Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1443502

THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ

THẬP GIÁ ĐỨC KITÔ(*) Chú giải của Noel Quession

Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”

Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được “mạc khải” ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!

Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?

Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.

Từ lúc đó…

Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc “tuyên xưng đức tin” tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? “Từ lúc đó”, Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.

Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.

Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã “chạy trốn” ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem “thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.

Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!

Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!

Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.

Từ ngữ “Người phải” luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng “mình phải”, chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.

Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem “các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư…”, mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.

Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy…”

Phêrô bị kết án là “kẻ cám dỗ” đối với Đức Giêsu “Xatan hư hại!”

Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: “Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.

“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội… Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.

Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.

Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua “quan điểm con người” để chấp nhận “quan điểm của Thiên Chúa”.

Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ “giản lược” cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.

Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.

Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.

Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…”

Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.

Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: “Tôi muốn sống đời sống của tôi! “.

Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: “phải từ bỏ chính mình”. Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.

Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ “phải nộp thân mình và đổ máu mình”. Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?

Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải “mất” để “được”.

Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.

Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: “Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa”.

Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.

Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Con đường của Con Người…

Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ “trong miền Xêrarê Philip” trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: “Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.

Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: “Từ thời gian này …” đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.

  1. Thông báo lần đầu về khổ nạn

Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: “Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.”

Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông “kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường “cứu thế” theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong “Jesus, l’histore vraie” Centurion 1994, trang 334-335)

“Satan, lùi lại đàng sau Thầy”. Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của “ý tưởng loài người”, mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô (“L’evangile de Matthieu” (Centurion 1991, trang 181).

  1. Đường của các môn đệ

Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập giá. “Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ “mạng sống” sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. “Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ – đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà “xác thịt và máu huyết” có thể nghĩ ra, hình dung được.

BÀI ĐỌC THÊM

1- Theo Đức Giêsu(Mgr. Daloz trong cuốn “Le Règlle des cieux s’est approehé” desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của “sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”. Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. “Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình”, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân… cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi… Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.

2-Biểu trưng của thập giá(D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí “Le Monde de la Bibbe” số 97, trang 5)

Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người “phương Đông” ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: “Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người – Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống – nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A

ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ DỨC KITÔ(*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay có chung một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người; vì thế, những người Ki-tô hữu phải có thái độ dứt khoát không chạy theo thời, không rập khuôn theo thói đời.

Gr 20: 7-9

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa, dù phải đi ngược lại với bản tính của ông và những ước muốn của những người đương thời với ông.

Rm 12: 1-2

Thánh Phao-lô cảnh giác cộng đoàn tín hữu Rô-ma, sống giữa môi trường dân ngoại, “đừng có rập theo đời nầy”.

Mt 16: 21-27

Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô phản ứng như một phàm nhân, phẩn nộ trước ý định Thiên Chúa dẫn Đấng Mê-si-a bước đi trên con đường đau khổ.

BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)

Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất. Vốn hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy, ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với bản tính của mình và những kỳ vọng của những người đương thời với ông, vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị chống đối.

*1.Bối cảnh lịch sử:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa những năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị phá hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai chú ý đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe: trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam, thật sự là một bi kịch diễn ra trong tận đáy lòng của vị ngôn sứ.

*2.Bi kịch nội tâm:

Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là một trong những đoạn văn thống thiết nhất mà vị Ngôn Sứ đã viết. Qua lối nói phóng dụ và những hình ảnh mạnh mẽ, đoạn trích nầy nói lên tất cả bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: đón nhận ơn đặc sủng mà không thể nào cưỡng kháng lại được, ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với tất cả những ước muốn của phàm nhân, đấu tranh không hề mỏi mệt với sự dữ và dối trá mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thân thưa với Thiên Chúa về sức mạnh của Ngài trên sứ mạng ngôn sứ của ông:

“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,

và con đã để cho Ngài quyến rũ.

Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng”. 

Ông phàn nàn với Chúa về những thử thách nặng nề mà ông phải chịu khi trung thành thi hành sứ vụ Thiên Chúa đã giao phó. Người đương thời chẳng những không đón nhận, mà còn lăng nhục ông, vì sứ điệp của Thiên Chúa trái với những kỳ vọng của con người.

“Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.

Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,

phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’.

Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt này” (20: 7c-8).

Vì thế, ông mong muốn được thoái thác sứ vụ của mình:

“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,

cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’” (20: 9a).

Dù đã ra sức cố dồn nén lại trong lòng, không công bố lời Chúa nữa, nhưng ông không thể:

“Nhưng lời Ngài như một ngọn lửa cháy bừng trong tim,

ầm ỉ trong xương cốt.

Con nín chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (20: 9b)

Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc siêu nhiên của nó, và đồng thời, quyền năng của nó ở tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.

BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)

Với chương 12, khởi sự phần luân l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu: Do thái hay dân ngoại). Thánh nhân vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế ngài khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên của thánh nhân: phụng thờ đích thật và đổi mới con người.

*1.Phụng thờ đích thật (12: 1):

“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”: “Của lễ sống động” là trọn một cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, đối nghịch với tế vật của những súc vật chết được hiến dâng trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một cuộc đời phụng tự. Đó mới thật là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, khi ám chỉ đến việc mình bị kết án tử, có lẽ sắp đến gần, thánh nhân thấy “máu của mình phải đổ ra hợp làm một với hy lễ” (Pl 2: 17).

Hiến dâng chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân phân biệt sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình. Tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình là cách thức phụng sự Thiên Chúa xứng hợp nhất.

*2.Đổi mới con người (12: 2):

Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới con người. Việc đổi mới nầy đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: “Đừng rập theo đời nầy”, nhưng “hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”.

Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến, tức vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách rập khuôn theo thói đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Ki-tô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma.

Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ‎ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.

TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)

Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước.

*1.Loan báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó và Phục Sinh:

Sau khi đã nghe thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào trong mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Ngài loan báo cho họ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài liên kết những viễn cảnh của cuộc Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.

“Người phải…”: Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây không là tất yếu của một định mệnh; nhưng là tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh đến để đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về ơn cứu độ).

*2.Phản ứng của thánh Phê-rô:

Chúng ta hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Ông quan niệm Đấng Mê-si-a vinh quang và chiến thắng. Trong tư tưởng của ông, những viễn tượng về Đấng Mê-si-a trần thế chắc chắn vẫn còn hiện diện.

Rất tế nhị, thánh Phao-lô kéo riêng Ngài ra khỏi tầm nhìn của các môn đệ và trách cứ Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”: Chắc chắn thánh nhân lầm khi lôi kéo Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của ông không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ.

Đức Giê-su phản ứng dữ dội. Vào lúc nầy, những cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa hiện ra trong tâm trí Ngài giữa “Đấng Mê-si-a quyền năng” mà dân Ít-ra-en mong đợi và “Người Tôi Tớ đau khổ” mà Kinh Thánh loan báo. Trước đây, Đức Giê-su đã xua đuổi chước cám dỗ của Xa-tan bởi lời quyền năng: “Xa-tan kia, xéo đi!” (4: 10), nay Ngài phản kháng thánh Phê-rô cũng một cách tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy!”. “Xa-tan” có nghĩa “kẻ cản lối” làm người ta vấp ngã.

Khi truyền lệnh cho Phê-rô: “Lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi ông, nhưng mời gọi ông “hãy đi theo sau Ngài” để khỏi cản lối đi của Ngài. Ngài muốn Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, việc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân vào trong cùng một vận mệnh của Ngài vì đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. 

*3.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Đức Giê-su:

Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Đức Giê-su cũng nói với các ông một cách như thế khi liên kết các môn đệ vào với vận mệnh của Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Hình ảnh “thập giá” vào thời đó không xa lạ gì với những người đương thời của Đức Giê-su. Chính quyền Rô-ma đã áp dụng hình phạt thập giá cho những ai dám chống lại quyền cai trị của họ. Đã có những cuộc hành hình tập thể như thế xảy ra rồi ở Giê-ru-sa-lem. Ở nơi hình ảnh “thập giá” Đức Giê-su chất chứa những gian khổ mà những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài phải trải qua. Trước đây, trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su đã gợi lên hình phạt thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Thánh Lu-ca, trong một đoạn văn song song (Lc 9: 23), đã thêm chữ “hằng ngày” làm cho “vác thập giá” mang nghĩa biểu tượng: “vác thập giá hằng ngày” nghĩa là chấp nhận mọi khốn khó của cuộc đời.

“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”: Lời nầy của Đức Giê-su được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ‎ý nghĩa của chúng và ghi khắc chúng vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trong viễn cảnh của những lần tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ‎ ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10: 18). Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những ngày bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là bảo đảm cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.

“Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”: Ở đây, Đức Giê-su đối lập giữa sở hữu của cải vật chất được gói trọn ở nơi “người ta được cả thế gian” và “thiệt mất mạng sống” được hiểu theo nghĩa mạnh: “tổn hại sự sống đời đời”, “đánh mất ơn cứu độ”.

Để kết thúc tư tưởng của mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ biết chọn lựa cách khôn ngoan giữa cuộc sống đời này với cuộc sống vĩnh cửu mai sau khi đặt cho các ông một câu hỏi: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”. Cuối cùng, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày quang lâm của Ngài: “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

Vì thế, để được sở hữu “sự sống đích thật”, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ và sau họ, cho tất cả các Ki-tô hữu: noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời nghiêm trang, không hoa mỹ, nhưng trào dâng một niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.

home Mục lục Lưu trữ