĩ rằng Thiên Chúa đáp lời bà xin ư! Phải, tôi là người đem ổ bánh mì cho bà đấy!” – Bà già dũng cảm kêu lên: “Ngợi khen Chúa! Ngài luôn giúp đỡ tôi trong lúc thiếu thốn, dù rằng Ngài phải dùng ma quỉ mà đáp lời tôi xin”.

Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay, các môn để xin Chúa giải tán dân chúng… để họ đi mua thức ăn. Chúa Giêsu bảo các ông: “Các con hãy cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với năm chiếc bánh mì và hai con cá – với 12 thúng bánh vụn còn dư lại.

Hôm nay đám đông dân chúng đó đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói, một trăm ngàn người một ngày, theo như một số ước lượng. Ngay ở quê hương chúng ta đây, còn rất nhiều người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng.

Nhiều Kitô hữu và cả người ngoài Kitô giáo có những hy sinh anh hùng để nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làmhết sức, với khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp ở trên và vượt qua con người. Chúng ta nghe thấy có tiếng kêu: “Người đói cần thực phẩm – không cần lời cầu nguyện”. Dĩ nhiên là thế, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho bánh cho người chết đói, cho đến khi chúng ta cũng cho họ lời cầu nguyện. Chỉ riêng các tông đồ không thể nuôi đám đông người đói đó. Họ đã giải quyết được với sự giúp đỡ của Chúa Kitô. Phải, đức tin của tôi chỉ đủ tin rằng nếu chúng ta nài xin Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta nuôi dưỡng người đói như bà già trong câu chuyện. Tôi tin tưởng Chúa sẽ thực hiện ngay cả với một phép lạ, có lẽ với phép lạ của lòng bác ái.

Chúng ta cầ cầu nguyện cho vấn đề người đói, vì chúng ta biết tất cả sự việc, số đông vô kể những người đói, sự khó kiếm được thực phẩm cho họ, hay làm cho họ kiếm được lương thực, hệ thống phân phối nhiều khi và thường đầy tội lỗi, thì chỉ nhờ lời cầu nguyện mà các cá nhân và tập thể sẽ bị lay động để làm những gì thiết yếu cho việc cung cấp lương thực cho những người đói khổ.

Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên và thành thực để chúng ta ý thức và luôn ý thức rằng: hàng triệu người đang chết đói.

Sự tin tưởng cầu nguyện được diễn tả trong bài đáp ca: “Muôn loài để mắt trông cậy vào Chúa và Chúa sẽ ban lương thực cho chúng đúng theo giờ”. Trong ít phút nữa, chúng ta sẽ cầu nguyện như những lời Chúa Giêsu đã dạy: “Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều mà tôi xin các bạn làm. Hãy cầu xin lương thực cho tất cả chúng ta, tất cả nhân loại. Phải, hãy đào bới và trao tặng, nhưng cũng hãy quì gối cầu nguyện để tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới có lương thực.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.

 

  1. Phép lạ của sự lắng nghe

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.

Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói “ăn sóng nói gió”, phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.

Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.

Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. “Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. “Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung”. Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: “Tôi đã làm gì cho giáo xứ”, hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.

Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thươngAmen.

 

  1. Đức Giêsu chữa bệnh và nuôi đám đông dân chúng

(Suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:

1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: “Tiến tới việc loan báo Giáo Hội”hoặc “Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời” hoặc “Hành trình đức tin trong Giáo hội”, bởi vì qua các chương này, Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.

2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).

3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:

– Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin …” (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).

– Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.

Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.

2.- Bố cục

Bản văn này có thể chia làm ba phần:

1) Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (14,13-14):

  1. a) Hoàn cảnh (c. 13),
  2. b) Đức Giêsu chữa bệnh (c. 14);

2) Đức Giêsu nuôi đám đông (14,15-21):

  1. a) Đức Giêsu đối thoại với các môn đệ (cc. 15-18),
  2. b) Đức Giêsu nuôi đám đông nhờ trung gian các môn đệ (c. 19-20a);

3) Kết luận: Ghi nhận về bánh hóa nhiều (cc. 20b-21).

3.- Vài điểm chú giải

– nơi hoang vắng (13): dịch sát là nơi “sa mạc”. Phép lạ hóa bánh ra nhiều tại sa mạc này khiến chúng ta nhớ đến Môsê đã xin Chúa ban man-na cho đoàn dân trong thời gian họ tiến đi trong sa mạc để về Đất Hứa (x. Xh 16; Ds 11).

– chạnh lòng thương (14): dịch sát là “đau đớn quặn thắt trong ruột”. Nhiều lần Mt ghi nhận là Đức Giêsu “động lòng thương” (esplanchnisthê: 9,36; 15,52) và bày tỏ lòng thương bằng những hành vi cứu chữa.

– chiều đến (15): Ghi nhận là bài tường thuật Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể cũng bắt đầu với công thức chỉ thời gian này (26,20).

– năm cái bánh và hai con cá (17): Bánh và cá muối hoặc ngâm dấm là những món thuộc về bữa ăn thông thường của dân chúng.

– ngả mình trên cỏ (19): Chi tiết này cho hiểu đây là thời gian trong mùa xuân, tức ám chỉ đến lễ Vượt Qua. Anaklithênai, “ngả mình”, là động từ gợi ý đến một bữa tiệc, bởi vì khi ăn, các thực khách Do Thái “ngả mình” trên những chiếc bàn thấp (đi-văng). Bài tường thuật bí tích Thánh Thể cũng dùng một động từ tương tự (“Chiều đến, Đức Giêsu vào bàn tiệc” = ngả mình [anekeito] trên giường tiệc; Mt 26,20).

– cầm lấy … dâng lời chúc tụng … bẻ ra … trao cho (19): Đây là chuỗi động từ được dùng trong bài tường thuật về bí tích Thánh Thể (so sánh: Mt 14,19 // Mt 26,26: “cầm lấy”: labôn/labôn; “bánh”: artous/arton; “dâng lời chúc tụng”: eulogêsen/kai eulogêsas; “bẻ ra”: klasas/eklasen; “trao cho các môn đệ”: edôken tois mathêtais/dous tois mathêtais). Việc bẻ bánh luôn luôn là một nghi thức được thực hiện trong bữa tiệc.

– … trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng (19): Các môn đệ là trung gian giữa Đức Giêsu và đám đông. Mt dùng một động từ duy nhất (didômi, “cho, trao cho”) để nói về hành động của Đức Giêsu và của các môn đệ. Trong khi trong Mc (6,41) và Lc (9,16), các tông đồ “mang; phân phát” (Mc: paratithôsin; Lc: paratheinai) bánh cho đám đông, trong Mt, các ông có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu của dân chúng bằng cách tiếp nối công việc của chính Đức Giêsu.

– những mẩu bánh còn thừa (20): Trong các bữa tiệc Do Thái, có việc bẻ bánh trao cho nhau như một nghi thức. Những mẩu bánh thừa khiến nhớ lại “nghi lễ bẻ bánh”, tức bí tích Thánh Thể, mà các tông đồ và môn đệ cử hành sau khi Đức Giêsu đã về trời (x. Cv 2,42; 20,7).

– năm ngàn đàn ông (21): Không chắc đây là con số chính xác (làm sao đếm xuể?). Có lẽ Mt muốn so sánh Đức Giêsu với ngôn sứ Êlisa và cho thấy Đức Giêsu vượt xa ngôn sứ này: Trong sách 2 V 4,42-44, Êlisa đã hóa hai mươi cái bánh lúa mạch ra nhiều để nuôi 100 người (từ 1 thành 5). Ở đây Đức Giêsu đã hóa năm cái bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (từ 1 thành 1000). Vậy Đức Giêsu cũng là một ngôn sứ có khả năng làm phép lạ, nhưng cao trọng hơn Êlisa nhiều.

– giỏ (20): Cái giỏ (kophinos) để đựng các đồ vật cũng là một đồ dùng để đo thể tích (khoảng 10 lít).

4.- Ý nghĩa của bản văn

 Câu truyện Đức Giêsu nuôi đám đông hôm nay có thể khiến chúng ta nhớ đến giai thoại man-na trong hoang địa (Xh 16,11-36; Ds 11), Êlisa nuôi đám đông (2 V 4,32-44), câu truyện tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12), cũng như các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với những người khác. Dù thế, hẳn là có thật một hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khát.

– Đức Giêsu chữa bệnh cho đám đông (13-14)

Hoàn cảnh lúc đó là một lần nữa, Đức Giêsu lại muốn lánh đi về một nơi hoang vắng riêng biệt vì bị giới lãnh đạo đe dọa (x. 12,15). Tuy nhiên, đám đông dân chúng biết tin liền đi theo Người. Đây không phải là lần đầu tiên Mt cho thấy Đức Giêsu có đám đông đi theo (x. 8,1; 12,15). Vẫn chính là Người hướng dẫn cộng đồng những kẻ lưu đày về quê hương. Lần này, đám đông thậm chí còn đi trước Người, đưa theo những người bệnh, và hẳn là cả các niềm hy vọng của họ (c. 14). Đức Giêsu không bực bội nóng giận vì dân chúng làm mất sự yên tĩnh, cũng không tỏ ra lãnh đạm với đoàn dân; Người thương cảm họ sâu xa (esplanchnisthê), hẳn cũng vì một lý do như ở 9,36 (x. 15,32; 20,34; đọc thêm: vì “thương xót” [eleeô]: 9,27; 15,22; 17,15; 20,30-31): “vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”. Thế là Người lại hòa mình vào giữa đám đông để chữa bệnh cho họ. Hành vi đầu tiên Người làm lúc này là chữa bệnh: các sự dữ không chỉ được khoan nhượng, mà còn bị loại trừ. Sau những ca chữa bệnh “cụ thể”, khó mà nói rằng việc nuôi đám đông chỉ có tính biểu tượng hoặc bí tích; hẳn đây cũng là một phép lạ “cụ thể”.

– Đức Giêsu nuôi đám đông (15-21)

Khi chiều đến, các môn đệ là những người thực tế, đánh giá tình hình khách quan, đã đến đề nghị Đức Giêsu giải tán đám đông, để họ có thể tùy nghi vào các làng mạc mà mua lương thực. Chi tiết này cho thấy họ không nhất thiết là những người “khố rách áo ôm”. Chẳng những không đồng ý, Đức Giêsu còn yêu cầu các ông cho đám đông ăn. Đây là một yêu cầu rất thiếu thực tế, mà chính Đức Giêsu biết. Tác giả phác họa ra Người như một bề trên, Chúa tể tối cao ra lệnh cho các môn đệ làm một việc dường như không thẻ làm nổi, nhưng người thì biết chính xác Người sẽ làm gì. Người chỉ muốn các môn đệ cộng tác với Người để làm công việc cung cấp lương thực cho dân chúng. Khi các môn đệ tỏ ra ngại ngùng, vì chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá (c. 17), Người không trả lời họ; Người bảo mang cá và bánh lại cho Người (c. 18).

Với một lệnh một lần nữa gợi ra uy quyền tối thượng của Đức Giêsu, tác giả đưa vào truyện phép lạ. Ngài không ghi lại chi tiết phân thành các nhóm một trăm và năm mươi như Mc 6,40. Đức Giêsu cầm lấy bánh và cá, ngước mắt lên trời (không phải là cử chỉ thông thường của người Do Thái khi cầu nguyện, dù có thể làm), dâng lời chúc tụng Thiên Chúa (chứ không phải là làm phép bánh và cá), rồi bẻ ra, tao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho dân chúng. Với những công thức này, một độc giả Kitô hữu gốc Do Thái nhớ tới những bữa ăn trong gia đình, tại nhà thờ và Bữa Tối của Chúa. Họ hiểu rằng bài tường thuật trước tiên kể lại một phép lạ, nhưng cũng nhắc họ nhớ đến bữa tiệc Thánh Thể. Quả thật tác giả nhắc lại những công thức của bài tường thuật về bí tích Thánh Thể nhằm nhắc lại và cũng giới thiệu trước bài tường thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể.

Biến cố này là một hình ảnh về Giáo Hội, nên cũng cần được giải thích theo hướng đó. Đức Giêsu ở tại trung tâm, Người là nguồn mạch ban phát mọi ân huệ, Người ban lời và bánh. Rồi đến nhóm nhỏ các môn đệ bao quanh Người. Họ ở sát bên Người, họ chuyển thông các ân huệ của Người, họ như là cánh tay Người nối dài ra. Đám đông được Đức Giêsu quy tụ lại thì ngồi xung quanh các ngài: họ vui sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời khi đọc lời chúc tụng. Người làm những việc “Chúa Cha giao cho Người hoàn thành” (x. Ga 5,36). Người không còn chỉ là vị trung gian như Môsê, hay chỉ là một ngôn sứ nhỏ như Êlisa ngày xưa. Nay Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn sự sống. Tương quan giữa hai mươi cái bánh của Êlisa với một trăm người được ăn no (1 thành 5) và năm chiếc bánh của Đức Giêsu với năm ngàn người được no nê (1 thành 1000) nêu bật sự trổi vượt của phép lạ thứ hai. Đức Giêsu là một ngôn sứ và một Đấng làm phép lạ, nhưng cao cả hơn Êlisa nhiều.

– Kết luận: ghi nhận về bánh hóa nhiều (20b-21)

Chi tiết “mười hai giỏ đầy” (c. 20) những mẩu bánh thừa không có điểm tựa nào khác trong bài để độc giả có thể nói rằng chi tiết này quy về mười hai môn đệ hay mười hai chi tộc Israel. Chúng ta chỉ có thể nói: như vậy đám đông đã được ăn no.

Bản văn hẳn cũng song song với truyện phép lạ man-na, cũng xảy ra trong hoang địa trước đám đông dân chúng (x. Xh 16; Ds 11). Bánh và cá hôm nay thay thế cho man-na và chim cút ngày xưa. Với những dấu lạ này, Đức Giêsu xuất hiện như nhà giải phóng của thời cuối cùng. Nhờ năm chiếc bánh, tượng trưng năm quyển sách của Torah mới (Ortensio da Spinetoli), Đức Giêsu nuôi đoàn dân Thiên Chúa đang tiến về đất hứa. Những chi tiết này đặt sánh đôi Đức Kitô với Môsê, Họi Thánh với cộng đoàn Xuất Hành. Hôm nay, nhà giải phóng đích thực, vị mục tử, nhà lãnh đạo dân Thiên Chúa, dẫn dắt một đoàn dân bị bỏ rơi và đang tiến đi trong sa mạc trần gian này, là một mình Đức Giêsu.

Trong nền văn chương kinh sư, bữa tiệc là biểu tượng của cộng đoàn cánh chung (hiệp thông đời sống: St 31,54; Xh 18,12; 1 Sm 9,12; Am 2,8; Hs 8,13; và niềm hạnh phúc thời thiên sai: Is 48,21; 49,9-10; 55,1; 65,13; Dc 5,1; Is 25,6; Tv 23,1-5). Việc Đức Giêsu quy tụ các môn đệ và dân chúng ở bờ hồ như thế trở thành nghi thức khai mạc thời đại mới. Sa mạc, nơi đầy những thử thách và gai góc, đã trở thành một khu vườn.

+ Kết luận

Đức Giêsu quả là Đấng có quyền trên bệnh tật và sự đói khát. Một lần nữa, dân chúng trải nghiệm về quyền lực và sự quan tâm của Đấng Mêsia.

Biến cố được kể trong bản văn này là một hình ảnh về Hội Thánh. Đức Giêsu ở ngay trung tâm, Người là nguồn mạch từ đó phát xuất mọi ân huệ, Người chữa lành, ban Lời và bánh. Kế đó là nhóm nhỏ các môn đệ. Các ông ở ngay bên Đức Giêsu, các ông chuyển giao các ân huệ Người ban, các ông là như cánh tay nối dài của Người. Dân chúng được quy tụ lại thì ngồi chung quanh Người; họ sung sướng được ở với Người. Đức Giêsu ngước mắt lên trời mà đọc lời chúc tụng. Người hướng về Thiên Chúa là Cha của Người, là Đấng mà Người luôn tìm biết ý muốn để chu toàn (x. Mt 11,25-27). Bây giờ Đức Giêsu không chỉ còn là một trung gian như Môsê xưa kia nữa; Người chính là Đấng ban sự sống, bởi vì Người là nguồn mạch từ đó phát xuất ra sự sống.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Các môn đệ cần quan tâm học hỏi cách xử sự của Đức Giêsu: cứu chữa. Nhưng họ chỉ có thể học được bài học này, nếu họ có trái tim của Đức Giêsu: thương cảm sâu sắc trước tình cảnh của người anh em chị em, tức là biết quan tâm đến hoàn cảnh sống của anh chị em mình, với trá tim đầy tình yêu thương.
  2. Phép lạ đặc biệt nhắm đến các môn đệ. Có thể họ còn yếu đức tin, nhưng họ đã trải nghiệm quyền năng từ bi của Chúa họ. Họ sẽ còn trải nghiệm về điều này lần nữa (15,32-39). Qua những kinh nghiệm đó, họ sẽ hiểu (16,5-12). Đàng sau các môn đệ là Hội Thánh: trong cuộc sống chia sẻ với Đức Chúa Phục Sinh, qua những bữa ăn, và trong mỗi Thánh Lễ, Bữa tiệc của Chúa, Hội Thánh lại sống biến cố hóa bánh ra nhiều tại bờ hồ hôm ấy.
  3. Không được quá đề cao cơm bánh vật chất (x. Mt 6,25-26), nhưng cũng không được quên cơm bánh vât chất (6,11). Phải nghĩ đến việc nuôi dưỡng bản thân (6,11), nhưng cũng phải quan tâm đến việc nuôi sống người khác. Người Kitô hữu không được ăn uống một mình, vì luôn ở giữa một đoàn anh chị em đang chờ đợi thức ăn họ thiếu. Họ phải đi ra khỏi tình trạng cô lập mà sống trong cộng đoàn và trong sự hiệp thông với mọi người. Bài học hôm nay cho hiểu rằng họ chỉ việc dâng cho Đức Giêsu chút tài nguyên ít ỏi của mình, rồi làm theo sự hướng dẫn của Người.
  4. Trong khi trong bản văn Ga 6, các tông đồ không có sáng kiến nào, trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các ông lưu ý Đức Giêsu, trao đổi về cách cung cấp các nhu yếu phẩm cho đám đông, cuối cùng nhận được nhiệm vụ phân phát bánh và thu gom các mảnh vụn còn dư. Các môn đệ nhận lệnh đưa bánh và cá, chuẩn bị và phục vụ bữa ăn. Công việc của các ông nối dài công việc của Đức Giêsu. Hôm nay, các mục tử cũng không thể bỏ mặc đoàn chiên thiếu lương thực thiêng liêng và nhất là lương thực Thánh Thể.
  5. Mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu sống một biến cố mang tính Giáo Hội: họ vây quanh Đức Giêsu, họ chia sẻ chính Mình Máu Người. Sau đó, họ được mời gọi ra đi (Ite, missa est: “Lễ đã xong, anh chị em hãy ra đi (loan báo Tin Mừng)”) để, cũng như Đức Giêsu, họ trở thành “tấm bánh” nuôi dưỡng nhân loại và kiến tạo một thế giới mới.

 

home Mục lục Lưu trữ