Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 92
Tổng truy cập: 1445550
THỜI BUỔI LO LẮNG
Thời buổi lo lắng
Thi sĩ W. H. Auden hiện đại là người đầu tiên đã gọi lịch sử thời chúng ta là "Thời Lo Sợ"; và từ đó danh từ ấy được truyền tụng vì nó nói lên đặc tính trong thời gian chúng ta đang sống-- cái cảm giác lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ và khó khăn về tương lai. Đó là những cảm giác đang ảnh hưởng trên văn hoá chúng ta. Tất cả những điều ấy được biểu lộ qua văn thơ, ca nhạc và những nghệ thuật khác nữa. Nếu các bạn có dịp đi tham quan Viện Nghệ Thuật Hiện Đại ở thành phố New York, các bạn sẽ thấy một bức tranh diễn tả một cô ca sĩ bụi đời đang nằm ngủ nơi trống trải với cây đàn nằm bên cạnh cô do họa sĩ Andre Rousseau vẽ (bức tranh này thường được gọi là "Cha Đẻ" của tranh họa hiện đại). Bức tranh diễn tả một khung cảnh phía trước và xung quanh cô ta rất an bình chỉ trừ mập mờ phía sau là một con sư tử đang nhe nanh giương móng sắc như đe dọa; thế nhưng bức tranh không một lời giải thích hay một dấu hiệu nào để có thể hiểu tại sao lại xuất hiện một con sư tử hung dữ trong bức tranh thơ mộng như vậy. Đó là ẩn ý của người hoạ sĩ muốn như thế. Cũng vậy, những mối lo sợ của chúng ta thường không có lời giải nghĩa thích hợp, nhưng chúng luôn hiện diện ở đó và trong chúng ta.
Sự lo lắng liên tục mà chúng ta mang theo suốt ngày đêm sẽ lấy đi mọi hoan lạc trong đời sống, những giấc ngủ an lành, làm phí sức và hao tổn tinh thần chúng ta, nó cũng là nguyên nhân hay ít ra là một trong những nguyên tố góp phần gây ra các bệnh hoạn trong cơ thể. Thật sự, lúc nào chúng ta cũng có đầy những lo lắng, sợ hãi bởi vì không biết đời sống rồi sẽ đưa chúng ta tới đâu. Nào là "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm hoặc không làm điều này, điều nọ?... Làm sao tôi biết chắc chứ?... Giả như anh ta hay chị ta làm điều ấy thì sao?..." Ôi! Đúng quá phải không?
Mỗi câu hỏi như một lời kêu cứu, thế mà trong cuộc sống hằng ngày, như chúng ta biết đó, nó chẳng được ai nghe đến. Đó cũng là điều xảy ra đối với những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người Pharisiêu đã làm phiền một anh thanh niên vì anh ta được Chúa Giêsu chữa cho khỏi mù trong ngày Sabbát. Họ muốn anh ta nói dối là Chúa Giêsu đã không chữa anh ta khỏi mù vì đối với họ ngay việc chữa lành trong ngày Sabbát cũng là phạm luật cấm. Theo cách giải thích luật gắt gao được áp dụng trên đời sống cũng như trong tôn giáo của họ thì việc làm của Chúa Giêsu không phải là dấu của quyền uy Thiên Chúa. Họ trói buộc Thiên Chúa vào luật điều tuân giữ ngày Sabbát của họ. Thiên Chúa được tự do nhận lời cầu xin của nhân loại từ Chúa Nhật đến ngày thứ Sáu, nhưng không được vào ngày thứ Bảy. Ngay cả Chúa cũng không được cho phép làm việc ngày Sabbát. Chúa Giêsu đã mang tin vui cho các bạn đó là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe lời kêu xin của nhân loại trong mọi lúc, bất kể ngày giờ nào. Ngài biết rất rõ các bạn đang bị đau ở đâu và từng vấn đề khó khăn của các bạn như thế nào. Ngài biết và lắng nghe từng nghi vấn hay lời kêu cứu ngay cả trước khi các bạn có thể nghĩ hay thốt ra. Ngài đã có sẵn từng câu trả lời cho mỗi nghi vấn và sẽ đến để cứu các bạn trong mọi nơi, mọi lúc nếu như các bạn để Ngài được tự do hành động.
Các bạn phải san bằng cái bức tường lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ mà vô tình cách nào đó các bạn đã dựng nên làm ngăn cách giữa Chúa và các bạn. Bức tường này có hai vấn đề chính. Thứ nhất là mối lo lắng về tương lai vĩnh cửu của chúng ta. Những điều chúng ta đã hay không làm trong quá khứ còn theo đuổi ám ảnh chúng ta về ảnh hưởng cánh chung của mình. Chúng ta lo lắng khi thấy đời sống hiện tại xem ra không mang đến ý nghĩa nào về vĩnh cửu. Chúng ta lo sợ về sự chết: chúng ta sẽ ra đi vào cõi bất diệt và mọi người thân yêu của chúng ta cũng sẽ theo chân, và dầu có những lời nói tư tưởng tốt lành hay ho về cái chết đấy, chúng ta vẫn luôn lo sợ về thực chất của sự chết. Điều thứ hai đó là nỗi lo lắng về cuộc sống hằng ngày của ta. Nào là ăn gì, mặc chi, giải trí ra sao và thậm chí cả đến vấn đề đổ xăng gì nữa. Tôi tin chắc rằng các bạn cũng đồng ý với tôi đó là những nỗi lo lắng sợ hãi đó thường vượt quá mức chúng ta cần phải lo toan cho đời mình.
Vậy phải làm sao đây? Chúa Giêsu đã nhiều lần lập đi lập lại trong Phúc Âm rằng chúng ta sẽ chỉ lướt thắng những lo lắng sợ hãi đó khi chúng ta đáp trả tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Mà cũng thật lạ lùng vì điều Chúa nói đó lại trở nên vấn đề khúc mắc cho chúng ta là những người hay đi nhà thờ, vậy mới buồn chứ. Chúng ta đã quá nhiều lần được nghe là hãy tin vào Chúa, tín thác nơi Ngài, đến độ nhiều khi chúng ta không còn muốn nghe nữa; và những lời đó đã trở nên như một sáo ngữ nhàm chán. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Giêsu dạy chúng ta không đơn giản chỉ là lời hay ý đẹp, cũng không phải là câu ngớ ngẩn hay chỉ là cách biểu lộ bề ngoài của đạo giáo, tuy nhiên nó chính là cách sống đích thực của người theo Chúa. Đó chính là cách sống mà các bạn phải dâng phó hoàn toàn những lo lắng sợ hãi của mình cho tình yêu Thiên Chúa Hiện Hữu trong từng giây phút. Xin nhớ cho rằng tôi nói "dâng phó" chứ không phải "vứt bỏ", vì là thụ tạo hay chết nên chúng ta không thể dứt bỏ hết thảy những lo lắng sợ hãi đâu. Thế nhưng khi chúng ta tin vào tình thương và nâng đỡ của Thiên Chúa thì nó sẽ giúp chúng ta thoát được sự tiêu diệt của nỗi lo lắng, chính là cái cướp đi sự sống an bình của ta; đồng thời cũng giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn.
36. Bước nhảy của niềm tin
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhạc sĩ Xuân Hồng viết ca khúc “Đôi mắt” với ca từ dễ thương:
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời.
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen.
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn.
Là bài thơ hay nhất.
Là lời ca không dứt.
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngỏ tâm hồn, là tuyệt tác thiên nhiên.
Thi sĩ Lưu trọng Lư viết hai câu thơ thật đẹp về tình yêu trong đôi mắt:
“Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em”.
Trong bài viết “Đôi mắt”, Linh mục Nguyễn Tầm Thường suy niệm về đôi mắt mù lòa của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đến chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới, đó là mắt đức tin. Xin được mượn tư tưởng của ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: “Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh”.
Đôi mắt là cửa sổ và là cửa chính của tâm hồn cũng như của thân xác. Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu, sách Sáng Thế đã nói về mắt: “Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng.” (St 3,4 -7). (x.Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 -71)
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra.
- Evà nhìn trái táo và thấy sướng mắt.
- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. “Mà nhìn thì đã sướng mắt”, cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngủi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. Ađam, Evà đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù lòa chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến trần gian chữa lành sự mù lòa ấy, hàn gắn lại vết thương thuở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù lòa của Nguyên Tổ, ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. “Mù từ thưở mới sinh” là mù từ xa xưa, thuở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt đức tin.
Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin. Niềm tin vào Chúa Giêsu của người mù tăng dần theo với thử thách.
Thánh Gioan kể có bốn cuộc thử thách.
- Thử thách lần thứ nhất (Ga 9,8-12), những người láng giềng và những người trước kia thường thấy anh ta ăn xin chất vấn: “hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?”. Người mù xác nhận: “Tôi đi, tôi rửa, tôi nhìn thấy”. Anh không biết Chúa là ai: “Ông ấy ở đâu, tôi không biết”. Anh coi Chúa Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi".
- Thử thách lần thứ hai (Ga 9,12-17), những chất vấn của giới Pharisiêu và lời nhạo báng: “một ngưởi tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?”. Trước sức ép của họ, anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng "Ngài thật là vị tiên tri".
- Thử thách lần thứ ba (Ga 9,18-23), họ gọi cha mẹ của anh ta đến để làm chứng, nhưng hai người sợ hãi nên nói: “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. Anh mù trực tiếp trả lời về nguồn ánh sáng đã đón nhận.
- Thử thách lần thứ tư (Ga 9,24-34), người Pharisiêu dùng đến Lề Luật. Người mù không cần biết đến Luật. Anh ta dựa vào cảm nghiệm cá nhân đã gặp Đức Kitô. Cuộc tra vấn của giới chức tôn giáo khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến".
Khi bị trục xuất ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu gặp lại anh và mạc khải cho biết Ngài là Con Thiên Chúa, anh liền tuyên xưng đức tin: “Lạy Thầy, tôi tin” (Ga 9,37). Niềm tin của người mù tăng triển qua ba giai đoạn. Từ không biết ông ấy ở đâu cho đến ông ấy là một tiên tri, rồi sấp mình thờ lạy Ngài. Sự tiến triển niềm tin qua những lần thử thách. Càng gặp thử thách niềm tin càng sáng lên. Thử thách càng cao đức tin càng mạnh. Người mù trung thành với cảm nghiệm của mình. Đức tin lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào Lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Silôác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisiêu đang tra vấn, khủng bố anh: “Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Silôác. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy”. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: ”Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: “Anh có tin Con Người không?”, anh đáp lại ngay: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?”. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh liền đáp: “Lạy Thầy, tôi tin”. Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa là tâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thuở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù lòa của nhân loại, với một điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù lòa tâm hồn. Người mở mắt cho Dakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9,1 -10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7,36 -50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23,32 - 43)...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xóa tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
“Thầy là Ánh Sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có Ánh Sáng dẫn đến cõi trường sinh” (Ga 8,12). Hãy luôn cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường phải đi và những việc phải làm để đạt đến hạnh phúc thật.
Đôi mắt là tuyệt tác của thiên nhiên, là cửa ngỏ tâm hồn. Đôi mắt có thị giác và thị lực. Thị giác là khả năng của đôi mắt có thể thấy. Thị lực là mức độ thấy của khả năng ấy. Thấy nhiều hay ít. Thấy xa hay gần. Thấy rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy được rất gần. Người viễn thị thì thấy xa hơn. Cần có thị giác tốt và thị lực tốt, đôi mắt mới sáng ngời. Thị lực còn là của trí óc và của con tim. Có người chỉ thấy được cái thế giới chật hẹp và ích kỷ của bản thân mình; có người thấy được hoàn cảnh, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Thị lực còn là niềm tin. Người mù tuy mù nhưng lại có thị lực tốt. Anh đã thấy được Đức Giêsu là một ngôn sứ. Anh thấy nhiều cái mà những người sáng mắt không thấy. Anh thấy quyền năng và tình thương của Chúa có thể cho anh được sáng mắt. Anh thấy bằng lòng tin. Chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã thương cứu chữa cho anh sáng mắt. Anh mù, mắt không thấy Chúa, nhưng lòng đã thấy Chúa rồi vì anh có lòng tin. Thị lực lòng tin cho anh tiếp nhận ánh sáng tình yêu đầy tràn hy vọng.
Lạy Chúa, xin cho con có đôi mắt với thị giác và thị lực tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi anh em với những cái hay cái tốt.
Để con nhận ra Chúa nơi các kỳ công kiệt tác thiên nhiên.
Để con biết nhận ra Chúa nơi các vị Đại Diện Chúa.
Và lạy Chúa, xin cho con được thấy bản thân với những yếu đuối và khuyết điểm, biết nhận ra thân phận thụ tạo lệ thuộc Đấng Tạo Hóa; từ đó con biết được ơn phúc là do lòng Chúa yêu thương ban tặng, để con luôn biết dâng lời cảm tạ, tôn thờ, phụng sự và kính mến Chúa với cả tâm tình con thảo. Amen.
37. Đôi mắt mới – Lm. Nguyễn Hữu An
Trong bài viết "Đôi mắt", Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã suy niệm về đôi mắt mù loà của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Kitô đã chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức tin. Xin được mượn tư tưởng của Ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh.
"Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em..." (Lưu Trọng Lư)
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: "Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng" (St 3, 4 - 7). (? Trích Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 - 71)
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra
- E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt
- Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. (sđd. tr 72). "Mà nhìn thì đã sướng mắt", cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam - E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Kitô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giêsu chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. "Mù từ thưở mới sinh" là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Kitô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin. Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pharisêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giêsu lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giêsu và được hỏi: "Anh có tin Con Người không?" thì anh đáp lại ngay: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh liền đáp: "Lạy Thầy, tôi tin." Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giêsu trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa làtâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Đức Giêsu là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giêsu cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Người mở mắt cho Da-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi (Lc 9, 1 - 10). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm (Lc 7, 36 - 50). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương (Lc 23, 32 - 43)...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Kitô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Kitô.
38. Mừng vui lên hỡi khắp miền dương thế
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì ta đã làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng đường tới.
“Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh vịnh gia: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…... “. Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của Mùa Chay Thánh. Làm sao không thể không vui không mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ, “ Cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi mừng… được Thành Đô cho hưởng trọn nguồn an ủi, được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang…đón nhận dồi dào ơn an ủi …” (Is 66,10-11).
Vậy đâu là lý do sâu xa để vui mừng?
Lý do ấy là: “ Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa… “ (Kinh Tiền Tụng Chúa nhật IV Mùa Chay năm A). Đoạn Tin Mừng thánh Gioan ghi lại hôm nay cho chúng ta câu trả lời cụ thể khi Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ khi mới sinh. Câu Chúa Giêsu hỏi người mù là đỉnh cao của trình thuật: “Ngươi có tin nơi Con Thiên Chúa không?” (Ga 9,35) Như một “người” giữa bao nhiêu người khác, anh người mù này mới đầu gặp Chúa Giêsu, khác mọi người là anh coi Chúa Giêsu là “một ngôn sứ”, sau cùng đôi mắt anh mở ra, từ ánh sáng của đôi mắt đến ánh sáng của đức tin, anh tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa” và trả lời câu hỏi Ngài đặt ra cho anh: “Lạy Thầy, tôi tin!” (Ga 9,38). Như thế là đã rõ, Chúa Giêsu chữa người mù khỏi mù, anh thấy ánh sáng và anh tin vào Chúa Giêsu. Cũng như cả và nhân loại sau khi nguyên tổ phạm tội phải bước đi trong u tối, nay Chúa Giêsu đến, tự giới thiệu mình là Ánh Sáng thế gian dẫn đưa nhân loại khỏi bóng tối của tội lỗi, phục hồi phẩm giá địa vị làm con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là sự sáng thế gian
Ngài từ trời xuống thế, để cho phàm nhân được thấy Ngài và qua Ngài họ thấy Chúa Cha; chỉ có người mù mới không thể nhìn thấy Chúa. Ngài đã mở mắt người mù, để người mù thấy được Chúa Cha ở nơi Ngài. Ngài giới thiệu: “ Ta là sự sáng thế gian” (Ga 9, 5) ; “ Là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9) Ngài chữa lành sự mù quáng của con mắt đức tin nơi những người không thấy để mà tin.
Ađam được Thiên Chúa sáng tạo với con mắt tinh tường, nhưng sau khi giao tiếp với con rắn xong, ông trở nên mù quáng (x. St 3, 1-7). Anh mù bẩm sinh vẫn ngồi… mà không xin bất kỳ một loại thuốc mỡ nào để chữa mắt mình... anh chỉ hết mù khi anh tin (x. Ga 9,1-41). Chúa Giêsu, Vị thầy thuốc cao tay đã nhìn thấy những đau khổ của người mù ngồi đó và xin làm phúc, bằng quyền năng Thiên Chúa, Ngài đã làm phép lạ cho người mù được thấy.
Ađam được Thiên Chúa dựng tạo dựng bằng đất sét, bùn ướt: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người” (St 2, 7), nay chất liệu ấy được Chúa Giêsu dùng để chữa lành đôi mắt. Ngài đã phục hồi thị giác cho người mù từ khi mới sinh bằng nước bọt nhổ ra trộn vào đất, anh người mù nói: “ Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt “ (Ga 9,1-11). Ngài là quả là Ánh Sáng chiếu sáng thế gian và cho con người được nhìn thấy ánh sáng.
Chúng ta là con cái ánh sáng
Từ ánh sáng đến đức tin hay từ đức tin đến ánh sáng tỏa sáng trên khuôn mặt của người mù giúp chúng ta hiểu rằng, ngày chúng ta chịu phép rửa tội, ánh sáng của Chúa Kitô cũng chiếu tỏa trên chúng ta, chữa chúng ta khỏi sự mù quáng tội lỗi, làm cho chúng ta trở thành con cái ánh sáng. Đó là điều Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “ Bây giờ anh em là ánh sáng trong Chúa” (Eph 5, 8). Thế nên, nhờ phép rửa trong Chúa Kitô, trước kia chúng ta là những người ở trong bóng tối, nay trở thành ánh sáng. Kể từ ngày hôm đó chúng ta là con người mới hoàn toàn.
Nhờ phép rửa tội, người kitô hữu trở thành “con của sự sáng“ (Eph 5, 8) hay nói cách khác, trở thành “con cái Thiên Chúa“ (1 Ga 3,1). Người con đích thực của Thiên Chúa là Chúa Kitô đã chiếu tỏa rạng ngời ánh sáng Chúa Cha, để bất cứ ai được tái sinh trong Ngài, có thể thông truyền ánh sáng đức tin ấy cho người khác, tức là sinh “ hoa trái của sự sáng“ (Eph 5, 9). Vì vậy, trong Mùa Chay này, chúng ta hãy để ánh sáng ấy chiếu tỏa trên chúng ta để qua chúng ta mọi người có thể tìm thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng đích thực.
Chúa Giêsu là ‘Ánh sáng thế gian’ (Ga 8,12). Trong nghi thức Rửa tội, việc trao nến sáng và thắp sáng từ cây nến Phục Sinh tượng trưng Chúa Kitô Phục sinh, là dấu hiệu giúp chúng ta hiểu rõ những gì xảy ra trong Bí tích này. Khi chúng ta để cho mình được mầu nhiệm Chúa Kitô soi sáng, chúng ta sẽ cảm nghiệm niềm vui được giải thoát khỏi tất cả những gì đe dọa sự viên mãn của cuộc sống ấy.
Lễ Phục Sinh đã gần kề, chúng ta hãy vui lên và khơi dậy nơi mình hồng ân đã lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội, ngọn lửa ấy nhiều khi có nguy cơ bị dập tắt. Chúng ta hãy nuôi dưỡng ngọn lửa đó bằng kinh nguyện và lòng bác ái đối với tha nhân.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo Hội, Mẹ của mỗi người chúng ta dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa Kitô, là Ánh Sáng thật và là Đấng Cứu Thế. Amen.
39. Chúa Giêsu là ánh sáng
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.
1. Đời người có hai nỗi khổ
Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.
Ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.
Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.
2. Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh
Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1-41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giêsu lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " (Ga 1, 32-33).
Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không?" (Ga 1,35). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 1, 38). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giêsu như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.
3. Diễm phúc và bổn phận của ta
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " (Tv 23, 4-5)
Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đavít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.
Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l? histoire vraie" (Cent. 1994, trang 364)để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".
40. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Giáo Hội hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.
Nhờ đôi mắt, người ta sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Nhưng nếu họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Vì thế, ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Nếu thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu nhưng anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 1, 32 - 33). Bản thân anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 1, 38). Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Không những thế, Chúa Giêsu còn dẫn đưa nhân loại mới về Nước Trời. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa
Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin. Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu. Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Silôê rửa theo lời dạy của Chúa Giêsu vì anh tin. Anh không nghi ngờ nhưng anh đã đi vì anh tin lời Chúa Giêsu. Tin là một hành trình ngày càng gian khổ.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Giêsu nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn những người biệt phái thì họ không tin Chúa, mắt họ thấy Chúa nhưng lòng họ không tin nên họ không được biến đổi.
Nhìn lại chúng ta, chúng ta có tin Chúa không, chúng ta đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của mình? Chúng ta có can đảm phá tan những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi không? Mùa Chay chính là cơ hội cho chúng ta tăng thêm ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Đó là dầu của việc ăn chay, cầu nguyện, chia sẻ cho người túng thiếu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam