Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 89
Tổng truy cập: 1444944
THẦY LÀ SỰ SỐNG
Thầy là sự sống – Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
"Hỡi Lazarô, hãy bước ra!"
Mạc Khải "Thày là Sự Sống" cho chị em Matta và Maria.
Nếu hai tuần III và IV của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phúc Âm Thánh Gioan được Giáo Hội có ý chọn đọc về trình thuật Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là "Đường Lối" cho phụ nữ Samaritanô ngoại lai, và Người là "Sự Thật" cho người mù từ lúc mới sinh, thì tuần V này đến trình thuật Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là "Sự Sống" qua việc Người hồi sinh Lazarô từ trong cõi chết. Bởi vì, trong trình thuật hồi sinh Lazarô này, trước khi ra tay cải tử hoàn sinh, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với Matta: "Thày là sự sống lại và là sự sống: ai tin vào Thày thì dù có chết cũng được sống và ai đang sống mà tin vào Thày sẽ không bao giờ phải chết" (Jn 11:25-26).
Phải, chính lời tuyên bố này của Chúa Giêsu là tột đỉnh Mạc Khải Chúa Kitô là "Sự Sống" trong trình thuật hồi sinh Lazarô của bài Phúc Âm hôm nay, cũng như lời Người tuyên bố "Ta là Đấng đang nói với chị/anh" (Jn 4:26; 9:37) trong trình thuật Người tỏ mình ra cho chị phụ nữ Samaritanô của Phúc Âm hai tuần trước, hay cho người mù từ lúc mới sinh của Phúc Âm tuần vừa rồi. Tuy nhiên, so sánh với hai lần tỏ mình trước, một cho người phụ nữ Samaritanô và một cho người mù từ lúc mới sinh, lần tỏ mình của Chúa Giêsu lần này hơi khác. Ở chỗ, hai lần trước Người từ từ dẫn con người đến việc nhận biết Người, tức Người tỏ mình ra sau, còn lần này Người tỏ mình ra trước khi hành động, tức là sau khi tự xưng "Thày là sự sống lại và là sự sống", Người mới ra tay chứng tỏ mình thực sự là như thế. Tại sao? Nếu không phải tại vì đối tượng của lần này khác với hai lần trước. Đối tượng của lần tỏ mình ra này không phải là một phụ nữ ngoại lai ở miền đất Samaritanô xa lạ, hay là một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền chính giáo Giuđêa, mà là một gia đình hết sức nghĩa thiết với Người (xem Jn 11:5) ở ngay Bêthania gần thành thánh Giêrusalem (xem Jn 11:18), địa điểm Vượt Qua của Người.
Tuy nhiên, không phải vì thân thiết với Người mà Chúa Giêsu đã châm chước yếu tố nhân sinh cho chị em này, ngay trước giây phút tuyệt đỉnh của Mạc Khải, trước giây phút Chúa Kitô tỏ mình ra "Thày là sự sống lại và là sự sống". Như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô và người mù từ lúc mới sinh, cả hai đã phải tỏ ra lòng thành khao khát và tìm kiếm chân lý của mình mới được Người tỏ mình ra cho biết thế nào, bà chị cả Matta trong gia đình ba chị em của người chết Lazarô cũng thế, cũng đã phải bày tỏ lòng mình đối với Người như sau: "Lạy Thày, nếu Thày có mặt ở đây em con đâu có chết. Dù thế, ngay lúc này đây, con tin chắc Thiên Chúa sẽ ban cho Thày những gì Thày xin". Nếu người phụ nữ Samaritanô ngoại lai, sau giây phút tuyệt đỉnh của Mạc Khải, đã chạy về loan báo cho dân làng của mình hay biết thế nào, và nếu người mù từ lúc mới sinh, sau giây phút nhận ra Đấng đã phục quang cho mình, đã tuyên xưng đức tin và phục xuống thờ lạy Người thế nào, Matta cũng thế, sau khi nghe Thày tự xưng "Thày là sự sống lại và là sự sống", đã tuyên xưng đức tin: "Vâng, Lạy Thày, con tin. Con đã tin rằng Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đến trong thế gian", rồi sau đó về nhà báo tin cho Maria em mình, người cũng bày tỏ lòng mình với Chúa Giêsu y như chị của mình, khi cô vừa gặp Người và qùi sụp xuống dưới chân Người mà thổn thức: "Lạy Thày, nếu Thày có mặt ở đây em con đâu có chết". Và chỉ sau lời thổn thức này của Maria, nhất là, như Phúc Âm cho biết, "khi thấy cô khóc, và những người Do Thái theo cô cũng khóc, tâm hồn Người cảm thấy bồi hồi xúc động. Người hỏi: "Các người chôn táng anh ta ở đâu?". Họ đáp "Thưa Thày, xin hãy đến mà xem". Chúa Giêsu bắt đầu khóc".
Tại sao Chúa Giêsu lại khóc? Phải chăng vì Người không cầm được lòng khi thấy Maria khóc? Nhưng Maria sở dĩ khóc là vì Lazarô thân yêu của chị em cô đã chết, trong khi đó, Chúa Giêsu biết chắc chắn rằng Người có thể làm Lazarô cải tử hoàn sinh cho chị em cô! Vậy thì phải chăng động lực thúc đẩy Người khóc, cử chỉ hết sức hiếm hoi và đặc biệt được Phúc Âm lần đầu tiên ghi nhận, là vì, ngay lúc bấy giờ, Người nghĩ đến các linh hồn bất tử vô cùng cao quí nói chung, nhất là linh hồn của thành phần bạn thân của Người nói riêng, sẽ đời đời bị chôn vùi trong nấm mồ sự chết, không bao giờ bước ra khỏi ngôi mồ vĩnh tử này nữa, không còn nghe thấy tiếng gọi của Người nữa, khi Người lên tiếng gọi họ như đã gọi Lazarô "hãy bước ra khỏi mồ". Đúng thế, về phương diện tâm linh, con người tội lỗi trên đời này là một con người sống trong sự chết, một sự chết, đối với Chúa, chẳng khác gì như là một giấc ngủ (xem Mt 9:24), Người cần phải gọi họ dạy. Vì là một giấc ngủ, dù có ngủ say, ngủ mê ngủ mệt đến mấy, đến độ "xông mùi" đi nữa, như trường hợp của Lazarô trong bài Phúc Âm hôm nay, con người tội lỗi vẫn còn khả năng nghe được tiếng "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24): "Kẻ chết sẽ nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và những ai nghe theo tiếng ấy sẽ được sống" (Jn 5:25).
Mạc Khải "Thày là Sự Sống" theo ý nghĩa của Mùa Chay.
Mùa Chay là Thời Đoạn Phụng Vụ hướng về và sửa soạn cho việc cử hành và cảm nghiệm Biến Cố Vượt Qua., một biến cố không phải Chúa Giêsu chỉ chịu khổ nạn và tử giá, mà còn sống lại hiển vinh nữa. Bởi thế mới gọi là Vượt Qua: "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Jn 5:24). Người đã ví cuộc Vượt Qua của Người chẳng khác gì như thân phận của một hạt lúa miến gieo xuống đất cần phải vượt qua mục nát mới có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái (xem Jn 12:24). Phần Người, Người "đến để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37), ở chỗ "không làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai" (Jn 6:38), tới độ "Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (Phil 2:8). Chính vì thế, "Thiên Chúa đã tôn vinh Người" (Phil 2:9; xem Jn 17:1,5), ở chỗ, đã chứng thực Người là "Con yêu dấu" (Mt 3:17, 17:5), là Đấng Thiên Sai của Ngài, bằng cách "Thiên Chúa đã làm cho Người từ trong kẻ chết sống lại" (Acts 10:40, 13:30).
Cuộc Vượt Qua, bao gồm việc Chúa Giêsu "tự hiến" (Jn 17:19) để làm chứng Người được Thiên Chúa sai, và việc Thiên Chúa làm cho Người từ trong kẻ chết sống lại cũng để chứng thực Người quả là Đấng Thiên Sai của Ngài, cần phải thực hiện để làm gì, nếu không phải để cho chung con người (đặc biệt là dân Do Thái) và riêng thành phần chứng nhân tiên khởi "tin mà được sự sống đời đời" (Jn 3:16). Nếu "Tôi đến cho chiên được sự sống và được sự sống viên trọn" (Jn 10:10), bằng cách "hiến mạng sống mình vì chiên" (Jn 10:11), thì Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô chính là để ban sự sống trường sinh một cách phổ quát cho chung loài người, và một cách bí tích cũng như thần bí cho riêng những ai tin vào Người vậy. Như thế, việc Chúa Giêsu làm cho Lazarô cải tử hoàn sinh vào thời điểm gần đến ngày giờ Vượt Qua của Người chính là dạo khúc của Thực Tại Mạc Khải "Thày là sự sống lại và là sự sống" vậy.
Tại sao Chúa Giêsu, trong trường hợp Người làm cho Lazarô hồi sinh bước ra khỏi mồ, không xưng mình "Ta là sự sống (trước) và là sự sống lại (sau)", mà lại xưng "Ta là sự sống lại (trước) và là sự sống (sau)"? Theo tôi, Chúa Giêsu phải "là sự sống lại (trước)", bởi vì, Người sẽ sống lại từ trong kẻ chết, một sự sống lại về phần xác được Người tỏ cho thấy trước nơi việc Người làm cho Lazarô bạn thân của Người sống lại về phần xác. Và Chúa Giêsu phải "là sự sống (sau)", bởi vì, nhờ việc Người sống lại về phần xác của Người như thế, Người mới làm cho nhiều Người tin vào Người, nghĩa là làm cho họ được sự sống đời đời, như qua việc Người đã làm cho Lazarô sống lại về phần xác, nên, theo Phúc Âm hôm nay cho biết, Người đã thực sự làm cho nhiều người Do thái có mặt bấy giờ được sự sống. Ở chỗ, nếu "sự sống đời đời là nhận biết..." (Jn 17:3), thì "nhiều người Do Thái đến thăm Maria và thấy những gì Chúa Giêsu làm thì tin vào Người" (Jn 11:45) không phải là họ được "sự sống đời đời" hay sao?
Đến đây chúng ta cũng hiểu được lý do tại sao trong Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu tự xưng "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6). Bởi vì, theo tôi, Chúa Giêsu "là đường" qua những gì Người nói và làm nơi nhân tính của một Con Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người, nhất là trong thời gian xuất thân loan báo và thiết lập Nước Trời; Chúa Giêsu "là sự thật" nơi chính chứng từ Người thực hiện, nhất là nơi Cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, để chứng thực Người quả là Đấng Thiên Sai; Chúa Giêsu "là sự sống" nơi quyền linh trọn vẹn (xem Mt 28:18) Người tỏ ra qua cuộc Phục Sinh của Người trong tư thế là Con Thiên Chúa, Đấng thông ban Thánh Linh cho thành phần chứng nhân tiên khởi là các vị tông đồ (xem Jn 20:22). Thật ra, mỗi một việc Chúa Giêsu làm đều là Mạc Khải cho thấy Người "là đường, là sự thật và là sự sống". Chẳng hạn trong Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Chúa Giêsu "là đường" nơi chính việc "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" (Jn 1:14), "là sự thật" ở chỗ "ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi cho tất cả mọi người" (Jn 1:9), và "là sự sống" ở chỗ "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Jn 1:12). Hay trong việc Người ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi, Chúa Giêsu "là đường" ở chỗ "ông bà tìm tôi làm chi?", "là sự thật" ở chỗ "ông bà không biết Tôi phải ở trong nhà của Cha Tôi hay sao?", và "là sự sống" ở chỗ "Người theo các vị về Nazarét và tuân phục các vị. Còn mẹ Người thì ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng" (Lk 2:49-51).
Vấn đề thực hành sống đạo: Hy sinh, khổ chế, bỏ mình trong Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng phát xuất từ đức tin chân thực, và chỉ có giá trị khi chúng trổ sinh hoa trái sự sống yêu thương trọn lành. Bởi vì "đức tin thể hiện nơi đức ái" (Gal 5:6). Mà đức tin là gì, nếu không phải, theo tu đức, là việc linh hồn đáp ứng tác động thần linh, là việc linh hồn tỏ ra nhận biết Thiên Chúa, là cảm nghiệm thần linh của linh hồn. Một cảm nghiệm thần linh càng chân thực càng phản ảnh thần linh, càng trở thành chứng từ thần linh sống động, càng có tác dụng thần linh mãnh liệt, càng thu hút tâm linh của con người muốn tìm kiếm chân lý và càng làm cho thế gian nhận biết để được sự sống đời đời (xem 1Jn 1:3).
63. Suy nghĩ về câu chuyện kẻ chết sống lại
(Suy niệm của Phạm Yên Thịnh)
Câu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại được đề cập trong ngày hôm nay là một đề tài thú vị, nhưng nghe qua thật là nghịch lý với những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày. Quả thật Đức Giêsu đã chữa lành, đã làm cho ông Lazarô chết trong mồ 4 ngày sống lại.
Đoạn Tin mừng này có thể nói là để lại cho chúng ta nhiều cảm giác phác tạp khác nhau, phải chăng đó cũng là cảm giác của Mátta khi Chúa Giêsu đề cập đến sự sống lại của Lazarô em của chị. Chúng ta hãy cũng xem đoạn Tin mừng hội thoại này giữa Chúa Giêsu và chị Mátta.
Trước tiên Chúa Giêsu đến với chị em nhà Mátta, thì chị ra đón Người. Chúa Giêsu không nói một lời nào để chia buồn hay an ủi chị về cái chết của một người em thương yêu. Chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ việc Ngài sắp làm còn quan trọng hơn, có nghĩa là hơn về cái chết, hay nỗi buồn của họ.
Mátta: "Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con đã không chết". Qua câu nói này chúng ta thấy rằng Mátta biết rõ Chúa Giêsu rất có khả năng chữa lành tật nguyền cho người ta. Nhưng sự thật em chị đã chết rồi, khiến chị rất đau buồn và tiếc nuối (khi em chị bệnh nặng chị đã sai người đi báo cho Chúa Giêsu nhưng Chúa đã lưu lại chỗ ở 2 ngày, để cho anh Lazarô phải chết).
Tuy nhiên, sau đó chị Mátta đã thêm vào: "Nhưng bây giờ con biết, nếu thầy xin gì cùng Thiên Chúa thì Ngài đều ban cho". Một câu nói như hẻ mở một niềm hy vọng, hình như chị dám muốn thầy mình làm một điều gì cao cả hơn bình thường là chữa bệnh. Bởi thế Chúa Giêsu đã trả lời chị: "Em của chị sẽ sống lại".
Tưởng chừng như Mátta hiểu được điều Chúa Giêsu nói, tưởng chừng như chị có đủ niềm tin để xin Chúa cho em chị sống lại, tưởng chừng như chị sẽ reo lên vì vui mừng. Nhưng sự thật không phải thế, chị lại chẳng dám tin, chị lại hiểu như những gì chị đã nghe thầy mình giảng dạy, nên thưa: " Con biết em con sẽ sống lại ngày sau hết, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết."
Một lời tuyên xưng rất căn bản và rất quan trọng, sau này Giáo hội cũng giác định trong Kinh Tin Kính, nhưng trong trường hợp này lại có tác động ngược lại. Và bởi thế Chúa Giêsu mới lý giải cho chị về chính Ngài (đã đề cập ở Gioan chương 4):
"Chính Thầy là sự sống lại và lạ sự sống;
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết,
cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy
sẽ không phải chết.
Chị có tin không?"
Sự sống và cái chết mà của Chúa Giêsu đề ở đây là sự sống mai hậu, sự sống mà khi đến ngày tận thế, khi mọi thứ bị hủy giệt thì Thiên Chúa sẽ cho những ai tin vào Người sẽ được cứu rỗi. Kẻ tin và người không tin sẽ có hậu quả như ngày phán xét chung bị phân chia ra hai bên như chiên và dê. Có thể chị Mátta chỉ có hiểu được như thế nên mới đáp lại:
"Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (câu 27)
Lại một lời xác nhận hay một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nữa được phát ra từ miệng cô Mátta, nhưng về vấn đề Đức Kitô sẽ cho em cô sống lại ngay lúc đó thì quả là một điều mờ mịt đối với cô. Một thông điệp mà Đức Kitô bày tỏ trong câu 25 và 26 là Người sẽ cứu mọi người khỏi sự chết do tội Adam đã gây ra chỉ cần tin vào Người, mà điều này vẫn còn tiềm ẩn đối với Mátta. Bởi thế nói xong lời trên cô "lặn " đi về nhà, "nhường" chỗ cho em gái mình ra tiếp chuyện Thầy Giêsu.
Có lẽ Mátta không nghĩ rằng Thầy Giêsu sẽ cho em mình sống lại và chính mắt cô sẽ được trông thấy, thể hiện ở câu 39, khi Chúa Giêsu bảo người ta mở ngôi mộ ra thì cô đã can ngăn: "Nặng mùi rồi, vì đã được bốn ngày". Bởi thế Đức Giêu mới nhắc lại cho cô, đây như là lời tái mặc khải nhưng hình như có chút trách móc:
"Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quan của Thiên Chúa sao?"(câu 40)
Rồi một phép lạ đã xẩy ra, Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa và sau đó kêu lớn tiếng: "Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!" Kẻ chết liền đi ra khỏi mồ, ai nấy đều ngạc nhiên và biết bao nhiêu kẻ tin vào Người.
Mátta, Maria vui sướng dường bao khi đứa em của họ đã chết bốn ngày nay đã sống lại. Ôi, ai dám tin rằng đây là sự thật. Có thể hai cô Mátta và Maria hay cả những người xung quanh đã nghĩ rằng mình đang trong cơn mơ. Vâng, một sự lạ, một dấu chỉ Đức Kitô đã làm để vinh danh Thiên Chúa, một sự lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để thiên hạ thấy được thân phận và trách vụ của Đức Kitô. Một sự lạ mà Chúa Giêsu muốn mọi người biết trước về tương lai của Ngài, về cái chết mà Ngài sẽ đi qua, về sự phục sinh mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ngài. Một dấu lạ mà đồng thời Chúa muốn cho ta thấy, ai tin vào Ngài thì ngày sau hết cũng sẽ được sống lại như vậy: "Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống." (câu 25)
Nhưng đối với chúng ta, đối với nhiều người Kitô hữu có lúc đây là một điều thần kỳ, nhiều lúc chẳng dám tin và hơn thế nữa còn nhiều câu hỏi chất vần làm sao điều đó có thể xảy ra. Vì Tín Điều Kẻ Chết Sống Lại, trong đó có chúng ta làm sao để hiểu được, đôi khi chúng ta còn cầu xin Chúa cho mình một dấu chỉ hay một cảm nghiệm để cho niềm tin của chúng ta được rõ ràng hơn, được một cái gì đó gọi là "có thể nắm được", lòng trí của chúng ta có thể lý giải được, diễn tả được.
Đây là vấn đề thách đố cho không ít người, khi thuyết sống lại của Chúa Giêsu nghịch với khoa học. Nhưng ngược lại, cũng chúng ta nhiều lúc cũng cầu xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta cũng được sống lại mai sau. Chẳng có gì xấu hay nguy cơ gì khi chúng ta dám cầu xin Chúa điều đó, dấu lạ đó. Nhưng nên nhớ rằng trước khi làm phép lạ cho anh Lazarô sống lại thì Chúa hỏi cô Mátta là: "Con có TIN không?" (câu 26), chứ Ngài không hỏi là con có HIỂU không? Đức tin nếu muốn dùng ngôn từ để lý giải cho minh bạch thì chắc là chẳng được gọi là tin nữa. Dĩ nhiên để hiểu được điều chúng ta tin thì nhìn vào cuộc sống của chúng ta xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta, xem Đức Kitô đã dạy gì cho chúng ta, và xem Thánh Thần đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta thế nào, như thế có thể bảo đảm được phần nào.
Đối với kẻ chết sống lại, Giáo hội cũng đã khẳng định như thế trong Kinh Tin Kính, an tâm mà tin tưởng, còn bao giờ chúng ta nắm bắt được thì chờ một ngày nào đó mà Thiên Chúa cho phép chúng ta, lúc đó mọi người sẽ vui mừng mà thốt lên: "Ôi! Tuyệt vời quá!"
64. Đức Giêsu là nguồn sống - Lm Augustine, SJ.
Một lần kia đến thăm một trại nuôi dưỡng người già tàn tật và những người nghèo vô gia cư ở T. B, tôi có dịp hớt tóc cho một trại viên gần 40 tuổi. Khi biết tôi là sinh viên thường đi ngang qua khu vực gia đình anh hiện đang sống, anh liền kể cho tôi nghe về hoàn cảnh tuyệt vọng đáng thương của anh.
Lạy Chúa, tâm hồn này bị nhận xuống bùn đen,
theo Lời Ngài, xin cho con được sống (Tv 118,25)
Được sinh ra trong một gia đình gia giáo theo đạo Thiên Chúa, anh là con đầu lòng nên từ nhỏ đã được bố rất nghiêm khắc nhưng hết mực yêu thương cho đi học ở chủng viện. Ông hy vọng ngày nào đó, anh sẽ là niềm vinh dự cho gia đình. Nhưng trong lần về nhà nhân kỳ nghỉ hè lớp 10, anh đã theo bạn bè cùng xóm quậy phá. Việc ấy gây tai tiếng đến nỗi bố anh vì thất vọng và vì danh dự đối với bà con lối xóm, nên đã chửi mắng, đánh đập rồi đuổi anh đi. Thế là vì tự ái và thiếu suy nghĩ nên T. đã bỏ nhà ra đi, bất kể tới hậu quả ra sao. Từ đó đến nay đã hơn 20 năm, T. đã trải qua biết bao thăng trầm. Anh tự mưu sinh với đủ thứ việc, như bốc vác, phụ hồ, làm rẫy, làm ruộng... T. cũng làm quen với nhiều thói xấu trên đời mà một thanh niên không gia đình dễ dàng buông thả.
Hơn 20 năm bỏ nhà ra đi, cũng có những giây phút T. cảm thấy lòng anh trống vắng hướng về mái ấm gia đình và nhớ người bố ngày một già yếu. Đã có những lần anh quyết tâm dẹp bỏ tự ái để trở về, nhưng lần nào cũng gặp thất bại vì anh không được bố chấp nhận. Cụ thể lần chót cách đây chừng 6 năm, anh đã xin bố tha thứ và cho phép ở lại gia đình nhưng anh hoàn toàn tuyệt vọng vì ao ước của anh không được đáp ứng, cho nên anh đã thở dài và nói: "Bây giờ chỉ biết chôn cuộc đời trong cái trại phức tạp này!"
Được gợi nhớ về dụ ngôn "Người cha nhân hậu", anh T. đã phản ứng: "Ước gì bố mình cũng được như người cha đó! Nhưng bây giờ thì hết còn hy vọng nữa!".
Tôi lại mò mẫm nói với T. về chữ "Hiếu": Cho dầu bố anh là người thế nào đi nữa thì cũng là người đã sinh thành và dưỡng nuôi anh để anh có ngày nay. Cho nên anh phải kiên trì nhắm tới việc hòa giải với bố và với gia đình thay vì thất vọng trong niềm oán trách gia đình. Xem ra T. được đánh động, cố nén cảm xúc. Với đôi mắt đỏ hoe, anh nói: "Mình nghĩ mình là con trai lớn, mấy đứa em lập gia đình hết rồi, để ông già lớn tuổi mà không ai chăm sóc, mình áy náy lắm chứ. Nhưng ông khó lắm, người Bắc mà!"
Rõ ràng tình cảm T. dành cho gia đình còn đó, không phải không có sức mạnh. Tôi liền đoan chắc với T.: "Cũng như anh, bố anh không thể nào quên anh được vì anh đã từng là người con được ông yêu thương và kỳ vọng. Rồi sẽ có lúc chính ông sẽ hối hận và cần sự có mặt của anh, đó là lúc ông sẽ tha thứ cho anh. T. liền nói: "Mình không cần bố cho phép ở lại nhà, mà chỉ cần ông tha thứ và cho phép đôi ba tháng về thăm ông một lần là mãn nguyện rồi."
Sau vài giây trầm tư, đột nhiên T. ngước nhìn tôi, khiến tôi phải dừng tay kéo. Trong mắt anh, tôi thấy anh đang hy vọng. Và quả thật, anh nói cho tôi nghe về điều đó khi nhờ tôi làm người trung gian, thỉnh thoảng ghé nhà nói chuyện với bố anh, để ông tin rằng hiện nay anh thật sự hối hận về lầm lỗi trước kia, cũng như thực sự anh thương nhớ ông và muốn được thăm nom mà không cần phải ở lại gia đình. Anh còn nói: "Bây giờ không có gì gởi cho ông hết, nhưng bắt đầu từ hôm nay, mình sẽ gom góp quà do các phái đoàn đến viếng thăm trại cho, để làm quà thăm nhờ anh chuyển giùm."
Con kể lể đường đời, Chúa đáp lại (Tv 118,26)
Tôi nhận ra sự sống mới nơi T. Lòng anh tràn đầy hy vọng thay vì thất vọng. Không chỉ một mình anh, cả gia đình đều nghiệm thấy một biến chuyển giây chuyền.
Trước tiên là ba đứa em trai và ba em dâu tới thăm T. ở trại. Anh khoe với tôi: "Mình chỉ biết là rất hạnh phúc vì có lại được tình cảm của gia đình."
Sau đó vài tuần, cũng dịp tới thăm trại, tôi được anh khoe rằng bố anh đã tới thăm anh. Ông cụ khóc quá sức. Cả hai bố con cùng an ủi nhau trong nước mắt, đó là lúc anh nghiệm thấy tình cha con nồng nàn mãnh liệt từng bị tắc nghẽn suốt 20 năm qua.
Nhưng tình cảm mà T. cảm thấy mãnh liệt hơn cả là khi người em trai lên chở anh về thăm gia đình. Cả nhà làm một bữa tiệc nhỏ quây quần bên nhau. Bố và các em đều an ủi và khuyến khích anh cố giắng ở lại trong trại một thời gian. Gia đình sẽ thu xếp, kiếm được việc làm, sẽ đón anh về nhà luôn. Vì dù sao, anh cũng vẫn là con, là người anh cùng chung máu mủ, thì làm sao bỏ nhau được!
Đường chân lý, này con đã chọn (Tv 118,30)
Điều lạ lùng là hôm đó, trước khi từ giã gia đình để trở về trại, chính anh T. đứng ra khuyên bố cùng mẹ kế của anh hiện đang sống ly thân trong cùng một căn nhà mà ngăn đôi, chỉ vì xích mích giữa con chung, con riêng, nên anh xin các ngài nên bỏ qua tất cả để làm hoà, vì tuổi đã già, nên lo phần tinh thần là hơn cả. Anh cho rằng xích mích xảy ra chỉ vì mấy đứa em còn nhỏ, chưa suy nghĩ chín chắn, khiến có lời ra tiếng vào làm mất lòng. Phần anh vẫn coi mẹ kế như mẹ ruột của mình. Anh xin mẹ tha thứ cho anh và cho những đứa em đã gân nên bất hoà trong gia đình nay cần được hàn gắn, đó là ước mong của anh trước khi ra đi. Bố và các em dặn anh: "Cần điều gì cứ nhắn về nhà!" Còn mẹ kế đã cho anh 50,000đ, một chai dầu xanh, và vừa khóc vừa khuyên anh tu tỉnh "nhất là nhớ đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày!"
Câu chuyện vừa kể liên quan tới phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại như thế nào?
Ladarô là em của hai chị em Mácta và Maria. Cả ba được Đức Giêsu thương mến. Gia đình họ ở làng Bêtania, cách Giêrusalem chừng 2 dặm. Khi Ladarô đau nặng, hai chị em nhắn tin cho Đức Giêsu hay, nhưng Đức Giêsu đã không vội vàng lên đường. Khi tới Bêtania, Đức Giêsu được đặt trước cảnh than khóc của hai chị em và những người thân, vì Ladarô đã chết và đã được chôn trong mộ bốn ngày rồi. Đó là lúc Đức Giêsu tuyên bố bản thân Người chính là sự sống lại và là sự sống (c.25). Rồi Đức Giêsu đi đến mộ và gọi Ladarô bước ra khỏi đó, với các băng vải còn cuốn đầy mình.
Câu chuyện được kể cũng nói tới một chàng thanh niên được Đức Giêsu thương mến nhờ chàng sinh viên tới hớt tóc cho anh. Sinh viên này đã vận dụng lời Chúa Giêsu trong dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15,11-32) và chữ hiếu (giới răn thứ tư) để thức tỉnh lương tâm của trại viên T. Lạ lùng thay, trại viên T. nhờ đó được hoà giải với bố và gia đình anh. Cách nào đó, anh như Ladarô đã chết được Chúa cho sống lại.
65. Sự sống lại – Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê
Phụng vụ hôm nay đều nói về sự sống và sự sống lại, nhờ đức tin và nhờ Chúa Thánh Thần, như một chuẩn bị cho mầu nhiệm phục sinh.
Trong thị kiến đầy ấn tượng của ngôn sứ Êdêkien, ông đã nghe tiếng phán với ông: "Ta sẽ đặt Thần Khí ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh."
"Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới", Thánh Phaolô đã nói như thế trong thư gởi tín hữu Rôma.
Và trong bài tin mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói với Matta: "Chính Thầy là sự sống lại," để bảo đảm với bà rằng Lagiarô, em bà, sẽ được cho sống lại.
Sứ Điệp Niềm Tin
Thiên Chúa của do Thái giáo và của Kitô giáo là Thiên Chúa của sự sống. Ngài là Chúa của sự sống. Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết. Như lời thánh Irênê nói, vinh quang của Thiên Chúa chính là con người sống trong sự viên mãn.
Để thực hiện việc này, Chúa dùng mọi phương cách cùng với lòng nhẫn nại và trung tín, như được phản ánh trong suốt dòng lịch sử của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ítraen. Một giai đoạn tương ứng với cuộc lưu đày Babylon, giữa cuộc tàn phá Đền Thờ và Thành Giêrusalem. Bị lưu đày ở Babylon, cùng với dân chúng, niềm hy vọng vào tương lai đi dần đến chỗ héo tàn. Tình trạng đó được biểu tượng bằng hình ảnh những bộ xương khô đét.
Qua ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa mạc khải cho dân biết rằng Ngài sẽ vực họ dậy tự vực thẳm, sẽ ban cho họ sự sống mới và mang họ về miền đất sự sống, Đất Hứa. Biểu tượng trong thị kiến của Êdêkien trở thành sự thật nơi trường hợp của Lagiarô. Ông là một người bằng xương bằng thịt, là em của Matta và Maria quê làng Bêtania. Ông đã ngã bệnh và chết.
Khi Đức Giêsu đến Bêtania, ông đã được chôn trong mồ bốn ngày rồi, một khoảng thời gian đủ theo não trạng người do thái, để chứng tỏ rằng ông đã chết thật. Nhưng Đức Giêsu là sự sống, và đồng thời Ngài thương Lagiarô như bạn thân. Đức Giêsu làm được gì bây giờ? Ngài ra mồ và kêu lớn: "Anh Lagiarô! Hãy ra khỏi mồ!" Và Lagiarô đã sống trở lại. Dĩ nhiên, về phần Lagiarô, ông đã phải nhờ đến một thựctại siêu việt: cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, sẽ được cử hành trong hai tuần nữa, và sự sống mới mà Đức Kitô mang lại cho con người một cách viên mãn, cả về mặt thể lý và tâm linh nhờ tác động của Thánh Thần.
Ý niệm về sự sống lại và sự sống cũng đi theo một tiến trình như trên: trước tiên có biểu tượng của sự giải thoát và sự thông hiệp vào cuộc sống hạnh phúc vui sướng trên trần đời do Chúa ban cho "các tổ phụ". Kế đến là giai đoạn lịch sử đi từ sự chết đến sự sống, nhưng là một cuộc sống có kết thúc bằng nấm mồ. Giai đoạn này mặc lấy một hình thái thực sự viên mãn và mới mẽ nơi Đức Kitô, Đấng đã chết, vượt qua cái chết để sống mãi mãi. Sau cùng, nơi trần đời này, người kitô hữu thông phần vào sự sống của Đức Kitô phục sinh, nhờ ân sủng trong Chúa Thánh
Thần, và cũng sẽ chia sẻ sự vĩnh cữu với Chúa. Đó là lý do tại sao cái chết của người kitô hữu là cuộc biến đổi cách sống, gây ấn tượng cho ta vì ta chưa biết rõ, tuy nhiên ta biết chắc rằng đó là cuộc "sống cho Chúa".
Gợi Ý Mục Vụ
Trong Mùa Chay, những chủ đề chính của phụng vụ thường là sám hối, cầu nguyện, tỉnh thức, ăn chay... Phụng vụ hôm nay có sự thay đổi, để giúp ta suy nghĩ trước về mầu nhiệm Đức Kitô sống lại và được tràn niềm vui. Đây là niềm vui của người biết cởi bỏ con người cũ của mình và mặc lấy con người mới, trong bầu khí yêu thương và sự thật, biết trao ban cho các anh chị em mình.
Chúa Nhật hôm nay như là một cao điểm trong cuộc hành trình, Đức Giêsu dạy ta: Thiên Chúa là sự sống. Thực tại quan trọng nhất của kitô giáo chính là sự sống mà Thiên Chúa thông ban cho ta như Ngài đã ban cho dân Ítraen và cho Lagiarô xưa. Cùng với sự sống ta tràn đầy niềm vui vì có sự sống của Chúa trong ta, tình thương và lòng thương xót của Ngài dành cho ta. Nhờ Thánh Thần ở trong ta mà ta được như thế; là kitô hữu, ta cần ý thức rằng chính Thánh Thần ban sự sống, ngày qua ngày phù trợ và nâng đỡ ta.
Giáo dân trong giáo xứ bạn ý thức ra sao về sự hiện diện hữu hiệu của Thánh Thần trong đời sống của mỗi tín hữu và trong lòng Hội thánh? Có lẽ nơi vài cộng đoàn người ta tìm thấy một đời sống kitô buồn chán và ảo tưởng như trong xứ đạo, trong giáo phận, giữa các bạn trẻ, trong các đoàn thể giáo xứ, hoặc trong các phong trào của giáo hội. Có lúc chỉ thấy những vấn nạn, những căng thẳng, lỗi lầm, những yếu kém con người, những giới hạn, những thiếu sót về mặt đạo lý cũng như luân lý...trong những sinh hoạt xứ đạo.
Hôm nay Đức Kitô nói với tất cả chúng ta: "Thầy là sự sống lại."
Hãy lưu tâm đến sự sống, đến tất cả những gì tốt đẹp, đến những hoa trái mà niềm tin kitô giáo mang lại cho nhiều người.
Hãy lưu tâm đến sự "sống lại", đến sự biến đổi mà Đức Kitô thực hiện nơi một số người bạn quen biết.
Hãy lưu tâm đến tất cả những ai cầu nguyện, những người sống đạo lý kitô một cách lạc quan, những kẻ đang sống với bộ mặt của những người được trở lại cuộc sống, dù còn giữa muôn vàn đau khổ.
Cùng hoạt động và chiến đấu chung với các anh chị em khác trong niềm tin, để sự sống kitô triển nở nơi giáo xứ của bạn và những vùng xung quanh. Biết bao điều thiện hảo có thể được thực hiện, khi ta có cái nhìn trong sáng và dễ mến, một lời khuyến khích, khi ta sống mẫu gương cầu nguyện, lạc quan, và tình yêu đối với Chúa cũng như đối với người thân cận!
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam