Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 92
Tổng truy cập: 1445533
TA SẼ CHO NƯỚC HẰNG SỐNG
Ta sẽ cho nước hằng sống- Lm. Lâm Thái Sơn
Ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria: Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng và xin nước uống v.v... Bài này ta đã từng nghe qua nhiều lần, nhưng để hiểu rõ tầm mức quan trọng, ta cầu đọc lại trong quan điểm lịch sử, biểu tượng và thực tiễn.
1. Quan điểm lịch sử: Muốn biết tại sao cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bà xứ Samaria gây ra tai tiếng, chúng ta nên dựa vào biến cố lịch sử đã qua.
Mối bất hòa giữa người Do Thái và người Samaria đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lúc mà người Axiri đến xâm chiếm đất Samaria, bắt đi lưu đày một phần lớn dân Samaria như một dân tộc tạp nhạp, lai căng lạc đạo; đã vậy, người Samaria không còn đi lễ ở Giêrusalem mà hành đạo ở đền núi Garidim... Vì không còn giao thiệp với Samaria, do đó bất cứ người Do Thái nào tiếp xúc với dân Samaria đều bị lên án, nặng nhất là người đàn ông Do Thái giao du với phụ nữ Samaria.
Trong tình thế đó, này đây Chúa Giêsu ngang nhiên nói chuyện với người đàn bà xứ Samaria mà không chút sợ sệt. Ngài còn tự do thoải mái ở lại thêm hai ngày nữa. Qua cuộc gặp gỡ và đối thoại này, Chúa Giêsu muốn cho ta thấy ý định của Ngài là dẹp thù hận. Vì đối với Thiên Chúa: không có ai là địch thù, không ai là người bị nguyền rủa và bị khai trừ, không ai mà không được tha thứ... Và Ngài còn ban phát Nước chảy ra sự sống đời đời cho tất cả mọi người, không phân chia giai cấp hoặc màu da sắc tộc, không phân biệt nguồn gốc xứ sở. Vì Thiên Chúa là Tình Thương cho tất cả.
2. Quan điểm biểu tượng: Ao hồ hay giếng nước thường là nơi của sự gặp gỡ (từ khách lạ trở nên bạn hữu), nhưng cũng có thể là nơi tranh chấp (vì tranh giành miếng nước mà trở nên cừu địch).
Giếng nước hay vũng nước, trong sa mạc hoặc những vùng đất khô cằn, không chỉ là nơi mà người người đều dừng lại múc lấy nước để phục hồi sức khỏe sau những ngày đường mệt lả khát nước, mà còn là nơi để người người cùng gặp gỡ, trao đổi câu chuyện và làm quen. Trong Kinh Thánh có những đoạn kể qua cuộc gặp gỡ nơi giếng nước đưa đến chuyện hôn nhân: người đầy tớ của ông Abraham gặp cô Rêbêca (St 24:10-27) từ đó lo chuyện cưới hỏi cho con ông chủ mình là Ygiaác. Ông Giacóp và cô Rakên (St 29:1-14) cũng gặp nhau tại giếng nước và hai người đã trở thành vợ chồng.
Vậy thì giếng nước trong bài Phúc Âm hôm nay, nơi mà Chúa Giêsu gặp người đàn bà xứ Samaria, cũng có tính cách biểu tượng: vì tại giếng nước này phát hiện một giao ước thiêng liêng, một cuộc đính hôn giữa Đức Kitô với nhân loại, cho dù loài người có bất xứng, đầy tràn tội lỗi... Ngài hứa ban "nước hằng sống" cho bất cứ ai tìm đến giải khát nơi Ngài và Ngài còn tuyên bố "từ nay mọi người sẽ không còn hành đạo tại núi này hay đền thờ nọ, nhưng đã đến lúc phải tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý".
Lời nói của Chúa Giêsu thật quá kỳ diệu, đánh động tâm hồn người đàn bà Samaria, khiến bà quên đi cả việc múc nước. Nước giếng không còn là mối bận tâm và không làm bà khao khát nữa, bà cũng không còn khao khát những mối tình trần tục (bà có sáu đời chồng), vì Lời Chúa vừa đem đến sự giải khát cho bà, và sau khi tin phục thì "nước Chúa (Lời Chúa) vừa ban cho bà thì nơi bà trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", từ một người đàn bà xa lạ, bà đã trở nên môn đồ của Chúa qua việc để lại vò và chạy về thành loan báo cho mọi người: "Mau hãy đến xem... người đó là Đấng Kitô".
3. Quan điểm thực tiễn: Ta có thể khẳng định rằng đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhận rõ cuộc sống. Như xưa kia Chúa Giêsu đã làm phát sinh nước hằng sống nơi xứ Samaria, đất của dân ngoại, của những người bị miệt thị khinh chê... thì nay chúng ta cũng được mời gọi nên biết đón nhận những người Samaria, tức là những kẻ không cùng ý hướng tín ngưỡng với chúng ta và những kẻ bị người khác khinh thường loại bỏ, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị của những người khác biệt với chúng ta.
Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ nay phải biết tìm đến uống nước Hằng Sống (các Bí Tích) phát sinh từ nơi Ngài: Lời Ngài tuôn chảy như một giòng suối đánh đổ những hiềm khích hận thù, tẩy sạch những kỳ thị bất công và loại bỏ việc sùng bái các tà thần ngẫu tượng (của cải tiền bạc, lợi danh quyền chức...) để chúng ta trở nên những con người hoàn toàn tự do, biết thật sự yêu thương tha nhân và "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý".
50. Nước hằng sống – Lm. Hữu Độ
Nước là một quà tặng rất quan trọng Chúa ban cho thế giới. Con người, con vật, cây cối đều nhờ vào nước. Trong thân thể con người, nước chiếm 70%, nếu một ngùi cân nặng 100 lbs, thì nước chiếm 70 lbs. Người ta có chừng 4.5 lít máu thì nước chiếm 2.8 lít rồi. Người ta có thể sống 40 ngày không có đồ ăn, nhưng nếu không có nước thì chỉ 3 ngàysẽ chết.
Sau một tai nạn máy bay (loại nhỏ) rớt ở vùng rừng rậm của Gianãđại (Canada), vợ chồng Ralph và Helen đã sống sót nhờ vào số lượng nước chảy ra từ đống tuyết tan. Họ điểm tâm bằng nước, dùng bữa trưa bằng nước và bữa tối cũng là nước. Nhờ có nước mà họ sống 6 tuần lễ cho tới khi gặp người đến cứu. Ngày nay một trong những mối lo ngại nhất của con người là nước dơ, nhất là tại các quốc gia Phi Châu, vì trong nước dơ có chứa nhiều vi khuẩn sinh ra bệnh. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người chết vì bệnh ruột vì dùng nước dơ.
Phúc Âm hôm nay nói về nước. Chúa Giêsu đi đường mỏi mết và khát nước đến ngồi nghỉ trên miệng giếng, gặp một chị xứ Samarita, Chúa xin "Chị cho tôi uống nước với." Theo dõi Phúc Âm chúng ta thấy: Chúa Giêsu là một người khéo gợi chuyện và thu hút lòng người.
Thứ nhất người Do Thái và người Samarita vốn có sự bất hòa, thù ghét nhau, họ làm thành bức tường ngăn cách kiên cố lâu đời. Chúa Giêsu tới phá đổ bức tường ngăn cách đó bằng việc Ngài lên tiếng xin chị Samarita cho Ngài uống nước. Từ hình ảnh giếng nước tự nhiên cần thiết cho thân xác, Chúa đã dẫn chị tới nguồn nước siêu nhiên hằng sống cần thiết cho con người.
Thứ hai, đi sâu câu chuyện, mặc dầu Chúa biết chị đang sống bất hợp pháp với một người đàn ông, nhưng Chúa nói chuyện với một giọng nhân từ và yêu thương. Chính vì cách nói chuyện yêu thương, nhân từ đó mà Chúa đã giúp chị dần dần khám phá ra Chúa là ai? Phúc âm để lại, đầu tiên chị nhìn Chúa như một người Do Thái bình thường nào đó: "Ông là người Do Thái mà xin tôi là người Samarita nước uống." Thế rồi chị nhận ra Chúa là một tiên: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri". Bước sau cùng chị nhận ra Chúa là Đấng Kitô. Chị vào thành nói với người ta: "Đến mà xem, có một người đã nói cho tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?"
Chị Samarita là người đến kín nước để thỏa mãn cơn khát tự nhiên của chị. Thế nhưng chị vẫn còn khát khao một thứ nào đó mà chị không được mãn nguyện. Ở với 5 đời chồng và bây giờ chung sống với một nguời đàn ông khác mà vẫn không thỏa mãn cơn khát của chị.
Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng tương tự như vậy, 5 đời chồng đó là 5 thứ người ta khao khát trên đời: tiền bạc, danh vọng, chức quyền, tình yêu, kiến thức. Rồi người đàn ông bất hợp phát đó có thể là: thuốc phiện, rượu chè, cờ bạc, trai gái, lạc thú bất chính... Chúng ta tưởng những thứ đó đem lại hạnh phúc, thỏa mãn được cơn khát của chúng ta nhưng vô vọng, vì nó chỉ đem đến chán chường, trống rỗng.
Nước hằng sống Chúa muốn ban cho chúng ta đó chính là Ơn Thánh. Nghĩa là bình an khi sống thân mật với Thiên Chúa, nghĩa là tự do khi giữ Lề Luật Chúa, nghĩa là niềm vui khi chúng ta phục vụ tha nhân. Nước Hằng Sống hay Ơn Thánh đó chúng ta tìm thấy trong Thánh Thể trong các Bí tích, trong Lời Chúa, trong các việc lành, trong đời sống cầu nguyện, trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa.
Hãy uống nước hằng sống là chính Ơn Thánh để sau này hiệp hoan với Chúa Kitô trên Thiên Đàng chúng ta không bao giờ khát nữa.
51. “Nước Hằng Sống” chính là Đức Giêsu
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.
Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.
1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.
Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi lẫn nhau. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó, Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.
Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc... Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu:"Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước" (Ga 4, 15).
Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.
2. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống
Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc..., nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.
Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.
Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biến tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.
Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.
Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:
Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt.
Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác.
Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất... Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà...
Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:
Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ...người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui...
Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục... nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm nơi tâm hồn của mình. Tình trạng của người phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục... thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau... Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.
Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.
52. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ NƯỚC HẰNG SỐNG
ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giêsu với một phụ nữ dân Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến ban Nước Hằng Sống là ơn cứu độ cho những ai biết mở lòng đón nhận và đặt trọn niềm tin cậy vào Người.
CHÚ THÍCH:
- C 5-9: + Đến một thành xứ Sa-ma-ri: Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giêsu đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). + Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn. + “Chị cho tôi xin chút nước uống!”: Đức Giêsu chủ động xin nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài người. + “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”: Người Sa-ma-ri là con cháu của hai nhóm người: Một là những người không phải đi lưu đày khi Vương quốc Ít-ra-en phía Bắc bị tiêu diệt vào năm 722 trước CN. Hai là những người dân Ba-by-lon và Mê-đi-a do các đoàn quân xâm lược Át-sua đưa vào (x. 2 V 17,24tt). Có một sự đối lập về thần học giữa những người Sa-ma-ri này với người Do Thái phía Nam, bởi vì người Sa-ma-ri không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tình trạng này lại trầm trọng thêm vì người Sa-ma-ri đã gây thêm khó khăn cho người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, rồi đến thế kỷ II trước CN, người Sa-ma-ri lại giúp các vua Sy-ri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128 trước CN, thượng tế Do Thái đã ra lệnh đốt phá Đền Thờ Sa-ma-ri trên núi Ga-ri-dim. Đối với người Do Thái, dân Sa-ma-ri là dân tội lỗi ô uế. Do đó hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người phụ nữ Sa-ma-ri này đã nhận ra Đức Giêsu là người Do thái qua giọng nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối giúp đỡ như vậy.
- C 10-15: + “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp này, Đức Giêsu cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng Cứu Thế, đến để ban Nước Hằng Sống. Trong Tin Mừng Gio-an, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức Giêsu hiểu lầm những kiểu nói của Người. Như ở đây, hai kiểu nói là “nước hằng sống” của Đức Giêsu và của người phụ nữ nói không mang cùng một ý nghĩa. + “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống?...: Người phụ nữ này chỉ hiểu lời Đức Giêsu theo nghĩa thông thường là “nước giếng” tự nhiên, đang khi Đức Giêsu lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn Cứu Độ. + “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”: Đức Giêsu so sánh nước giếng tự nhiên chỉ làm đã khát cho thân xác nhất thời, với Nước Hằng Sống là ơn cứu độ mới là nguồn nước mang lại sự sống đời đời cho loài người mà chính Người mang đến. + “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”: Đức Giêsu dẫn dắt người phụ nữ từ thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện với Người. Đức Giêsu từ vai trò một người khách bộ hành xin nước uống đến vai trò là Đấng Thiên Sai ban Nước Hằng Sống và người phụ nữ xin Người ban cho thứ Nước cứu độ ấy.
- C 16-22: + “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”: Đức Giêsu tỏ ra là người lịch sự khi Người muốn nói chuyện với người phụ nữ trước mặt người chồng của chị ta, đồng thời cũng muốn cho chị ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. + “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”: Đức Giêsu cho người phụ nữ ý thức tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của mình. Một số nhà chú giải còn nhìn thấy 5 đời chồng là hình ảnh tượng trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức Chúa, lại vừa phụng thờ 5 vị thần khác (x. 2 V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ: Người phụ nữ sửng sốt trước việc Đức Giêsu thấu suốt đời tư của mình, và tôn xưng Người là một vị ngôn sứ. Đồng thời, chị ta xin Đức Giêsu cho chị lời khuyên cần tôn thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri (x. Đnl 27,4) hay thờ Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người Do Thái? + Đã đến giờ: Đức Giêsu dạy chị phụ nữ với tư cách vị ngôn sứ: Đã đền giờ Người xuất hiện để thực hiện chương trình cứu độ. Người cho biết: việc thờ phượng tại núi này hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng và đã bị vượt qua rồi. Bây giờ là thời của Đấng Thiên Sai, nên cần chầm dứt việc thờ phượng cũ để bắt đầu cách thờ phượng mới nơi Người. + Thờ Đấng mà các người không biết: Người Sa-ma-ri chỉ công nhận bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các sách khác, nhất là sách của các ngôn sứ mặc khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết: Người Do thái tuân giữ toàn bộ Sách Thánh. Sau này, thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh đặc ân này của dân Do thái (x. Rm 9,4).
- C 23-29: + Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí: là tôn thờ Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. + Trong Sự Thật: Thờ Thiên Chúa trong Đức Giêsu, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ nay Đức Giêsu trở nên Đền Thờ mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi Ga-ra-dim hay tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”: Đức Giêsu đã nêu ra một điều được cả dân Do thái và dân Sa-ma-ri chấp nhận là lời khẳng định: “Thiên Chúa là Thần Khí, và người ta phải thờ Người ở khắp mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ không phải thờ hình bóng của Người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người đòi người ta phải thờ phượng Người trong tâm hồn. Một số người dựa vào câu này để từ chối thờ Chúa bằng những hình thức lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giêsu vẫn thường xuyên lên Đền thờ dự lễ (x. Ga 2,13; 7,14; 11,55) và đến hội đường Do thái nghe giảng dạy và cầu nguyện chung tôn thờ Thiên Chúa (x. Mt 1,21; Mt 13,54). Qua câu nói này, Người chỉ chống lại những nghi lễ vụ hình thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến: Dù chưa hiểu được ý nghĩa về lời giải thích trên đây, người phụ nữ này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng Đấng Thiên Sai sẽ đến loan báo mọi sự. + Đấng ấy chính là tôi: Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp “egô eimi” (I am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa đã tỏ ra cho Mô-sê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giêsu. Bình thường, Người không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giêsu đã bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính nào, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ. + Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm: Thực ra Đức Giêsu mới chỉ nói về những người chồng của người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm. Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta dễ tin mà thôi.
- C 30-38: + “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giêsu muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết. + Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giêsu coi việc làm theo ý Chúa Cha là đồ ăn của Người. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!: Đức Giêsu dựa vào câu tục ngữ người nông dân thường nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, chính là dân thành Sa-ma-ri đang kéo tới gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa của mùa gặt Thiên Sai. Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x. Mt 9,37). Đức Giêsu gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. + Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng!: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người gieo chính là Đức Giêsu và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11). Thợ gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giêsu đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả của việc truyền giáo mang lại. Đức Giêsu muốn nói lên rằng: công khó của Người sắp chịu chết trên thập giá như là hạt giống, hạt giống ấy phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Còn các môn đệ sẽ cảm mến được niềm vui của mùa gặt. Công việc truyền giáo là một việc mang tính tập thể: “Người gieo kẻ gặt”, mỗi người mỗi nhiệm vụ. Do đó khi việc tông đồ đem lại nhiều kết quả thì người ta đừng tự mãn cho rằng kết quả đó hòan tòan do công sức riêng của mình, nhưng còn có công sức của nhiều người khác cộng tác nữa.
- C 39-42: + Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là bước khởi đầu đưa dân thành tin vào Đức Giêsu. + Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa: Đức tin phải được tiếp tục triển nở nhờ nghe lời giảng dạy của Đức Giêsu. + “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”: Qua lời của dân thành Sa-ma-ri, ta thấy đức tin trưởng thành phải bắt nguồn từ thực tế, chứ không chỉ dựa vào đức tin của người khác như cha mẹ, vợ chồng, người thân hoặc theo số đông nơi mình đang sống mà thôi.
CÂU HỎI: 1) Cách tính giờ của người Do thái thế nào? 2) Đức Giêsu chủ động xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì? 3) Nước Hằng Sống mà Đức Giêsu hứa ban là thứ nước gì? 4) Lời Đức Giêsu dạy thờ Thiên Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người đã bãi bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài? 5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mạng phải đi loan báo Tin Mừng? 6) Câu nói của dân làng cho thấy tầm quan trọng của Lời Chúa ra sao trong viẹc tăng thêm đức tin của người tín hữu đến mức trưởng thành?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời Chúa: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,13-14a).
2. Câu chuyện:
1) Lời Chúa chính là nguồn nước hằng sống:
Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh là Nước Hằng Sống mà Đức Giêsu đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp xưa.
2) Phải tìm gặp Chúa nơi tha nhân:
Vào một đêm trăng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già thấy một thiên thần đang ngồi viết vào một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ liền rón rén đến gần hỏi thiên thần:
- Ngài đang viết gì vào quyển sách vàng này thế?
- Ta đang ghi tên những người có lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự.
Trong tâm trạng vừa lo lắng lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ đã yêu cầu thiên thần tìm trong cuốn sách xem đã có tên mình hay chưa. Thiên thần liền chiều ý để lần giở từng trang sách ra tìm, nhưng tìm từ đầu đến cuối cuốn sách vàng mà không thấy có tên ông ta. Vị tu sĩ vẫn không thất vọng, ông tiếp tục yêu cầu thiên thần:
- Vậy xin ngài hãy ghi tên tôi là kẻ luôn yêu mến phục vụ tha nhân.
Thiên thần liền ghi tên ông vào sổ vàng những người yêu mến Chúa.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký hằng ngày của ông. Trong đó ngay trên trang đầu tiên ông dã ghi Lời Chúa phán: ”Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu mến người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo lời Chúa này, vị tu sĩ còn giải thích thêm: ”Tôi đã đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy vì linh hồn có đặc tính thiêng liêng; Tiếp đến tôi đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi cũng không tìm thấy vì Ngài vô cùng siêu việt; Mãi đến khi tôi quyết định đi tìm tha nhân thì tôi lại gặp được cả Thiên Chúa và linh hồn mình nơi những người này” (Trích «Mỗi ngày một tin vui»).
3. Suy niệm:
Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để giúp chúng ta tìm gặp Đức Giêsu là nguồn nước đem lại sự sống đời đời. Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Người đã từng bước mặc khải Sự Thật về Người cho chị ta: Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, là một Ngôn Sứ, là Đấng Mê-si-a đến ban ơn cứu độ mọi người.
1) Học tập Đức Giêsu trong việc loan báo Tin Mừng:
Đức Giêsu đã hướng dẫn người phụ nữ theo một tiến trình đức Tin như sau:
- Người đi bước trước để ngỏ lời xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước giếng tự nhiên:
Đức Giêsu chủ động đi bước trước làm quen, vượt qua rào cản giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri để ngỏ lời xin một người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước như sau: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Đây là phương pháp loan báo Tin Mừng hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta tiếp cận anh em lương dân để nói chuyện về tôn giáo với họ.
- Người đòi người phụ nữ phải tin vào Người để được Người ban cho Nước Hằng Sống là ơn cứu độ:
Từ việc xin nước uống tự nhiên, Đức Giêsu đề cập đến thứ Nước Hắng Sống là đức tin siêu nhiên đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống” (Ga 4,10). Phải biết bắt đầu từ những điều vật chất cụ thể để sẽ đề cập đến mầu nhiêm đức tin siêu vật chất. Đức Giêsu cũng nhiều lần đã dung các hình ảnh cụ thể vật chất đời thường trong các dụ ngôn để trình bày về Nước Trời.
- Người đòi người ta phải thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật:
Đức Giêsu cho chị phụ nữ kia biết chính thái độ ich kỷ tự mãn và khinh thường lẫn nhau đã tạo ra bức tường ngăn cách về đức tin giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri: Người Do thái đòi phải thờ Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, còn người Sa-ma-ri lại đòi phải thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ri-dim! Đức Giêsu đã giải đáp về sự thờ phượng đích thực như sau: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,24). Cần tập cầu nguyện với Chúa mọi lúc và mọi nơi chứ không nhất thiết phải có nhà thờ hay bàn thờ mới cầu nguyền được.
- Người mặc khải về sứ mạng Thiên Sai của Người:
Người phụ nữ Sa-ma-ri cho biết quan niệm về Đấng Thiên Sai của người Sa-ma-ri như sau: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu liền mặc khải cho chị ta biết về vai trò Thiên Sai của Người như sau: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Tất cả sự thờ phượng Thiên Chúa đều qui vè Chúa Giêsu, để nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
- Người phụ nữ thể hiện đức tin bằng việc nhiệt thành làm chứng cho Người:
Sau khi đã tin Đức Giêsu là Ngôn Sứ và là Đấng Thiên Sai, người phụ nữ đã phấn khởi vào trong thành báo tin như sau: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Nhờ lòng tin yêu Chúa mà người phụ nữ này đã nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho đồng bào của mình. Thực như lời thánh Phao-lô đã nói: “Tinh yêu Chúa Ki-tô thôi thúc tôi” (2 Cr 5,14).
- Nhờ gặp gỡ và nghe lời Chúa mà dân làng Sa-ma-ri đã đạt đến một đức tin trưởng thành:
Lúc đầu dân làng Sa-ma-ri đã ra gặp Đức Giêsu theo lời người phụ nữ kêu gọi. Rồi họ đã mời Đức Giêsu ở lại để được nghe loan báo Tin Mừng. Nhờ đó họ đã có đức tin vào Đức Giêsu chính là “Đấng Cứu Độ trần gian”. Cuối cùng họ đã khẳng định với người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian” (Ga 4,42). Đây cũng là tấm gương cho những anh chị em tân tòng theo đạo để lập gia đình với người bạn công giáo. Họ phải làm thế nào để đạt tới đức tin trưởng thành như dân làng Sa-ma-ri nói trên.
2) Phải gặp gỡ Chúa là điều kiện để có đức tin trưởng thành?:
Ngày nay chúng ta có thể gặp gỡ Chúa bằng nhiều hình thức như sau:
- Gặp Chúa trong tình yêu tha nhân: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nên chỉ những ai có tình yêu thương tha nhân mới gặp được Thiên Chúa. Còn những kẻ ganh ghét, để lòng thù ghét anh em thì thuộc về ma quỷ và sẽ không gặp được Thiên Chúa đời này và đời sau như thánh Gio-an đã viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15).
- Gặp Chúa trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần: Đức Giêsu nói: Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Vì “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48). Do đó muốn gặp gỡ Thiên Chúa thực sự, ta cũng phải gặp Ngài trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần.
- Gặp Chúa trong tín thác vào Chúa Giêsu “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6): Nhờ đức Tin, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa và Thánh Thể tại nhà thờ; Gặp Chúa khi đọc Lời Chúa giờ kinh tối gia đình hằng ngày hay các buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đất, giữa họ” (Mt 18,20)
- Gặp Chúa trong những người đang sống chung trong một mái nhà hay đang ẩn mình nơi những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi… Ngoài ra để gặp được Chúa, chúng ta cần phải ăn ở thành thật “có nói có, không nói không” (Mt 5,36). Tránh ăn nói quanh co, lừa đảo, vì đó là hành vi của ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (x. Ga 8,44).
3) Làm gì để sống và truyền bá đức tin trong thế giới hôm nay?:
- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giêsu trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ như lời Chúa dạy hôm nay: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14a).
- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”. Câu chuyện sau đây chứng minh điều này: “Có một người đàn ông nọ mới theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông liền hỏi: “Anh theo đạo nhưng có biết Đức Giêsu là ai không?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ nhiên là biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giêsu sinh ra tại đâu?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giêsu chết khi được bao nhiêu tuổi?” Một lần nữa, người tân tòng lại không biết. Người kia liền nói: “Anh chẳng biết gì về đạo. Vậy tại sao anh lại theo đạo?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú thật với anh: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi nhà để sống lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu và trở thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải nhìn thấy mặt ba của chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua cơn khó khăn: Ông giúp tôi có được một công việc thu nhập ổn định, và giúp gia đình tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản thân tôi trở thành một con người sống tiết độ và có trách nhiệm hơn đối với gia đình của mình. Hiện nay tôi đã đòi lại được căn nhà cũ trước kia. Vợ chồng tôi sống với nhau rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: “Chính Đức Giêsu đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua trung gian một vị linh mục!” Quả thật đúng như lời Đức Giêsu đã phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14b).
III. THẢO LUẬN:
1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng? 2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người?
IV. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm sám hối… để biết rõ con người thật của mình. Xin cho chúng con năng uống Nước Hằng Sống là Lời Chúa dạy và Thánh Thể Chúa, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ tươi vui hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng loại trừ những thành kiến với tha nhân, để quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã nêu gương trong Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng con luôn cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”; Xin giúp chúng con luôn thực hành Lời Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã căn dặn các người giúp việc yại tiệc cưới Ca-na xưa: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b).- Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam