Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 73
Tổng truy cập: 1444906
SỰ THẬT
Sự thật
Giáo chủ Môhamét tự nhận mình là một người tội lỗi. Đức Phật Thích ca từ chối bất cứ sự tôn kính cá nhân nào dành cho ngài. Abraham và Môsê thà chết chứ không để ai coi mình là thần linh. Chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô dám tự xưng: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Người dân Hebrides ở quần đảo phía tây Scotland, có một huyền thoại về một vị thần biển rất thích bắt trẻ em của loài người để nuôi. Vị thần biển này thường đi tìm kiếm trẻ em trên những con tàu qua lại trên biển từ đảo này sang đảo khác. Vào một dịp, vị thần này nổi lên đuổi theo chiếc tàu nhỏ chở hành khách trong đó có một em bé trai. Tuy nhiên, con tàu đã cập bến kịp thời. Khi người ta đưa em lên đất liền, vị thần biển đã gửi đi một làn sóng nhỏ đuổi theo, chạy thẳng vào trái tim của em bé trai. Lúc đó vị thần biển đã hơi thất vọng vì không bắt ngay được em bé, nên phải núp dưới những làn sóng và người ta nghe có tiếng phán rằng: “Đứa trẻ này sẽ trở về với ta vì ta đã đặt một phần bản thân ta vào trong trái tim của nó”.
Nhiều năm sau, dân làng trên đảo đã ngạc nhiên khi thấy, vào một ngày, có một chàng thanh niên mạnh khỏe bước xuống chiếc thuyền chèo, nhưng anh lại không bơi thuyền hướng về một hòn đảo khác, mà chèo ra biển khơi mênh mông. Dân làng đồng thanh kêu gọi lớn tiếng: “Không có hòn đảo nào về hướng đó cả”. Nhưng anh vẫn cứ chèo, và khi trôi ra thật xa ngoài biển khơi, họ trông thấy anh nhào xuống nước trở về với thần biển là người đã đặt một phần bản thân mình vào trong trái tim của em bé trai khi nó còn nhỏ.
Huyền thoại này nói về ý nghĩa của mầu nhiệm sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa tạo dựng nên nhân loại, Người cũng đặt một phần thần tính của Người, linh hồn vĩnh cửu, vào trong trái tim của chúng ta. Và Người khao khát chờ đợi chúng ta trở về với nguồn mạch của sự sống vĩnh cửu đó. Đây là sự thật được mạc khải bởi Con Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. “Nơi Chúa Giêsu Kitô, chân lý của Thiên Chúa đã được bày tỏ cách trọn vẹn”. “Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, để chúng ta được thông phần vào bản tính thần linh”. Bởi vì Con Thiên Chúa làm người để chúng ta làm Thiên Chúa”.
Văn sĩ Kitô giáo, C.S. Lewis đã nói: “Kitô giáo là một bản tuyên bố. Nếu sai, thì nó không quan trọng, và nếu nó đúng, thì nó quan trọng vô cùng. Nhưng chắc chắn một điều là nó không thể nào ít quan trọng”.
62. Sự sống
Ngày 20.4.1999 hai em học sinh da trắng đã bắn vào trường trung học Columbine ở Colorado gây nên cái chết bi thảm cho 12 học sinh, một thầy giáo và nhiều học sinh khác bị thương. Nguyên nhân sâu xa gây nên cái chết bi thảm này, theo tôi, là việc hai em thiếu niên này đã tham gia vào tổ chức của Satan, đảng viên Đức Quốc xã. Chúng đã từ chối niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô “là đường, sự thật và sự sống”. Thay vì kiếm tìm sự sống, họ đã chọn lựa cái chết. Một trong những câu chuyện được báo chí tường thuật lại, đó là câu chuyện của cô Cassie Bernall, một trong 33 nạn nhân của cuộc đổ máu bi thảm này.
Khi bước vào tuổi thiếu nữ, cô Cassie đã trải qua những cơn khủng hoảng của niềm tin. Cô đã phải phân vân chọn lựa Chúa Giêsu hay Satan. Thoạt tiên, cô đã chọn Satan. Cô thường hội nhóm cầu cơ và có một cái nhìn rất bi quan về cuộc sống, do đó, cô đã có ý định tự tử. Cha mẹ đã đưa cô tới gặp gỡ và trao đổi với vị lãnh đạo tinh thần. Nhưng sau cùng chính ông cũng lắc đầu và nói: “Hết hy vọng gì đối với đứa con gái này!” Nhưng Chúa Giêsu đã có chương trình cứu rỗi của Người.
Vài tuần sau đó, cô Cassie đi vào nhà thờ và nói rằng: “Mục sư sẽ không bao giờ tin được điều gì đã xảy ra!” Chúa Giêsu đã tìm được con chiên lạc, và cô Cassie đã gặp được Đức Kitô một cách rất cá nhân và mật thiết. Chỉ một tuần lễ trước khi chết, cô đã đến nói chuyện với giới trẻ về ý định của cô là “muốn trở thành một gương mẫu cho những người vô tín ngưỡng và cho cả những người Kitô hữu nữa”. Cùng với nhóm trẻ, cô tham gia những việc bác ái từ thiện, tình nguyện giúp đỡ những người nghèo, vô gia cư trong các trung tâm. Cô đưa Thánh Kinh đến nhà trường và đọc mỗi ngày.
Vào ngày định mệnh xảy ra, cô đang ngồi thinh lặng đọc Thánh Kinh trong thư viện. Hai tên sát nhân tông cửa chạy vào. Những em học sinh khác núp xuống dưới gầm bàn của thư viện. Một tên sát nhân tiến ngay đến chỗ cô ngồi và hỏi: “Cô tin vào Thiên Chúa hả?” Các em học sinh núp dưới gầm bàn nghe lén được câu chuyện kể lại. Với một giọng quả quyết và nhẹ nhàng, cô trả lời: “Phải, tôi tin vào Thiên Chúa”. Sau đó tên sát nhân, kẻ chọn chủ nghĩa Satan và Đức Quốc xã, đã chĩa súng, và nã đạn vào đầu cô. Cô gục xuống tại chỗ. Sau khi cô chết, Chris, người anh cả của Cassie đã tìm thấy một miếng giấy trên bàn học ghi lại những lời sau đây:
“Giờ đây tôi đã từ bỏ tất cả mọi sự. Tôi đã tìm thấy con đường duy nhất để biết Đức Kitô và cảm nghiệm về Đấng quyền năng. Con đường đó đã mang Người trở lại đời sống của tôi. Và giúp tìm ra ý nghĩa để cùng chịu đau khổ và cùng chết với Người. Do đó, dù bất kỳ sự gì xảy ra, tôi sẽ là một con người sống trong đời sống mới của những người sống lại từ cõi chết”.
Khi chọn Chúa Giêsu Kitô là đường, sự thật và sự sống, cô Cassie đã yêu Chúa cho đến cùng, dù phải trả giá bằng chính sự sống của mình. Tình yêu là động lực thúc đẩy con người dám hy sinh tất cả cho Đức Kitô, bởi “yêu chân lý là yêu Chúa Kitô”. Chị thánh Têrêsa hài Đồng Giêsu cũng đã nói: “Chỉ qua tình yêu chúng ta mới có thể làm vui lòng Thiên Chúa, và điều ước muốn duy nhất của tôi là có được tình yêu này”.
63. Trong Đấng Phục Sinh
Mọi Sự Đang Được Đổi Mới Và Nâng Lên
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa cộng đoàn,
Sứ điệp phụng vụ của Chúa Nhật V PS nầy có nội dung cốt lõi đó là: Đức Kitô phục sinh chính là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, là Đấng đang qui tụ chúng ta thành Dân Mới, Dân Tư Tế vương giả, để dẫn chúng ta tiến bước về với Chúa Cha. Chính trong ý nghĩa nầy, mà hôm nay, trong Thánh lễ nầy, một lần nữa chúng ta tuyên xưng: “Chính nhờ Đức Kitô, cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô” mà chúng ta tìm được con đường chính thật để bước đi trong cuộc đời, tìm thấy chân lý đúng nghĩa để chiếu rọi ý nghĩa cuối cùng vào kiếp nhân sinh, và gặp được sự sống đích thực để sống trọn vẹn ý nghĩa hôm nay và hy vọng nơi cuộc sống vĩnh hằng. Con đường ấy, chân lý ấy và sự sống thần linh ấy đang hiện thực trong chính mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh, trong chính thánh lễ mà chúng ta đang cử hành. (Hôm nay, cũng là ngày chính thức Đăng Quang khai mạc sứ vụ Mục Tử trên Ngai Tòa Phêrô của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI. Chúng ta hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho Đức Thánh Cha mới vừa đắc cử được dồi dào nghị lực và khôn ngoan, thánh thiện và trung thành để dẫn dắt Dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian).
Để xứng đáng cử hành Thánh Lễ và đón nhận muôn ơn lành, chúng ta hãy lấy lòng sám hối đón nhận nước Thánh như là dấu chỉ của cuộc tái sinh để được gia nhập vào Đoàn Dân Thánh, Dân Tư Tế vương giả của Thiên Chúa.
Giảng Lời Chúa:
Đứng trước những tai nạn thảm khốc xảy đến hằng ngày trên thế giới; động đất, sóng thần, bảo lụt…, những chiến tranh bạo lực mang theo tàn phá và chết chóc, những dịch bệnh ùa vào trần gian để cướp đi sự sống của bao người…quả thật, có quá nhiều những khoảnh khắc, những phút giây, những ngày tháng để con người chìm trong nổi đau và thất vọng, buồn nản và khổ sầu…Thế nhưng, đó không là tất cả thế giới, không là mọi mặt của cuộc đời. Nói cách khác, đó chỉ là “mặt trái của cuộc sống”, một mặt trái mà theo định nghĩa của một câu ngạn ngữ Trung Hoa, chỉ là “một cây đổ ồn ào”, không thể sánh bằng ở bên kia ngọn đồi “một cánh rừng đang mọc”. (Một cây đổ thì ồn ào hơn là một cánh rừng đang mọc). Cũng chính trong cái nhìn đó, mà một tờ báo ở luân Đôn vào năm 1912, sau biến cố tai nạn thảm khốc của vụ đắm tàu Titanic, đã trình bay hai bức hí họa: Một bức vẽ chiếc tàu Titanic đụng phải tảng băng sơn cao ngất với hàng chữ: “Sức mạnh của thiên nhiên và sự yếu đuối của con người”. trong khi đó, bức tranh thứ hai, vẽ người đàn ông trao chiếc phao cấp cứu cho một người đàn bà đang bồng đứa con thơ, với hàng chữ: “Sức mạnh của con người và sự yếu đuối của thiên nhiên”.
Cũng y như thế. Vào buổi chiều thê lương Ngày Thứ Sáu trên ngọn đồi Núi Sọ ở Giêrusalem, trong lòng các tư tế, các Tông Đồ, các người bạn của Thầy Giêsu, tất cả chỉ là một bóng tối của sụp đổ tan tành, của nổi buồn sinh ly tử biệt, của một tương lai chìm sâu trong bóng tối mịt mù…Trong khi đó, Tin Mừng đã kể lại: người kẻ trộm bị đóng đinh bên tay phải Chúa Giêsu lại đang nhìn thấy “ở bên kia ngọn đồi thập giá” là “một cánh rừng đang mọc”, một “Vương quốc của sự sống đang mở ra, một niềm hy vọng đang dâng trào”: “Hôm nay, nếu Ngài vào Vương Quốc của Ngài xin nhớ đến tôi”.
Phải chăng sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn khơi gợi lên trong chúng ta cái nhìn, và nhất là, sự thực hành đức tin, trong cung cách sinh động, lạc quan, tin tưởng và tràn trề hy vọng trên nẽo đường của Đấng Phục Sinh, cho dù phải đối mặt từng ngày, từng giờ với bao nổi oái ăm của cuộc sống.
1. Trong quỹ đạo của Đức Kitô mọi sự được nâng lên:
Trước khi dấn thân vào cuộc khổ nạn, Đức Kitô đã tuyên bố: “Khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi sự lên với Ta”. Thật ra, không đợi đến khi “Ngài bị treo lên” Ngài mới lôi kéo con người “lên với Ngài”; mà qua Tin mừng, chúng ta đã thấy, Ngài đã kéo nhân loại lên với Ngài khi Ngài vừa “nhập thể vào đời”: Ngài đã làm cho đôi chân bé bỏng của người thôn nữ Maria băng ngàn vượt suối mang Tin Mừng Nhập Thể báo cho người chị họ Isave. Người đã làm cho Gioan Tiền Hô, nhãy cửng lên vui mừng trong lòng mẹ khi được Ngài viếng thăm…Rồi Người đã kéo đám mục đồng ở Bê Lem khỏi giấc ngủ triền miên để bừng dậy trong nổi vui ngút ngàn được gặp hài Nhi Cứu Thế và đã lôi kéo Ba Vua Phương Đông lẽo đẽo qua muôn dặm đường trường để theo dấu sao lạ về chiêm bái Vua trời…Và rồi sau đó, những kẻ mù què điếc câm, những người thu thuế bị kết án khinh khi, những cô gái điếm sống vật vờ vất vưởng bên lề đời, những người phung cùi bất hạnh trong hoang mạc cách ly…tất cả đã được “Ngài kéo lên với Ngài” để mĩm cười sung sướng vì được chữa lành, vì được yêu thương, vì được hoán cải, đổi đời. Ngài đã kéo những mảnh đời tưởng đâu đã chôn sâu trong lòng đất lạnh như con trai của bà góa ở Naim, như chàng thanh niên Lagiarô ở Bêtania…đã ngẩng mặt lên rạng rỡ với bình minh cuộc sống…Trong cái nhìn của Đức Kitô, mọi hành vi tưởng chừng vụn vặt, tầm thường như Giakê thập thò trèo lên cây sung đón đợi đã trở thành cơ duyên gặp gỡ, việc xức dầu của Maria ở Bêtania đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, những đồng xu bé nhỏ của một bà góa nghèo đã trở nên kho tàng vô giá, và những trẻ em bé bỏng dại khờ đã trở nên những”khách quí danh dự và xứng đáng đầu tiên trong bàn tiệc Nước trời”
Vì là “Đường, Sự Thật, Sự Sống”, quả thật Đức Kitô đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời: Kẻ nghèo hèn không phải bị bỏ đi mà là “được chúc phúc”, nước mắt khóc than không còn là bất hạnh phải tránh né mà là dấu chỉ để được phúc ủi an”…Cuộc sống lam lủ khó nghèo không còn là kiếp đọa đầy ô nhục mà đã trở thành “bài trường ca của khiêm hạ yêu thương trên giai điệu của thánh gia Nadarét”.
Đức Kitô đã kéo mọi sự lên với Ngài bởi vì “Ngài là “Đường, Sự Thật, Sự sống”. Ngài đã làm cho cuộc hành trình buồn thảm về Emmaus của hai môn đệ năm nào trở nên cuộc hội ngộ đầy tin yêu hy vọng, Ngài đã biến quán trọ Emmaus tưởng chừng vắng lạnh với hoàng hôn ly biệt đã bừng lên như bữa tiệc hoan vui, và bữa điểm tâm giản đơn trên bờ hồ Tibêriát thuở nào đã trở thành “lễ hội Phục sinh” cho những ai qui tụ xung quanh Ngài tìm được sức trẻ để ra đi buông lưới.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng nói với chúng ta rằng: trong Đức Kitô phục sinh, mọi sự đã được phục hồi, cho dù đó là một “mặt trái” với đầy oái ăm bi đát. Bi đát như cuộc thương khó thập Giá của Ngài đã trở thành hy lễ tình yêu và phương thế cứu chuộc, bi đát như cuộc đời đáng tủi hổ của Maria Mađalêna, của Matthêô, của Agustinô, của … đã trở nên nhân chứng của Tin mừng. Quả thật “phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên viên đá góc tường” là như thế!
2. Trên con đường của Đức Kitô hôm nay:
Là những môn sinh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi hãy can đảm nhìn thẳng vào cuộc đời và con người trong chính đôi mắt ấy, trong chính cái nhìn của Đức Kitô, của tin Mừng cứu độ. Chính vì thế, mà Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong suốt cuộc hành trình Mục tử của Ngài đã không ngừng dạy bảo chúng ta “đừng sợ hải đón nhận Đức Kitô vào cuộc sống, đừng bỏ cuộc trong cuộc phiêu lưu tìm kiếm Đức Kitô”.
Nếu Đức Kitô thật sự là Đường dành cho tôi, thì cuộc sống của tôi, của gia đình tôi hôm nay sẽ thế nào đây? Tham lam ích kỷ, ghen ghét hẹp hòi…hay rộng rải quảng đại khoan dung? Nếu Đức Kitô thật sự là Đường, thì tôi có đủ can đảm dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng Tám Mối, của Giới luật yêu thương hay cứ mãi rẽ sang lối khác để đi theo cái tôi tôi đầy dục vọng đam mê thấp hèn của mình? Nếu Đức Kitô là Đường dẫn tới Chúa Cha, thì liệu tôi có còn hăm hở đọc và lắng nghe Lời Chúa, sốt sắng mỗi ngày tìm kiếm thánh ý Chúa qua kinh nguyện và hy sinh… hay đang đóng chặt cõi lòng và con tim về phía của Thiên Chúa, về phía Giáo Hội, để mở sang các kênh khác đầy hấp dẫn của hưởng thụ, bạc tiền, danh vọng và những hào nhoáng khác?
Nếu Đức Kitô là Sự Thật, Sự Sống, thì cuộc sống của vợ chồng, con cái, của ông bà cha mẹ trong gia đình Kitô hữu hôm nay liệu có biến đổi gì không? Là một hỏa ngục của ghen ghét hận thù, tham lam dối trá…hay là một tổ ấm, là cái nôi để mọi nhân vị được lớn lên và phát triển? Cuộc sống trong tương quan xã hội cứ phải bon chen gian lận, mạnh được yếu thua may nhờ rủi chịu…hay mỗi ngày phải được chuyển biến để sự thiện, sự lành thay cho gian ác, để ngay chính thay cho dối gian, để bác ái yêu thương thay ghét ghen đố kỵ!
Nếu Đức kitô là Đường, Sự Thật, Sự Sống, thì thánh lễ tái diễn Hy Tế Thập Giá của Ngài được cử hành mỗi ngày có còn là một “bữa tiệc hấp dẫn tôi đến dự thường xuuyên với con tim trân trọng sốt mến, hay chỉ là một cử hành nhàm chán bất đắc dĩ phải tới tham quan? Tòa Giải tội có còn là nơi để tôi nhận được chiếc áo mới của lòng Cha tha thứ mặc cho hay chỉ là một “của nợ” cũng đành “kéo gai qua trổ” cho khỏi bị mang tiếng là vô đạo?...
Quả thật, trên con Đường của Đức Kitô hôm nay, chúng ta lại phải bắt đầu. Bởi vì, như lời Đức Cố Giáo Hoàng G.P.II nói với giới trẻ năm 1988: “Khám phá Đức Kitô là một cuộc phiêu lưu đẹp nhất đời chúng con. Nhưng khám phá ra Ngài một lần mà thôi thì không đủ. Mỗi khám phá người ta có về Người lại trở thành một lời mời gọi kiếm tìm Người hơn nữa…”. Chính thái độ khao khát của Tôma, của Philipphê trong Tin Mừng hôm nay đã nhắc bảo chúng ta hãy lên đường khám phá Đức Kitô, đến gần Đức Kitô, học biết và yêu mến Đức Kitô nhiều hơn nữa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?”…”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thì chúng con mãn nguyện”.
Và chúng ta đừng quên: sự khám phá Đức Kitô để tiếp tục tiến bước trên con đường của Ngài không phải là những chuyện “chọc trời khuấy nước”, những công trình vĩ đại lớn lao, những hy sinh hảm mình của những bậc tu trì đạt đạo, những suy niệm thần bí cao siêu… mà cốt yếu là những hành vi ứng xử bình thường trong cuộc sống mỗi ngày, những hy sinh thầm lặng, những việc phục vụ âm thầm, những chiến đấu và chiến thắng tính hư tật xấu với cái tôi, những tràng hạt mân côi, những thánh lễ…Đó chính là những”mũi chỉ đuờng kim dệt nên tấm thảm họa hình Đức Kitô” mà trong lúc nhất thời, nhìn từ mặt trái, chúng ta sẽ không nhận ra cái nét đẹp tuyệt vời của “bức tranh tổng thể”.
Nếu Đức Kitô là “hạt Lúa Mì rơi xuống mãnh đất trần gian và đã mục nát đi qua cuộc tử nạn của Ngài” thì hôm nay, nhờ cuộc phục sinh vinh hiển, Ngài đã trở thành “Mùa Lúa Mới” mà Hội Thánh chính là hiện thực. Và rồi để có được một Hội Thánh như hôm nay, một Đền thờ vĩ đại, một “Cây Tùng Vạn cổ tỏa bóng khắp địa cầu, đã có bao nhiêu máu xương và nước mắt, hy sinh và nguyện cầu, những anh chị em Kitô hữu đã chọn và đã đi trên con đường của Đức Kitô. Quả thật họ là “những viên đá sống trong Ngôi Đền thờ thiêng liêng”. Hội Thánh đó, Ngôi Đền thờ thiêng liêng đó lại đang có tôi, có chị, có anh tiếp tục được mời gọi đóng góp phần mình để mỗi ngày mỗi tráng lệ hơn, khang trang hơn, vững chắc hơn…
Chúng ta có thể kết thúc bài chia sẻ hôm nay bằng một đoàn thơ cầu nguyện của Charles Singer, (La Cathédrale de ma vie) khi ông ví cuộc đời mình chính là một “Ngôi Thánh Đường” mà ông phải cần cù đẽo gọt suốt bao năm tháng.
Lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường của đời con,
Không thể xong trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải qua nhiều năm tháng,
Cùng với nhiều biến dạng của thời gian….
Thế nhưng, con mãi mãi vững tin vào sức mạnh,
Chẳng phải từ nơi con để vượt thắng giòng đời,
Mà tâm nguyện: chỉ nơi Ngài, lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường con sẽ tựa trung kiên,
Để trụ vững giữa đảo điên nhân thế,
Để hiên ngang đứng giữa bể dâu đời.
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con không quá lời đâu:
Là Thiên Chúa, là Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà Kiến Trúc của đời con.
64. Hãy tìm một chỗ trong trái tim Chúa
Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta cơ hội tốt để kiểm tra lại tình hình giáo hội địa phương. Các bài đọc công vụ mùa Phục sinh gây ấn tượng Hội thánh tiên khởi có sự đoàn kết chặt chẽ và vững bền, nhờ đức tin vào Chúa Kitô sống lại. Nhưng thực tế chúng ta không luôn cảm nghiệm như vậy ở các Hội thánh địa phương. Thường xảy ra những tranh cãi lớn nhỏ. Trên bình diện quốc gia và quốc tế cũng vậy, luôn có đe doạ chia rẽ về nhiều vấn đề. Thí dụ, những năm cuối đời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tiếng nói đòi ngài từ chức không phải là hiếm, có những lúc tưởng như đổ vỡ. Hiện nay ở giáo phận tôi phục vụ, các trường công giáo đang là một vấn đề. Kẻ đòi đóng cửa vài trường vì không đủ kinh phí, người khác đề nghị đầu tư thêm. Cuộc tranh cãi có lúc bùng nổ lớn, lan đến các phương tiện truyền thông xã hội. Không hiểu tháng 9 tới đây (mùa khai trường) vụ việc sẽ được quyết định ra sao? Hiện thời thì chưa ngã ngũ. Lại còn việc các giáo sỹ gây gương xấu, trách nhiệm của các vị lãnh đạo giáo phận đến đâu Ai buộc phải từ nhiệm, ai không?
Trước sự lớn mạnh và nhiệt thành của giáo đoàn tiên khởi, hình như sách công vụ tông đồ chỉ chú ý ghi lại phần tích cực, bỏ qua những tiêu cực, cho nên chúng ta nghĩ rằng mình kém cỏi hơn các vị tiền bối trong đức tin. So sánh với Hội thánh tiên khởi, các Giáo hội hiện thời luôn phải đối mặt với nhiều sa sút, chia rẽ. Vì vậy, hình như chúng ta không được “chính thống” như các tín hữu đầu tiên. Đó là cảm nghiệm chung mọi người đều thấy được. Tuy nhiên, bài đọc 1 hôm nay không củng cố quan điểm đó, ngược lại nó cho thấy các tín hữu cũng có những “khó khăn” riêng: Số là khi cộng đồng thêm đông, các tín hữu gốc Do thái nhưng nói tiếng Hy lạp cảm thấy bị thiệt thòi vì các goá phụ của họ không được anh em đồng đạo Do thái chính gốc đối xử cộng bằng. Sách Công vụ kể: “Thời đó các môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do thái theo văn hoá Hy lạp kêu trách những tín hữu Do thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.” Rõ ràng giáo đoàn tín hữu đã gặp sự khác biệt về sắc tộc và bất bình đẳng trong các thành phần cộng đoàn. Dấu chỉ hợp nhất chứng minh Chúa phục sinh đang hiện diện không còn chặt chẽ nữa. Tuy lúc đầu, sách công vụ kể cộng đoàn làm chứng mạnh mẽ Chúa đã phục sinh bằng dấu chỉ họ yêu thương, đoàn kết với nhau khăng khít. Nhưng bây giờ chủ nghĩa thiên tư đã để lộ chân tướng. Họ cố tình bỏ quên những kẻ thấp cổ bé miệng trong cộng đoàn. Đây cũng là thách đố của chúng ta hôm nay. Khi đọc đoạn Kinh Thánh này, chúng ta nên thành thực với ơn Chúa Thánh Thần, loại trừ khỏi tâm hồn thói giả hình giả điệu, dấu diếm những lỗi lầm, làm ra vẻ là môn đệ Chúa, nhưng thực tế lòng đầy gian tham, ghen tỵ và loại trừ lẫn nhau. Hãy noi gương giáo đoàn tiên khởi, giải quyết các khó khăn trong ơn Chúa và sự thật. Duy chỉ sự thật mới giải thoát chúng ta khỏi chia rẽ. Lấp liếm không phải là cách giải quyết tốt. Cứ như tông đồ công vụ thuật lại thì toàn bộ giáo hữu tụ họp, không thấy kể có ai vắng mặt. Họ cùng bàn bạc và nhất trí chọn ra 12 thanh niên Do thái gốc Hy lạp, đầy Thánh thần. Các tông đồ đặt tay trên họ để thành lập một nhóm riêng, có nhiệm vụ trông coi vật chất cho cộng đoàn. Chẳng bao lâu sau, người ta thấy nhóm này cũng đi rao giảng Lời Chúa như Stêphanô ở Giêrusalem, Philiphê ở Samaria. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp đỡ các tông đồ, phân phát nhu cầu vật chất cho những người thiếu thốn. Hôm nay trước bàn thờ thánh thể, chúng ta cùng cầu xin cho chúng ta ý thức được nhiệm vụ chính yếu của mình là rao giảng Lời Chúa, săn sóc những người thiếu thốn, yếu đau, bệnh tật và đừng tìm kiếm thanh danh, lợi lộc riêng tư.
Bài Phúc âm trích diễn từ cuối cùng của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly. Bối cảnh là sau biến cố rửa chân, Chúa Giêsu loan báo Giuđa phản bội. Các môn đệ nhìn nhau bối rối, rồi chuyển sang hoang mang về tương lai. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi.” Các tông đồ hoang mang vì khi Chúa ra đi rồi các ông sẽ rơi vào hoàn cảnh như rắn mất đầu, con cái không cha mẹ, đạo binh không tướng lãnh. Họ biết chống đỡ ra sao với các thế lực thù địch, nhất là với quyền bính đền thờ đang tìm cơ hội để tiêu diệt họ? Đúng là họ sẽ gặp nhiều khó khăn nếu vắng bóng Chúa Giêsu giữa họ. Ngày nay cũng vậy, Hội thánh sẽ vô cùng lo sợ nếu Chúa không hiện diện để nâng đờ hằng ngày. Bởi kẻ thù của mình, đứng đầu là Satan, luôn chờ cơ hội để quấy phá và nếu có thể được thì tiêu diệt luôn. Đức Thánh cha, hàng giáo phẩm, những vị có trách nhiệm đều cảm thấy được như vậy. Cho nên, năm 1978, khi vừa đắc cử giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã phải tuyên bố ngay trước giáo dân tại quảng trường thánh Phêrô: “Anh chị em đừng sợ!” Một lời bảo đảm vững chắc nhưng bao hàm tình hình quá ư bấp bênh, đầy nguy hiểm. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về thái độ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ đang sợ sệt. Ngài nói nhiều về Chúa Cha: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”(c 2). Ngài là đường dẫn đến Chúa Cha (c 4). Xem thấy Thầy là xem thấy Cha (c 7). Những lời ngài giảng dạy, các việc ngài làm là của Chúa Cha (c 10). Tất cả những nội dung đó bảo đảm Ngài luôn ở với các môn đệ và Hội thánh. Ngài không để chúng ta một mình bơi qua biển đời trần gian, chống chọi với phong ba bão táp của hoả ngục. Đến đây, xin liên tưởng tới trường hợp của Phêrô đi trên biển vào ban đêm để đến với Ngài (Mt 15, 22), hay mẻ cá lạ lùng sau một đêm làm vịêc luống công (Ga 21, 3).
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” bao hàm nhiều chân lý khác nữa và đối với các môn đệ, chúng hợp thành nền tảng đức tin của họ vào Ngài. Ngài thực sự là con đường để các môn đệ đến với Chúa Cha, thay vì những tục lệ của các lãnh đạo tôn giáo áp đặt trong việc tuân thủ lề luật, thì chỉ cần tin vào Chúa Kitô. Ngài chính là con đường để mọi người được cứu độ. Ngoài Ngài ra không có con đường nào khác nữa. Tin vào Chúa Giêsu, chúng ta được hưởng tràn đầy thánh nhan Thiên Chúa. (Tôi và Cha tôi là một). Ai thấy Chúa Con thì cũng thấy Chúa Cha (Ga 6, 16). Ngoài ra, Ngài là con đường yêu thương đưa đến sự sống. Cho nên, muốn học biết yêu thương thì phải học với Ngài, chứ không bày ra những tưởng tượng rồi gọi đó là yêu thương. Yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các giới răn của Ngài. Yêu thương nhân loại là làm gương lành gương sáng cho họ, lôi kéo họ về với tình thương của Thiên Chúa. Như vậy, Ngài đích thực là con đường chúng ta tin cậy. Con đường duy nhất mặc khải cho chúng ta biết về bản tính Thiên Chúa. Chúng ta vững lòng tin theo khi Ngài rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về sự tha thứ Người ban cho những linh hồn sám hồn. Nếu ai đó rêu rao về một Thiên Chúa trả thù, oán giận, hằn học, chúng ta có thể bỏ ngoài tai. Chúa Giêsu chính là chân lý về Chúa Cha. Sống theo như Ngài đã sống dẫn đưa nhân loại đến thể hiện hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa. Do đó, nếu chúng ta mường tượng ra một lối sống khác, kỳ quặc thì đấy là lối sống của ma quỷ. Tai hại thay, thiên hạ thường cỗ võ lối sống này, rồi hô là văn minh, hợp thời đại, không bị tụt hậu, hay nói nhẹ nhàng hơn “nhân bản”. Tôi nhớ cha Bernard Pro O.P. phát biểu một câu chí lý: “Dieu seul est humain - Chỉ một mình Đức Chúa là nhân bản”, còn loài người dù sống tốt thế nào đi nữa cũng vương mùi tục luỵ. Cho nên, đừng kiêu ngạo, tự hào mình “nhân bản” hơn Thiên Chúa. Con đường của Chúa là nhân bản tối thượng.
Chúng ta không có khả năng tự thân sống theo cuộc sống của Chúa Giêsu, cũng chẳng tự sức lấy Ngài làm gương mẫu. Đúng hơn, Ngài là “sự sống” của mỗi người. Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào ơn Ngài để có thể sống như Ngài. Đây là chân lý nền tảng của cuộc đời tinh thần. Chúng ta phải ghi nhớ luôn, kẻo sai lầm, sống theo khả năng riêng, xa rời giới răn của Chúa Giêsu. Từ đó, sinh ra tự phụ về đàng thiêng liêng. Chúa Giêsu là nguyên lý của sự sống siêu nhiên, chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có thể sống tốt. Ngoài ơn Ngài ra là sống sai lầm. Sống buông thả theo dục vọng của mình thì thế nào gọi là có ơn Chúa hướng dẫn? Khi Ngài tuyên bố với các môn đệ: “Thầy về cùng Thiên Chúa Cha” tức thời các môn đệ nhớ lại lời hứa của Ngài là Ngài sẽ trở lại mang họ cùng đi với Ngài: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, Thầy đi dọn chỗ cho anh em và Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy.” Trong khi chờ đợi Chúa thực hiện chân lý đó, chúng ta cần cầu xin Thần khí của Ngài gìn giữ mình trung thành với ơn nghĩa Chúa. Lễ Ngũ tuần đã gần kề, nhớ lại biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống chan hoà trên Giáo hội tiên khởi, chúng ta cũng mong ước biến cố này còn tiếp tục xảy ra trong hội thánh ngày nay, để Thần khí Chúa thúc đẩy mỗi tín hữu, ban cho mỗi người khả năng sống thánh thiện theo đời sống Chúa Kitô.
Trong các trường phổ thông cơ sở công giáo, đôi khi người ta tổ chức ngày họp mặt các cựu học sinh. Thường thì vài năm một lần. Đúng là một truyền thống tốt đẹp, đáng ghi nhớ. Mỗi lớp sẽ gửi thiếp mời đến các học sinh cũ của nhà trường, chỉ định ngày giờ. Mọi người hồi hộp đợi ngày trở về tổ ấm (homecoming), gồm cả những nhân vật thành đạt trên trường đời như tổng thống, thương gia, nghĩ sĩ, nghị viện, không loại trừ vô danh tiểu tốt. Trong thánh lễ tạ ơn, người ta chọn đọc bài phúc âm hôm nay. Đó là một chọn lựa khôn ngoan, bởi lẽ Chúa Giêsu tuyên bố Ngài đi là để dọn chỗ cho các môn đệ và Ngài sẽ trở lại mang họ theo. Phải chăng đây không phải là một sự trở về tổ ấm thực sự hay sao? Ý nghĩa thật sâu sắc! Những học sinh đã rời nhà trường tản lạc đi khắp ngả đông tây để kiếm sống, danh vọng, địa vị, tiền tài. Bao nhiêu thời giờ, nghị lực, tham vọng đã bỏ ra cùng muôn nỗi nhớ nhung ngôi trường cũ, bạn bè xưa. Nay được trở về sum hợp, đúng là cơ hội mừng vui. Những mối giàng buộc thân tình ngày xưa lại được làm cho sống lại. Ai nấy đều cảm thấy hạnh phúc, tạm thời gạt bỏ những khó nhọc vì công việc hằng ngày.
Có điều gì đó liên quan đến lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống” cho những cựu sinh viên, và cho toàn thể tín hữu, khi mà việc trở về họp mặt với Chúa Giêsu trong vương quốc ân sủng, trong hạnh phúc tuyệt vời. Bởi Ngài chính là tổ ấm của chúng ta. Những linh hồn đón nhận Ngài đều cảm nhận nơi Ngài có nhiều chỗ ở, không phải đợi tới đời sau mới được, mà ngay từ đời này. Chính cuộc sống của Ngài là địa chỉ họp mặt của tất cả chúng ta. Khi Ngài đồng bàn với các môn đệ không thấy đặt bảng hiệu chỉ rõ chỗ ngồi cho những chức sắc hay vị trí của những kẻ thân cận tri kỷ. Mọi người đều bình đẳng, không phân biệt nghèo khó, sang giàu, người thu thuế hay thợ chài lưới, Phêrô hay Gioan. Ngược lại, Ngài cung cấp chỗ nghỉ ngơi cho những ai gồng gánh nặng nề, ủi an những linh hồn đau khổ, phiền muộn. Tất cả đều được danh dự trước mặt Ngài, tìm thấy sự ấm cúng trong trái tim Ngài và được Cha Ngài yêu thương. Chẳng lạ gì mọi người dù tội lỗi đến đâu cũng được Ngài tiếp đón. Khi rao giảng Ngài luôn ban phát ơn lành cho những linh hồn gặp Ngài. Thí dụ, các phụ nữ nơi công cộng, Ngài chấp nhận họ như những môn đệ của mình, điều mà các thầy thông luật, các biệt phái từ chối. Nếu họ là những tội nhân, những người bị thần ô uế ám hại, các kẻ bị loại trừ vì lý do tôn giáo, các thân phận ngoài lề xã hội, chắc chắn họ tìm thấy nơi nương ẩn nơi lòng thương xót của Ngài, vì Ngài giải thích lề luật theo căn bản của nó, chứ không đặt thêm gánh nặng trên vai người có lỗi bằng các tập tục, các thói lệ của đời xưa, xa lìa ý định Thiên Chúa. Ngài là sự hiện diện của Thiên Chúa trước mặt các tội nhân. Vì vậy, người trộm lành được một nơi cư ngụ tốt đẹp trên thiên đàng. Chị phụ nữ ngoại tình được ơn tha thứ và bình an. Ngài ngỏ lời với tất cả các linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa: “Chúc mừng cuộc trở về tổ ấm nhà ta.”
Đúng vậy, Chúa Giêsu cung cấp mái ấm cho những ai lắng nghe và chấp nhận lời Thiên Chúa. Nội dung được gói ghém trong tuyên bố: “Ta là con đường, là sự thật và là sự sống”. Bất cứ những ai chấp nhận Ngài như vậy đều tìm thấy nơi cư ngụ trong trái tim Thiên Chúa, không sợ bị loại bỏ ra ngoài. Hãy để những thứ phù phiếm trôi vào quá khứ. Những tội lỗi, tham vọng, gánh nặng vào hư vô. Bởi chúng ta là con Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nghiệm Ngài như cha mẹ và Ngài ra đi để dọn chỗ cho chúng ta. Đức tin vào Chúa Giêsu như vậy là nơi cư ngụ của nhân loại. Ngài ban khả năng cho chúng ta sống tốt, làm điều thiện hảo. Nhờ đó, những kẻ còn ở xa có thể tìm thấy nơi ở vững bền. Những người yếu kém về kinh tế, xã hội tìm được sự nâng đỡ thăng tiến. Hôm nay, trước bàn thờ Thánh thể, buổi phụng vụ của chúng ta đúng lý phải là nơi cư ngụ quen thuộc cho hết thảy mọi người, thường xuyên dự lễ hay khô khan nguội lạnh. Nhưng thực tế không được như vậy. Có những kẻ còn bị loại trừ như di dân, ly dị, đồng tính luyến ái, con hoang, xì ke, ma tuý, trộm cướp, v. v. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người tìm thấy chỗ ở trong trái tim Chúa. Xin Ngài củng cố chúng ta trong các hoạt động bác ái ngõ hầu Hội thánh, thế giới này trở thành mái ấm cho mọi linh hồn, không phân biệt già trẻ, trai gái, sắc tộc, trình độ, sang hèn. Chúng ta đợi trông Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự để trái đất này thực sự là mái ấm cho loài người cư ngụ. Bởi vì tự thân chúng ta chẳng thể thực hiện được ước mơ đó. Amen.
65. Chú giải của Noel Quession.
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến".
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30); rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36). Sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga13,37-38). Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ. Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta. Một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp. Bao lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!” Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu đang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân Người một thái độ đđc tin mâ người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA, Hãy tin vào THẦY” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác; và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy, Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình; Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ…
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy, trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng rất thân thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban cho chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi”, “chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người”.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: “chúng con không biết...". Tình cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tương lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Kh 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? Tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu, trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: ' Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây dường như Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".
Phải, đâu có một con người là Giêsu Na-da-rét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người; một người sắp chết như mọi người; và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
66. Chú giải của Fiches Dominicales.
TA LÀ ĐƯỜNG LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Đường về với Chúa.
Cũng giống như Chúa nhật tới, bài Phúc âm Chúa nhật thứ 5 Phục Sinh hôm nay trích từ chương 14, diễn từ sau bữa tiệc ly, với những từ như "ra đi", "đi tới", "trở lại”, “con đường”. A.Marchadour minh định chương này ("được kết cấu xung quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Cha vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn huynh đệ của mình về với Chúa Cha. (Tin Mừng Gioan, Centurion, 1992, p. 190) những lời loan báo liên tiếp về việc Giuđa phản bội (“một trong các con sẽ phản Thầy":14,2) về cuộc ra đi dứt khoát của riêng Ngài ("Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa” 13,38) và về việc Phêrô chối thầy (trước khi gà gáy, con đã chối ta ba lần: l3,38) đã khiến các môn đệ hoang mang - Dufour nhận xét "sự hoang mang ấy không chỉ vì phải xa cách Người thực sự cần thiết cho đời họ, mà cũng còn vì nỗi thất vọng sâu xa khi lượng giá công việc của Chúa Giêsu mà họ đang trông mong kết quả" (Đọc Tin mừng theo thánh Gioan, tập 3, Seuil, 1993, tr 90). Do đó mới có lời Đức Giêsu kêu gọi: "Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy chớ gì họ cậy dựa vững vàng vào lời Ngài và vào chính Ngài. Dufour viết tiếp: "Đức Giêsu dựa trên niềm tin của người Do thái, và những người không bao giờ tự coi mình độc lập trong mối liên hệ với Thiên Chúa, Đấng ban cho thụ tạo sự kiên vững của đá tảng, Ngài cũng dựa vào niềm tin vào chính mình Ngài, nếu họ còn có thể theo Ngài, các môn đệ chỉ dựa vào Ngài, như dựa vào chính Thiên Chúa". Vì thế nếu Ngài có ra đi, thì cũng chính là để trở lại nhà Cha, nơi Ngài sẽ "dọn chỗ sẵn cho họ". Từ chủ đề "ra đi" bài diễn từ sau bữa tiệc ly bắt sang ‘đường đi’, Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó. Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi Đức Giêsu bảo họ như vậy bấy giờ Tôma mới hỏi: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?" Chúa long trọng đáp "Thầy, Thầy chính là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy! Dufour đã diễn dịch câu nói ấy như sau: 'Tôma, nếu anh tin Thầy là chân lý và là sự sống, chắc chắn anh sẽ tìm thấy nơi Thầy con đường đưa về với Cha, đó là nơi Thầy đi đó là nơi Thầy ở. Đức Giêsu, trong đoạn 10,9, đã tự coi mình như là "cửa" dẫn đến sự sống, ở đây, lại nói như mình đã ở nơi mà các môn đệ muốn đến, bằng công thức vắn gọn này, Ngài thực sự công bố về tính đồng nhất sẽ còn vang vọng mãi trong nên chiêm niệm Kitô giáo" (p. 100)
2. Bày tỏ Chúa Cha.
Thấy thế, Philipphê mới lên tiếng: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện rồi và Đức Giêsu đáp lại thấy Thầy, là thấy Chúa Cha rồi trong cuộc sống, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu là một biểu hiện hoàn hảo hình ảnh của Chúa Cha vì người kết hợp mật thiết với Chúa Cha "Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?” cuộc sống của Ngài, đó là Chúa Cha thực hiện qua Ngài, lời Ngài nói đó là tư tưởng của Chúa Cha.
3. Đức Giêsu tiếp tục làm việc qua các môn đệ.
Nhắc lại lời mời gọi tin tưởng trên, Đúc Giêsu bắt đầu mạc khải cho các môn đệ biết cuộc sống mới của họ sẽ ra sao: "Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Cho dù, hay đúng hơn Ngài về cùng Cha, mà các môn đệ sẽ sống cuộc sống Ngài không ngần ngại đồng nhất với cuộc sống chính mình. Dufour còn minh định thêm: Không phải vì cuộc sống của Ngài vẫn là gương mẫu, nhưng vì chính Ngài sẽ là tác giả đích thực của những họ thực hiện, đọc kỹ bản văn, người ta thực sự thấy rằng người tín hữu sẽ không làm những việc Đức Giêsu đã làm, nhưng là những việc Ngài đang làm và sẽ làm: Chúa Cha tiếp tục được tôn vinh nơi trần thế, từ đây, sứ mệnh Ngài đã hoàn tất phải đơm bông kết trái trong thời gian và không gian: và điều ấy được thể hiện nơi hành động của các tín hữu." (p.l07)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Thiên Chúa thật gần".
Khi Phúc âm thứ tư được viết ra, chắc chắn "những biến cố" đã xẩy ra hơn 60 năm, các cộng đoàn tín hữu ở Palestine, Tiểu Á, và các nơi khác đã chịu rất nhiều đau khổ. Họ phải chịu những cuộc tấn công dai dẳng trong các vùng có người Do thái. Họ đã bị chính quyền Rôma bách hại triền miên. Đặc biệt niềm tin của các Giáo Hội Tiểu Á lúc ấy đã rung động trước những luồng tư tưởng cho rằng mình khiến người ta quá tin vào trời cao mà khinh chê trần thế, chỉ để ý đến tâm hồn mà coi thường thân xác nhưng cuộc sống thề trần và sự phục sinh có đối nghịch đến độ phải khước từ cuộc sống này để sống cuộc sống kia không? Chẳng lẽ cứ phải trải qua cái chết mới được phục sinh hay sao?
Tác giả Tin Mừng nhấn mạnh: người tín hữu đã sống cuộc sống phục sinh ngay trên trần thế này. Niềm tin vào Đức Kitô hằng sống đã xóa bỏ khoảng cách giữa những sự dưới đất và trên trời. Niềm tin ấy giúp người ta sống ngay trên trần thế cuộc sống vĩnh hằng của Thiên Chúa. Chân lý thật khó hiểu và khó chấp nhận, cũng thế, Đức Giêsu nhà sư phạm đại tài, để dẫn đưa người nghe vào trong ánh sáng của Thiên Chúa, đã lợi dụng sự cứng tin của Tôma và Philipphê "Thưa Thầy chúng tôi không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con được đường?" Lầm lớn? Đây không phải con đường tính được bằng kilômét. Khoảng cách giữa cuộc sống trần thế và cuộc sống phục sinh không lớn hơn khoảng cách giữa Chúa Cha và Chúa Con: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha. Niềm hi vọng về điều đã có và chưa có sẽ triển nở và đâm bông trong lòng người tín hữu như vậy đó.
Hoàn cảnh của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại. ("Célébrer", số 258, tr.34, tháng 3.l996)
Đâu là vị trí của cộng đoàn tín hữu giữa cuộc sống trần gian của Đức Giêsu và ngày Ngài trở lại?
Trước tiên, cộng đoàn tín hữu sống trong mềm hi vọng vô bờ một ngày kia sẽ được sống với Đức Giêsu rong nhà Cha Ngài: "Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”! Sau đó họ biết được đường đi: "Thầy là đường là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" hơn thế nữa, họ còn biết được Chúa Cha, họ đã “thấy” Ngài: “Ai thấy Thầy, là thấy Chúa Cha" Thấy Đức Giêsu, dĩ nhiên là biết được Ngài bằng niềm tin, là "nhận ra Ngài là con duy nhất, là lời sáng tạo vĩnh hằng đến độ khi Đức Giêsu nói, tôi biết rằng Ngài nói những lời của Chúa Cha, khi Đức Giêsu hành động, chữa lành, tha tội, phó mình cho đao phủ, tôi biết rằng Ngài làm theo ý Chúa Cha và Chúa Cha đã chữa lành, tha tội, tự hiến hoàn toàn qua Ngài. Tôi biết Cha và Con là "một”!
Như vậy, cộng đoàn tín hữu đã thực sự biết Đức Giêsu bằng đức tin, đến lượt mình có thể nhận biết Chúa Cha và hoàn thành những công việc của Người được không? được, Đức Giêsu nói thế và còn hơn thế nữa, vì Thầy đến cùng Chúa Cha”. Qua những lời này, ta có thể hiểu rằng Đức Giêsu phục sinh đã mặc lại trọn vẹn sức siêu nhiên mà Ngài đã tự giới hạn khi mặc lấy thân phận tôi đòi mặc lấy nhân tính. Cũng vậy, một khi đã được mời gọi tiếp tục sự nghiệp của Chúa Giêsu trên trần gian cộng đoàn các Tông đồ, bằng đức tin của mình, thực sự thông phần với Thiên-Chúa, họ là cộng đoàn những người con trong Đức Giêsu, Thiên-Chúa Con.
67. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
c.1: “Lòng chúng con đừng xao xuyến”: Sau lời loan báo Giuđa sẽ nộp Thầy (13,18-30), lời loan báo Phêrô sẽ chối Thầy (13,36-38) và lời loan báo Đức Giêsu sẽ ra đi (13,33), lòng các môn đệ rất hoang mang bối rối. Do đó Đức Giêsu an ủi họ đừng xao xuyến.
“Cứ tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”: Động từ tin được dùng tới 6 lần trong phần này. Điều kiện để khỏi hoang mang xao xuyến là phải tin: tin vào Thiên Chúa và tin vào Ngài.
c.2-3: Đức Giêsu giải thích lý do Ngài ra đi: đi để về nhà Cha và để dọn chỗ cho các môn đệ. Xong xuôi rồi Ngài sẽ trở lại đón các môn đệ cùng đi đến nhà Cha, khi đó thầy trò sẽ sum hợp.
- “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”: Irénée, Clément d’Alexandrie và Origène dựa vào câu này để nghĩ rằng trên thiên đàng có nhiều cấp bậc hạnh phúc. Thực ra câu này chỉ đơn giản nghĩa là thiên đàng có đủ chỗ cho mọi người.
- Sau khi dọn chỗ xong thì Ngài trở lại cùng đi và thầy trò sum hợp.
- “Thầy ở đâu, chúng con cũng ở đó”: “Đức Giêsu nói với các môn đệ “Thầy sẽ trở lại đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Trái lại Người nói với dân Do thái: “Tôi ở đâu, các ông không thể đến được” (7,34) Thế cũng bởi vì Đức Giêsu ở đâu, kẻ phục vụ Người cũng sẽ ở đó (12,26). Mà các môn đệ chấp nhận làm môn đệ của Người, còn dân Do thái thì không. Nên đúng theo định nghĩa của người môn đệ là “người đi theo”, các môn đệ sẽ được đi theo Đức Giêsu và ở với Người” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 210)
- Như thế là Thầy trò sẽ sum hợp. Nhưng khi nào? Có người nghĩ là đến ngày Tái lâm (Parousia); kẻ khác nghĩ là ngày chết của mỗi người. Cả hai lối giải thích đều đúng.
* Nếu các môn đệ phải xa cách Thầy mãi mãi thì các ông xao xuyến là phải. Nhưng đây chỉ là xa cách tạm thời, sau đó thầy trò lại sum hợp, mà sum hợp vĩnh viễn hạnh phúc trong nhà Cha, thì có gì mà xao xuyến!
c.4-7: Câu hỏi của Tôma:
- Tôma là người đa nghi. Dù Đức Giêsu đã nói Ngài đi về nhà Cha, nhưng đối với Tôma, cái “nhà Cha” ấy còn mù mờ xa xôi quá. Ông chưa dám dấn thân vào một tương lai không chắc chắn như vậy, nên ông hỏi lại cho rõ: cụ thể Đức Giêsu sẽ đi đâu và các môn đệ sẽ dùng con đường nào để theo Ngài.
- Đức Giêsu giải đáp cả hai thắc mắc của Tôma: cứ đi theo Ngài là đúng đường và sẽ tới đích, vì Ngài là đường (Le chemin), con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha. “Đức Giêsu đã ví mình với con đường, vì “đường” là một trong những tượng trưng của Thánh Kinh. Theo Cựu Ước, nghe lời Thiên Chúa gọi là tin tưởng vào Người, dân Israel ra đi và phải trải qua một con đường dài và cực nhọc để tới Đất Hứa. Do đó “đường” là tượng trưng cho cuộc Xuất Hành (Đnl 1,3-33; 2,1-2; 8,2-10 Tv 77,20. 136). Một khi đã vào Đất hứa, dân Israel cũng còn phải ăn ở theo đường Thiên Chúa bảo mới được lãnh phần thưởng muôn đời (Đnl 32,4; Tv 25,10; 128,1; 147,19-20; Br 3,13-14.37; 4,1). Mà Thiên Chúa đã mặc khải những đường hướng ấy trong Luật Môsê. Do đó, “đường” còn là tượng trưng cho Luật Môsê. Trong Tân Ước, Thiên Chúa mặc khải những đường hướng của Người qua trung gian Đức Giêsu. Vị trung gian tuyệt đẳng và sau hết. Do đó, “đường” vẫn còn là tượng trưng. Nhưng đối tượng của tượng trưng đã thay đổi, không còn phải là đường trong sa mạc, cũng không phải là luật Môsê, mà là Đức Giêsu (Mc 8,34 Mt 16,24 Lc 9,23 Dt 10,20)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211)
- Sở dĩ Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha vì Ngài là sự thật (chân lý). “Thánh Gioan thường mượn ngôn ngữ của Cựu Ước và của Do thái giáo. Trong ngôn ngữ ấy, chân lý (hay sự thật) có nghĩa là tiếng nói của thánh ý Chúa liên quan đến loài người và đời sống chân lý của loài người. Chân lý ấy, xưa kia, được truyền đạt cho loài người qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ; nhưng ngày nay, chân lý ấy được mặc khải qua trung gian Đức Giêsu (Ga 1,17). Một cách sâu rộng hơn, chúng ta có thể nói rằng Đức Giêsu và Chân lý mà Người mặc khải là một, vì, khác với ông Môsê và các ngôn sứ, Người là Chúa Con nhập thể và, vì thế, Người là Lời tuyệt hảo của Chúa Cha (1,1.14), là chân lý được Chúa Cha phát biểu bằng cuộc sống và lời nói của Đức Giêsu (17,8.14 1,18)” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh, sđd, trang 211). Nói cách khác, Đức Giêsu là sự thật về Chúa Cha nghĩa là: cứ nhìn vào Ngài là biết Chúa Cha. Tất cả mặc khải Cựu Ước chỉ là chuẩn bị và dọn đường cho mặc khải trọn vẹn và đích thực nằm trong bản thân Đức Giêsu.
- Và cũng vì Đức Giêsu là đường, là sự thật như thế, nên Ngài cũng là sự sống: “Muốn sống vĩnh cửu, loài người phải nghe và làm theo lời Thiên Chúa phán. Mà Thiên Chúa phán qua trung gian Đức Giêsu (12,50). Hơn nữa Đức Giêsu không phải chỉ nói lời của Thiên Chúa như ông Môsê hay các ngôn sứ. Người chính là Lời tuyệt đẳng của Thiên Chúa. Vì thế chẳng có gì lạ khi Người là “sự sống” (Lm Tanila Hoàng đắc Ánh sđd, trang 212)
c.8-10: Câu hỏi của Philipphê:
- Philipphê hơi ấu trĩ, khi nghe nói về Chúa Cha thì nghĩ đến một cảnh thần hiện theo kiểu ngày xưa Thiên Chúa hiện ra cho Môsê, Êlia, Isaia v.v… và ông muốn mình cũng được thấy cảnh đó như vậy.
- Đức Giêsu đáp “Ai thấy Thầy tức là thấy Chúa Cha rồi đấy”: Thiên Chúa không còn hiện ra trên đám mây hay trong những thị kiến. Từ nay Thiên Chúa tỏ mình cho loài người qua hình dáng nhân loại của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hình ảnh mặc khải trọn vẹn Chúa Cha. Thực vậy Đức Giêsu chính là Lời mặc khải trở thành xác thịt và ở giữa loài người (1,14). Khi Lời đã ở giữa loài người thì tất cả những nơi xưa nay người ta thường đến để gặp Thiên Chúa như đền thờ Giêrusalem hoặc đền thờ Garizim hay bất cứ nơi nào khác cũng đều trở thành vô ích, vì nơi duy nhất để gặp Thiên Chúa chính là Đức Giêsu. Tại sao? Vì “Thầy vốn ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”: Chúa Cha và Đức Giêsu không thể tách rời nhau, cả hai chỉ là một. Tất cả những lời Ngài nói và những việc Ngài làm đều là những lời nói và việc làm của Chúa Cha.
c.11: Đức Giêsu khuyến khích các môn đệ tin rằng Chúa Cha và Ngài luôn ở trong nhau và là một với nhau. Nếu họ chưa thể tin bằng lời của Ngài thì ít ra hãy tin vì thấy những việc Ngài làm, tức những phép lạ, những “dấu chỉ” cho thấy có Chúa Cha hoạt động trong Ngài.
c.12: “Ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy làm, lại còn làm được việc to hơn nữa”: a/ Các môn đệ được Đức Giêsu thông ban quyền lực của Ngài, nhờ đó họ cũng làm được những phép lạ như Ngài; b/ Nước Trời mà Đức Giêsu lập hiện còn rất nhỏ bé, nhưng Đức Giêsu thông quyền giúp các môn đệ mở mang Nước Trời ấy “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Không phải các ông giỏi hơn Ngài, nhưng hoạt động của các ông sẽ triển khai mầm mống đã được Ngài đặt sẵn. Điều kiện duy nhất để các ông làm được như vậy là phải tin vào Ngài.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu nhắn gởi lời khuyến dụ này cho các môn đồ Người thuộc mọi thời đại. Người kêu gọi họ giữ vững lòng tin vào Người trong những bước đường tối tăm và trong các cơn dông tố thiêng liêng của cuộc đời, đồng thời hãy dâng cho Người một tình yêu quảng đại và vâng phục, tình yêu sẽ đặt họ vào trong tình yêu thân mật của Ba Ngôi Thiên Chúa và sẽ làm cho họ sống trong bình an và hoan lạc của Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Bản văn này tóm tắt sứ điệp Tin Mừng Gioan. Nó diễn tả cách gián tiếp điểm đặc trưng và sâu xa nhất của đời sống Kitô hữu. Nó là một phần trong toàn bộ các lời nói của Chúa Giêsu giải thích về chính mình Người. Cùng một trật nó trình bày cho thấy Người là gì đối với chúng ta và chúng ta phải trở nên nhất thế nào đối với Người. Chúa Giêsu là một người thật, hoàn toàn giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi, nhưng đồng thời được tràn đầy thực tại thần linh sống động đến nỗi trở nên duy nhất và đồng hóa với Chúa Cha trong hữu thể, trong bản chất và trong đời sống: Người mặc khải Chúa Cha cách đích thực, Người mặc khải chúng ta là những kẻ Cha đã ban cho Người và Người muốn rằng Người ở đâu, chúng ta cũng ở đó. Người cầu nguyện và hành động để trong Người chúng ta được thông phần vào sự sống Chúa Cha ban. Ở đây, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm dày đặc đối với tâm trí nhưng sáng tỏ cho những ai dấn thân cách sống động nhờ đức tin.
2) “Lòng các con chớ xao xuyến. Các con tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào Ta". Đây là một cách Chúa bảo rằng nòng cốt đức tin của chúng ta là chính Người, bản thân của Người, sứ điệp Người. Ta có thể tự hỏi: Làm sao Chúa Giêsu Kitô, vốn là Thiên Chúa, lại có thể nói về Thiên Chúa như nói về một Đấng khác với chính Người. Ở đây chúng ta đụng đến một trong những khía cạnh của mầu nhiệm Nhập thể. Nghĩa là mầu nhiệm Thiên Chúa xâm nhập vào thời gian, vào không gian và vào trong những giới hạn của con người. Con Thiên Chúa, có thể nói, là đã tự giới hạn mình vào trong những chiều kích của thực tại nhân loại, mà vẫn không thôi là chính Người. Chúa Giêsu muốn bảo điều này: Con người hữu hình của Người dễ gần gũi với hành động đức tin của chúng ta hơn là Thiên Chúa vô hình; sự kiện lạ lùng là lòng tin của chúng ta vào Người làm cho chúng ta đụng đến Đấng không thể nào tới gần được. Khi tin vào người là Chúa Con, chúng ta có thể tin vào Chúa Cha. Mà tin vào Chúa Cha là nguyện vọng và tiếng gọi sâu xa nhất của con người vốn thường bị đau khổ làm cho xao xuyến. Niềm tin tưởng ấy làm cho sự xao xuyến tách ra khơi chúng ta và mang lại bình an, sức mạnh, niềm vui.
3) "Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống". Trong cuộc sống của người-không-có-Thiên-Chúa, dường là một hệ thống tư tưởng hay là sự khôn ngoan, sự thật là một chọn lựa giữa nhiều ý kiến, sự sống là một sinh hoạt, một tình yêu suy nhược, và thường là một sự chịu đựng. Đối với người-có-Chúa-Kitô, thì sự sống là một sự thông hiệp mà những khám phá có sức làm được điều ta tưởng là bất kham. Trong Chúa Kitô, người Kitô hữu tìm được đường đi, lối về, nhờ đó họ vượt qua những biên giới của thế gian. Mà tự bản chất là một cánh cửa đóng kín tuyệt vọng. Hơn nữa con đường này, tức là Chúa Kitô, là một lời mời gọi ra đi, tiến tới đằng trước, vươn mình lên mãi. Người Kitô hữu khám phá nơi Chúa Kitô câu trả lời cho nhu cầu bí mật mà con người cảm thấy, là phải nương tựa vào một cái gì vửng chắc để luôn có thể tìm kiếm mãi. "Con sẽ không tìm Ta, nếu con đã không gặp Ta" (Th. Augustin). Sự thật sống động không bao giờ là một cái gì hoàn toàn đạt được, nhưng nó bảo đảm với ta rằng nó xác thực. Càng gặp Chúa Giêsu, ta càng tìm kiếm để biết Người hơn. Khỏi phải nói là biết Chúa Kitô là trước tiên sống bởi Người. Khi ta sống bởi Chúa Kitô, phải chăng các thực tại tự nhiên của đời sống đều thay đổi. Không, người Kitô hữu có một sinh hoạt nhân sinh và thực tế như tất cả mọi người, nhưng sinh hoạt ấy được một cái hồn. Có một cách suy nghĩ, một cách chọn lựa mục đích, một cách gặp gỡ con người... được hướng dẫn bởi sự hiện diện của Chúa Kitô trong cuộc đời. Chúng ta có biết ngạc nhiên về điều không thể làm được lại trở nên có thể được cho chúng ta trong Chúa Kitô không?
68. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
TẠI SAO ĐỨC GIÊSU LẠI CĂN DẶN CÁC MÔN ĐỆ ''ĐỪNG XAO XUYẾN''?
Trong buổi tĩnh tâm các linh mục quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động xem ra mâu thuẫn.
Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét (x. Lc 6, 20-22); hay "ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24); hoặc làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Đấng toàn năng, vô tận với một hạt cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là "Con Thiên Chúa, Đấng hằng sống"; “Đấng công chính!" lại phải chấp nhận sự chết và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).
Những mâu thuẫn kiểu như thế, hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận, chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!
1. Sự xao xuyến của Đức Giêsu
Thực ra trong cuộc đời của Đức Giêsu, Ngài cũng đã nhiều lần xao xuyến, chẳng hạn như:
Nhìn niềm tin trong viễn cảnh tương lai, Đức Giêsu đã thốt lên: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8); rồi khi về Giêrusalem, Ngài cũng thốt lên lời than thở "Giêrusalem, Giêrusalem! [...] Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu” (Lc 13,34); hay trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Ngài cũng trải qua nỗi xao xuyến thực sự, bởi vì chỉ còn một ít nữa thôi, Ngài sẽ từ biệt các môn đệ, sẽ bị bắt, do chính môn đệ thân tín của mình trao nộp, rồi Ngài cũng thấy trước được những đau khổ vì mình mà các ông phải chịu. Nỗi xao xuyến ấy bao trùm lên Thầy trò, khi kẻ đi người ở... Sự xao xuyến ấy dần càng tăng lên khi trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy sợ hãi, và Ngài đã than thở với các môn đệ: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức!” (Mc 14,34), và Ngài mướt mồ hôi máu. Sau đó, Ngài đã cầu nguyện tiếp: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mc 14, 36). Cuối cùng, nỗi xao xuyến này được dâng lên đến tột đỉnh trên Thánh Giá, khi cơn đau đớn thấu con tim, báo hiệu giờ hấp hối đã gần, Ngài đã lớn tiếng kêu lên Thiên Chúa Cha: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 14, 34).
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã trải qua những cơn xao xuyến. Thật ra, sự xao xuyến của Đức Giêsu cho thấy, Ngài vừa là Thiên Chúa và cũng là con người, nên những nỗi xao xuyến đó của Ngài như là con đường để dẫn đưa chúng ta là những người cũng xao xuyến đến sự sống đời đời.
Tại sao chúng ta lại xác tín điều đó, thưa, vì lời căn dặn của Ngài “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), là khả tín, đáng tin. Bởi vì sự xao xuyến này đã ngang qua cuộc đời của chính Đức Giêsu, và Ngài đã biến nó thành niềm hy vọng khi tin tưởng và tín thác nơi Thiên Chúa Cha là Đấng khơi nguồn và cùng đích của mọi sự.
2. Sự xao xuyến của các môn đệ
Sau Đức Giêsu, sự xao xuyến cũng không buông tha các môn đệ. Các ông xao xuyến là bởi vì trước khi nói những lời ly biệt, Đức Giêsu đã tiên báo Phêrô sẽ trối Thầy (x. Ga 13, 38); Giuđa thì bán Thầy (x. Ga 14, 21); các môn đệ sẽ bỏ chốn (x. Mt 26, 56). Như thế, các ông thấy trước những viễn cảnh đó sẽ xảy ra, nên các ông lo sợ cho giờ phút kinh hoàng này sẽ đến với Thầy mình và các ông đều bị liên lụy là lẽ tất yếu.
Nỗi xao xuyến của các ông còn là nỗi sợ cô đơn. Các ông đã bỏ mọi sự, vợ con, nhà cửa, sự nghiệp để đi theo, ấy vậy mà giờ đây các ông sắp phải chia tay Thầy của mình. Sự chia tay này theo lối hiểu của các ông chẳng khác gì “rắn mất đầu”; hay “tàu không người lái”. Vậy thì các ông sẽ đi đâu và về đâu đây???
Thêm một lý do nữa khiến các môn đệ xao xuyến, đó là: khi còn sống với các ông, Đức Giêsu hướng dẫn, dạy dỗ và dẫn dắt các ông từng ly từng tý, vậy Ngài sắp ra đi thì ai là người dẫn lối chỉ đường cho các ông?
Buồn sầu và xao xuyến của các môn đệ là lẽ thường tình nơi thân phận con người trước những điều không may, nguy hiểm, chia ly, từ biệt, rồi phải đối diện với chốn trần gian đầy tục lụy, thù hằn, thử thách và ngay cả cái chết như Thầy của mình.
Tuy nhiên, những sự xao xuyến đó của các ông đã được Đức Giêsu trấn an khi nói: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Chỉ có niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa mới có thể giúp các ông vượt qua mọi gian nan, thử thách xảy đến trong cuộc sống trần gian; còn khi các ông xao xuyến không biết về đâu thì chính Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3), rồi khi các ông xao xuyến không biết định hướng cho cuộc sống tương lai thì Đức Giêsu lại nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Đường ở đây không phải Đức Giêsu muốn nói về một lối đi theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn các ông hiểu rằng: Ai yêu mến, tôn thờ, sống theo lời Ngài thì chắc chắn đến được với Chúa Cha. Vì Đức Giêsu và Chúa Cha là một. Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha!; cuối cùng, sự ra đi của Đức Giêsu đem lại lời hứa hẹn tràn đầy niềm vui và bình an khi Ngài hứa trao ban Chúa Thánh Thần trên các ông. Như vậy, Đức Giêsu ra đi thì tốt hơn cho các ông, vì Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần đến dạy dỗ các ông biết những điều mà trước đây, các ông không thể hiểu được! (x. Ga 14, 26).
Như vậy, qua lời trấn an của Đức Giêsu “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài muốn mặc khải cho các ông thấy rằng: quê hương họ ở trên trời (x. Pl 3, 19), mà Đức Giêsu sẽ là người đầu tiên trở về với nguồn cội, nơi mà từ đó được phát xuất ra để dọn chỗ cho họ. Vì thế, các ông đừng xao xuyến, hãy tin vào Thầy, trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở.
3. Sự xao xuyến của con người ngày hôm nay
Trong thực tại cuộc sống, chúng ta thường gặp những cảnh ngộ nhiều lúc không được như lòng mong muốn. Tâm trạng này của mỗi chúng ta cũng chính là tâm trạng của các môn đệ khi xưa, nào là: sự cô đơn; quan điểm và thực trạng xã hội hoàn toàn xa lạ với đường lối của Thiên Chúa, của Tin Mừng; rồi ốm đau; bệnh tật... nào là con cái hư hỏng; nào là buôn bán không gặp thời; nào là thất vọng vì những gương xấu trong cuộc đời; hay chính những chuyện tốt ta muốn làm mà cũng không được... Những sự xao xuyến ấy luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, nó theo chúng ta như hình với bóng, vì thế, triết gia Martin Heideiger khi suy tư về con người, ông đã nói về sự xao xuyến này như sau: “Con người là một hữu thể bị ném ra cuộc đời, hiện hữu giới hạn trong thời gian, nghĩa là con người sống để mà chết. Và bởi con người sống và đi đến cái chết không thể tránh khỏi, nên con người mang nỗi khắc khoải khôn nguôi. Cái chết và nỗi khắc khoải được định nghĩa là thành tố làm nên con người hiện sinh. Đời người là như vậy. Chẳng ai làm người mà vô sự”.
Tuy nhiên, đối với chúng ta là người kitô hữu, chúng ta có một niềm tin mạnh mẽ, đó là: đằng sau cái chết là sự sống vĩnh hằng. Niềm tin này hôm nay được Đức Giêsu mặc khải: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở [...] Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 1-3); hay lúc khác Đức Giêsu nói: “... tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).
Như vậy, chết không phải là hết. Cuộc sống này chỉ là một sự chuyển tiếp mà thôi. Khi tin như thế, Chúng ta có quyền hy họng vào lời căn dặn, trấn an của Đức Giêsu: “Anh em đừng xao xuyến!” (Ga 14,1).
Một mẫu gương đáng để chúng ta noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống....đó chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: "Sự sống đời đời là hiểu biết và yêu mến Đức Kitô và Đấng đã sai Ngài... lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt, nước mắt của tình yêu".
Đó là bí quyết sống niềm tin, phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói... của chúng ta hãy quy chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa và cuộc sống đời sau.
Quê hương ấy được thánh Giáo phụ Augustinô diễn tả như sau: “Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn nhan Thiên Chúa là phần thưởng”.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con không bị rơi vào tình trạng xao xuyến trước những điều bất trắc trong cuộc sống, xã hội và con người hôm nay, bởi xác tín rằng, quê hương chúng con ở trên trời, và mọi điều trái ý đó xảy đến như là một điều kiện cần cho được cứu rỗi. Có thế, chúng con hy vọng sẽ được vào nơi mà Đức Giêsu đã đi trước dọn đường và chuẩn bị cho chúng con. Amen.
69. Con đường Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một tác giả đã nói lên tính cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: "Thưa ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như thế mỗi ngày?". Ông từ nhà thờ giải thích: "Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi". Người tổng đài điện thoại mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: "Thật là buồn cười, trong khi ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của tôi theo tiếng chuông của ông".
Tác giả của câu chuyện trên kết luận: "Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự mình tìm ra được câu trả lời". Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống. Kinh Thánh, lời của Ngài, thường ví cuộc sống như một cuộc hành trình. Từ lúc Nô-ê xuống tàu, Ap-ra-ham cất bước ra đi vào vùng đất xa lạ, đến ngày vội vã ra đi của Đức Maria, và cả cuộc đời không ngừng di động của Chúa Giêsu. Tất cả đều là những hình ảnh diễn tả cuộc hành trình trong đức tin của người Kitô hữu.
Đời người là cuộc hành trình, ra khỏi lòng mẹ là nhập cuộc và ra đi không ngừng: tuổi trẻ và thanh niên được dệt đầy những năng động để không ngừng dự phóng và sáng tác. Tuổi trung niên thành công tràn ngập, nhưng thất bại cũng giăng đầy những lối đi: có những người bạn chợt đến rồi đi, vui tươi hớn hở chớm nở, nhưng thất vọng cũng bao trùm. Rồi tuổi già đến, chúng ta nhận ra rằng: tất cả trên đời này chỉ là tạm bợ.
Đời là một hành trình, Đức Kitô đã trải qua đời trần thế bằng không biết bao nhiêu cuộc hành trình: Sinh ra trong một cuộc hành trình, và mở mắt chào đời để phải vội vã ra đi như một người tị nạn, năm 12 tuổi, lạc mất trong một cuộc hành trình, trong cuộc sống công khai, Ngài không ngừng đi lại khắp nẻo đường Pa-lét-tin, và cuối cùng Giêrusalem, đồi Can-vê là điểm đến của cuộc hành trình. Qua cuộc hành trình không ngừng nghỉ ấy, Đức Kitô đã tuyên bố: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống", nghĩa là ai tin Ngài và đi theo dấu chân của Ngài mới thực sự tìm được hướng đi cho cuộc hành trình. Ngài là con đường dẫn chúng ta về cõi phúc vinh quang.
Thực vậy, trên thế giới không thiếu những con đường nổi tiếng, nhưng có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy thắp sáng hy vọng để dẫn tới nhà Cha trên trời. Đó là con đường mang tên Giêsu. Đúng vậy, đối với chúng ta, chỉ có một con đường duy nhất để được cứu độ, để đạt tới cuộc sống bất diệt và hạnh phúc vĩnh cửu, tên gọi của con đường ấy là Giêsu.
Đi trên đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Đi trên đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ giữa lòng đời. Đi trên đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bởi vì con đường của Giêsu chính là con đường của yêu thương, sống trong phục vụ là lúc chúng ta đang đi trên con đường của Chúa.
Vì hoàn cảnh, ơn gọi mỗi người thường khác nhau, không phải ai cũng thích hợp với ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Nhưng một điều chắc chắn mà có lẽ ít khi chúng ta nghĩ tới, đó là tất cả chúng ta đều được Chúa kêu mời nên thánh, sống hạnh phúc trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Chúa Giêsu đã sống ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa của Ngài một cách tuyệt đối hoàn hảo và đã trở thành mẫu gương lý tưởng cho chúng ta. Vì thế, Chúa bảo chúng ta hãy đi theo con đường của Ngài trong suốt hành trình của cuộc sống. Với Chúa, chúng ta sẽ không cảm thấy cô đơn. Chúng ta sẽ mệt mỏi, nhưng không kiệt quệ. Chúng ta sẽ khổ đau, nhưng không thất vọng. Chúng ta sẽ chán nản, nhưng không bị bỏ rơi. Chúng ta kiếm tìm hạnh phúc, và chúng ta sẽ đạt được.
Xin Chúa là ánh sáng, là đường đi, là chân lý, hướng dẫn chúng ta lúc nào cũng đi trên con đường của Chúa, để sau cuộc hành trình đời này, chúng ta được về bên Chúa là cùng đích của chúng ta.
70. Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thầy
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh)
Nếu chủ đề của 3 tuần đầu của Mùa Phục Sinh là "sự sống lại", và chủ đề của 4 tuần cuối của Mùa Phục Sinh là "sự sống", thì chủ đề "sự sống" của 4 tuần cuối này sẽ được Phúc Âm theo Thánh Gioan Giáo Hội chọn đọc trong chu kỳ Phụng Vụ Năm A thứ tự cho thấy các khía cạnh của chủ đề ấy như sau:
Tác động "Sự sống": "Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin nơi Thày" (Chúa Nhật V)
Tác nhân "Sự sống": "Thần Chân Lý... ở với các con và ở trong các con" (Chúa Nhật VI)
Tác dụng "Sự sống": "Chính ở nơi họ mà Con được vinh hiển" (Chúa Nhật VII)
Như thế, vấn đề "sự sống" của Chúa Nhật V tuần này là lòng "tin". Thật vậy, như bài chia sẻ lần trước đã đặt vấn đề "sự sống" một khi đã được thông ban từ Lời Nhập Thể là Chúa Kitô, thì để thông hưởng "sự sống" này, con người cần phải "nhận biết Người" (Jn 1:11), tức phải "chấp nhận Người" (Jn 1:12), vì "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô" (Jn 17:3). Tác động "nhận biết" hay "chấp nhận" đây là gì, nếu không phải cũng chính là tác động "tin". Đó là lý do tác động "tin" là tác động tỏ ra thực tại "sự sống" nơi chủ thể tin, như hơi thở là dấu có sự sống thể lý nơi sinh vật, hay thực tại sự sống được thể hiện qua tác động "tin", như sự sống thể lý được thể hiện qua hơi thở của sinh vật vậy. Thế nhưng, phải "tin" những gì hay đối tượng của tác động "tin" là gì? Và "tin" sẽ phát sinh những gì, hay tác dụng của tác động "tin" ra sao?
Theo bài Phúc Âm hôm nay, đối tượng của tác động "tin" đó là chính "sự sống" hiệp thông nơi Thiên Chúa: "Các con không tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày hay sao?"; "Các con hãy tin Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày". Và tác dụng của tác động "tin" chính là Quyền Năng Thần Linh: "Thày bảo thật cho các con biết con người tin vào Thày sẽ làm được những việc Thày làm mà còn làm được hơn cả những việc ấy nữa". Nếu Quyền Năng Thần Linh là biểu hiệu cho hay là chính Thánh Thần (xem Lk 1:35), thì bài Phúc Âm hôm nay hàm chứa ý nghĩa về Sự Sống Thần Linh của Ba Ngôi Thiên Chúa được thể hiện nơi chủ thể "tin". Nghĩa là con người "tin" là con người được "sự sống", và "sự sống" này là chính "sự sống" của Chúa Ba Ngôi, và họ sống là sống chính "sự sống" của Chúa Ba Ngôi.
Đối tượng của tác động "tin" đó là chính "sự sống" hiệp thông nơi Thiên Chúa
Thật vậy, "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24), Ngài đã ban "sự sống đời đời là nhận biết..." cho con người bằng cách tỏ mình cho họ nơi Con Duy Nhất của Ngài là Chúa Giêsu Kitô (xem Jn 3:16), Đấng Ngài sai (xem Jn 17:3). Phần Lời Nhập Thể, Người cũng đã đến thế gian "để tỏ Cha ra" (Jn 1:18), bằng cách tỏ mình thật sự "là phản ảnh vinh quang Cha, là hiện thân đích thực của bản thể Cha" (Heb 1:3). Đến nỗi, như Chúa Kitô đã khẳng định với dân Do Thái "Cha và Tôi là một" (Jn 10:30), cũng như với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: "Ai thấy Thày là thấy Cha". Con người không thể nào trực tiếp thấy Cha hay biết Cha nếu không được Con Ngài, Đấng Ngài sai, tỏ ra cho biết. Bởi thế, Chúa Giêsu mới bày tỏ cảm nhận của chính mình với Cha của Người trước mặt các môn đệ rằng: "Không ai biết Con trừ Cha, cũng như không ai biết Cha trừ Con và những ai Con muốn tỏ Cha ra cho biết" (Lk 10:22).
Đó là lý do, để trả lời cho tông đồ Philiphê trong bài Phúc Âm hôm nay về lời vị tông đồ này "xin Thày hãy tỏ cho chúng con biết Cha là chúng con mãn nguyện rồi", Chúa Giêsu mới than với riêng vị tông đồ này cũng như với chung các tông đồ là: "Thày hằng ở với các con bấy lâu mà các con vẫn chưa biết Thày hay sao?" Ở đây, tông đồ Philiphê xin được "biết Cha", Chúa Kitô lại đặt vấn đề "biết Thày". Thế nhưng, để biết Chúa Kitô có thực sự là Đấng Thiên Sai hay chăng, tức là Người có thực sự ở trong Cha hay chăng, cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, Người đã cho các tông đồ biết thêm những dấu chứng về lời Người nói và việc Người làm hoàn toàn cho thấy Người bởi Cha và từ Cha như sau: "Những lời Thày nói thì không phải tự Thày mà chính Cha là Đấng sống trong Thày hoàn tất các công việc của Ngài". Trong câu nói này, phần đầu Chúa Kitô đề cập đến "những lời Thày nói", phần sau Người lại lái sang "các công việc của Cha". Bởi thế, cũng trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Kitô đã kêu gọi các tông đồ rằng: "Hãy tin Thày là Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày, bằng không hãy tin nơi những việc Thày làm". Qua câu nói của Chúa Giêsu đây, chúng ta có thể suy ra tại sao Chúa Giêsu nói với các tông đồ về một tác động "tin" song lại có một đối tượng lưỡng diện đó là Thiên Chúa và Thày: "hãy tin vào Thiên Chúa" tức là hãy tin rằng "Cha ở trong Thày", hay tin rằng Cha là Đấng đã sai Thày, và "hãy tin ở nơi Thày" tức là hãy tin rằng "Thày ở trong Cha", hoặc tin rằng Thày được Cha sai. Tóm lại, "Hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thày", nghĩa là, như Chúa Giêsu cho thấy trong Lời Nguyện Tiệc Ly dâng lên Cha của Người về sứ điệp Người đã nhận từ Cha để chuyển đạt cho thành phần thuộc về Người: "Họ biết thật rằng Con từ Cha mà đến và họ tin rằng Cha đã sai Con" (Jn 17:8).
Tác dụng của tác động "tin" chính là Quyền Năng Thần Linh
Đúng thế, có thể nói "tất cả sự thật" (Jn 16:13), tất cả Mạc Khải Thần Linh trong toàn bộ Thánh Kinh nói chung cũng như trong Tân Ước nói riêng, nhất là trong Phúc Âm, chính là ở chỗ này, chính là ở Thực Tại Thần Linh này, Thực Tại Sự Sống "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Jn 17:21). Nếu Lời Nhập Thể đến thế gian, như lời Người khẳng định với tổng trấn Philatô: "là để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37), thì "chân lý" đó là "Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày". "Chân lý" này chính là một Thực Tại Thần Linh, Thực Tại Thần Linh này chẳng những là một Thực Tại Sự Sống: "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha", mà còn là một Thực Tại Ban Sự Sống nữa, vì Thực Tại Thần Linh này tỏ cho con người một Kiến Thức Thần Linh để họ có thể nhận biết Thiên Chúa như Ngài biết Ngài. Thật vậy, từ Thực Tại Thần Linh này, Thực Tại "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn 1:5) này, mới chiếu tỏa ra một thứ "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Jn 1:9) đó là Lời Nhập Thể, một thứ "ánh sáng sự sống": "Ai theo Tôi sẽ được ánh sáng sự sống" (Jn 8:12). Và "ánh sáng sự sống" phát ra từ "ánh sáng thế gian" (Jn 8:12) là Chúa Giêsu Kitô đây là gì, nếu không phải là "ánh sáng", là Mạc Khải Thần Linh, làm cho con người được "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Giêsu Kitô" (Jn 17:3)? Có thể nói, Thiên Chúa tỏ mình ra nơi Lời Nhập Thể là Ngài muốn ban cho loài người chúng ta một Kiến Thức Thần Linh, tức ban cho loài người chúng ta chính "sự sống", vì "sự sống đời đời là nhận biết (Thần Linh)" (Jn 17:3).
Một khi con người có Kiến Thức Thần Linh, tức có Sự Sống Thần Linh, một Sự Sống vô cùng viên mãn, vô cùng toàn năng, mạnh hơn sự chết, thắng vượt tất cả mọi sự dữ (x Mk 16:17-18), họ có thể, đúng như Chúa Kitô đã khẳng định với các tông đồ: "làm được hơn cả những việc Thày làm". Sở dĩ, về khốn khó "đầy tớ không hơn chủ" (Jn 15:20), nhưng về hoạt động, môn đệ lại có thể làm hơn sư phụ của mình, là vì, như Chúa Giêsu cho biết lý do trong bài Phúc Âm hôm nay, "Thày về cùng Cha". Nghĩa là Thày không đích thân làm việc nữa, mà là chính "sự sống và là sự sống viên mãn hơn" ở trong môn đệ của Người làm việc qua họ, nên môn đệ mới chẳng những làm được những việc như Thày làm mà còn hơn thế nữa. Chỗ "hơn thể nữa" ở đây tức là những việc họ làm vượt quá khả năng tự nhiên của một loài thuần nhân như họ, chẳng những chứng tỏ cho thấy sự hiện diện của Sự Sống Thần Linh, "sự sống viên mãn hơn" (Jn 10:10), nơi chính bản thân mỗi người chúng ta, mà còn làm cho Sự Sống Thần Linh này sáng tỏ trên thế gian và lan truyền trên thế gian nữa (x Jn 17:21,23). Chỗ "hơn thế nữa" ở đây tức là Thày không đích thân làm, song chỉ bằng quyền lực danh của Thày mà các môn đệ làm được những việc phi thường, như trường hợp hai tông đồ Phêrô và Gioan đã nhân danh Thày mà chữa cho một người què bẩm sinh tại Cửa Đẹp ở Giêrusalem (x Acts 3:1-26, 4:1-22). "Chính ở nơi họ mà Con được hiển vinh" (Jn 17:10) là như thế.
Thế nhưng, để đến được chỗ này, chỗ "được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn", Chúa Kitô cần phải, như Người nói với các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: "Thày đi để dọn chỗ cho các con". Vậy, nếu "trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ", mà "nhà Cha" ở đây ám chỉ nội tâm của Thiên Chúa, ám chỉ Ý Thức (Thần Linh) nơi Thiên Chúa, hay ám chỉ đến Sống Hiệp Thông nơi Thiên Chúa, (đó là lý do chỉ khi nào người con phung phá trở về nhà Cha, tức trở về với Ý Thức Thần Linh, trở về Sống Hiệp Thông với Ngài, mới thật sự "như chết mà sống lại" - Lk 15:24,32; và Thiếu Nhi Chúa Giêsu năm 12 tuổi "phải ở lại nhà Cha" chính là việc Người phải sống Ý Thức Thần Linh, phải Sống Hiệp Thông với Cha Người - Lk 2:49), thì "trong nhà Cha Thày có nhiều chỗ" ở đây hàm ý về một "sự sống viên mãn hơn". Vậy việc "Thày đi để dọn chỗ cho các con" đây là Thày đi "tự hiến để họ được thánh hóa trong chân lý" (Jn 17:19), tức để "họ nhận biết là Con từ Cha mà đến, và tin rằng Cha là Đấng đã sai Con" (Jn 17:8), nghĩa là để họ biết Ý Thức Thần Linh, Sống Hiệp Thông với Thiên Chúa, hay "để họ được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn" (Jn 10:10) cũng vậy. Đến đây, chúng ta mới thấy Cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô thực sự là việc "Thày đi để dọn chỗ cho các con", một biến cố là tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh: "Thày ở trong Cha" qua việc Tử Giá, dấu chứng tỏ Người được Cha sai; và "Cha ở trong Thày" qua việc Phục Sinh, dấu Cha chứng tỏ Chúa Kitô đúng là "Đấng Cha sai". Như thế, lời tuyên xưng "Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa tôi!" (Jn 20:28) của tông đồ Tôma trước Đấng Tử Giá Phục Sinh quả thực đã đáp ứng đúng như lòng Chúa Kitô mong muốn và kêu gọi các môn đệ của Người là "hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin ở nơi Thày".
Vấn đề thực hành sống đạo:
Nếu tất cả Mạc Khải Thần Linh hay tuyệt đỉnh Mạc Khải Thần Linh được tỏ hiện ở Mầu Nhiệm Vượt Qua thì việc "tin vào Thiên Chúa và tin ở nơi Thày" chính là Sống Biến Cố Vượt Qua. Và Sống Biến Cố Vượt Qua là gì, nếu không phải là Sống Phụng Vụ và Sống Chứng Nhân: Sống Phụng Vụ ở chỗ Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô Tử Giá và Sống Chứng Nhân ở chỗ Sống Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh?
71. Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống
Anh chị em thân mến,
Ngày 20.04.1999, hai nam học sinh da trắng đã bắn vô trường Trung học Columbine, Colorado, khiến 12 em học sinh phải chết... một thầy giáo và nhiều em học sinh khác bị thương... vì hai em này đã gia nhập vào một tổ chức của Satan, đảng viên của Đức quốc xã. Hai em nhỏ này, cũng trạc tuổi như các em học sinh Trung học khác. Sở dĩ các em có gan lỳ dám phạm tội ác tày trời là giết người không gớm tay, chính vì các em bị nhồi sọ: không tin Thiên Chúa - không tin có Chúa - và cho rằng ai theo Chúa, thì cũng là kẻ ngu đần như người Do thái... Tiếc thay, các em này đã chọn lầm đường: đường của Satan, của bọn Đức quốc xã khát máu! Chỉ có một mình Thiên Chúa mới là đường, là sự thật của nhân loại mà thôi. Bài Tin mừng hôm nay mời chúng ta suy niệm cặn kẻ đề tài này...
a/. Trước hết chúng ta cần tìm hiểu vài câu nói của Chúa Giêsu:
Thầy là đường: con đường là phương tiện đưa người ta tới đích mình mong muốn, cũng là hình ảnh gần gủi với người Do thái. Họ đã lên đường về Đất Hứa (Tv 76, 8). Abraham lên đường về nơi Chúa chỉ (STK 12, 1-5). Con đường cũng là luật pháp Chúa dạy phải theo. Có hai con đường: Tốt và xấu. Người ta có quyền lựa chọn theo hai con đường đó, và phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình (Đnl 30, 15-20). Chúa Giêsu trước khi từ giã môn đệ, Chúa nói rõ cho họ: Ngài là đường dẫn đưa họ về với Chúa Cha, bằng lời nói cũng như bằng công nghiệp của Ngài.
Thầy là sự thật: vừa có nghĩa chắc chắn, thực tế, vừa trung tín và còn là qui tắc vững chắc cho đời sống nữa.
Thầy là sự sống: Chúa là nguồn gốc của sự sống, nên Ngài có thể ban cho chúng ta sự sống mới, đồng thời Ngài có thể cho ta được kết hiệp với sự sống của Chúa Cha. Vì vậy, ai đi trong đường của Ngài, đón nhận chân lý Ngài trao ban, thì sẽ được sự sống của Chúa Cha ở trong Ngài, nhờ đó mà ta sẽ được lớn lên...
b/. Qua bài Tin mừng hôm nay, có hai đề tài ta cần suy niệm:
Thầy là đường là sự thật và là sự sống: Chúa Kitô là đường, là con đường dẫn đưa nhân loại tới với Thiên Chúa. Chúa Kitô cũng là sự thật, vì Chúa Kitô không hề dối gạt ai; và vì Ngài là sự thật, nên Ngài cũng chính là con đường thật, sẽ đưa ta tới đích, chính là Thiên Chúa. Chúa Kitô là sự sống, vì Chúa Kitô là con đường và là sự thật, nên Ngài chính là Người đem lại sự sống thật cho chúng ta... Nói một cách vắn tắt, Chúa Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai; mà Thiên Chúa là Đấng Toàn Mỹ, nơi Thiên Chúa không hề có hình bóng của sự xấu, sự ác; chính vì thế, khi Chúa Kitô tự xưng mình là đường, là sự thật, và là sự sống... Điều đó có nghĩa Chúa Kitô chỉ nói lên sự thật, không hề thêm bớt, và cũng từ đó có ý nghĩa, chỉ một mình Thiên Chúa mới là đường là sự thật và là sự sống mà thôi...
Hội Thánh qua 20 thế kỷ, đã sẵn sàng làm chứng cho chúng ta về niềm tin này: tin Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Trước hết, Hội thánh công giáo qua các tông đồ truyền lại, không bao giờ coi lời nói của Chúa Giêsu ở đây là lời nói chơi, hay có ý gạt gẫm con người chúng ta. Qua lịch sử Hội thánh, các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, đã không dại dột liều mạng sống mình, để minh chứng niềm tin đó cho chúng ta, là con cháu các ngài ngày hôm nay. Vua quan Việt nam, trước gương hi sinh, vui lòng đón nhận cái chết của các thánh tử đạo Việt Nam , họ vô cùng kinh ngạc vì gương can đảm phi thường của các ngài. Thực ra trên đời, là con người có ai không sợ chết? Như thế gương trung kiên bỏ mình của các vị tử đạo, không phải là lời chứng hùng hồn cho chúng ta rằng Đức Kitô, Người thật là đường, là sự thật và là sự sống sao?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: là người kitô hữu, thực ra ta có tin Chúa Kitô là đường. là sự sống thật của chúng ta không? Nếu ta đã tin, ta có muốn yêu mến Chúa Kitô và sẵn sàng sống theo lời Chúa dạy không?
72. Con Đường Giêsu là Tin Yêu và Phục Vụ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc Người sắp từ giã môn đệ mà về trời với Chúa Cha. Người đi trước để dọn chỗ và sẽ trở lại đón các ông lên trời với Người (1-4). Sau đó, Đức Giê-su mặc khải Người chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người. Ai biết và thấy Người là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7). Rồi Người cũng cho biết mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Cha với Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa sẽ ban quyền năng lớn lao cho những kẻ tin vào Người (12).
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Đừng xao xuyến: Sau khi nghe Thầy Giê-su tiên báo Người sắp chịu chết treo trên thập giá (x. Ga 12,32-33), một trong Nhóm Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21) và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38), nên các môn đệ cảm thấy xao xuyến và lo âu chán nản. Vì thế Đức Giê-su đã phải an ủi động viên tinh thần của các ông là “Đừng xao xuyến”. + Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền năng và tình thương của Thầy sẽ cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị. + Nhiều chỗ ở: Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê) thì trên thiên đàng có nhiều cấp độ hạnh phúc khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên đàng có đủ chỗ ở cho tất cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không phải như thế thì Đức Giê-su đã nói rõ để các ông khỏi thất vọng.
- C 3-4: + Đi dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn đệ biết Người không về trời một mình, mà Người sẽ trở lại đón các ông lên trời, để cùng được hưởng hạnh phúc với Người. + Thì Thầy sẽ trở lại: Khi nào Người trở lại? Có ba ý kiến: Ý THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội sơ khai, người ta cho là đến ngày tận thế sắp xảy ra, Chúa Giê-su sẽ lại đến phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho các môn đệ được hưởng hạnh phúc trên thiên đàng với Người (x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau cái chết của mỗi người. Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với các môn đệ sau khi Người từ cõi chết sống lại. Từ đây, Người sẽ hiện diện với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa và ở trong các tín hữu bằng ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ chết, Người sẽ ban cho họ được hưởng hạnh phúc thiên đàng tùy theo công việc họ đã làm khi còn sống (x. Mt 16,27).
- C 5-7: + Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao chúng con biết được đường?: Câu này cho thấy Tôma là một con người thực nghiệm: đòi phải sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô và các người Do thái khác đều không hiểu gì về việc ra đi của Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống: *LÀ CON ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con đường duy nhất dẫn đưa loài người từ mặt đất lên trời cao, giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường cho các tín hữu phải ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ SỐNG: Con đường dẫn đến mục tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người sau khi phục sinh sẽ ban sự sống đời đời cho những ai tin Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu nhờ đức tin sẽ có mầm sống vĩnh cửu trong mình. Họ cần tiếp tục gia tăng mầm sống ấy nhờ lãnh nhận các phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập, và có trách nhiệm làm cho mầm sống ấy phát triển cho đến khi đạt tới sự sống sung mãn trong Thiên Chúa ở đời sau. + Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Từ đây, không ai có thể nhận được ơn cứu độ nếu không đi “con đường thập giá” (x Mt 16,24) và không được tái sinh bởi nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì dưới gầm trời này không một danh nào khác ban ơn cứu độ ngoài danh Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người: Thực ra các môn đệ đã không xem thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa Giê-su cũng như đã xem thấy Chúa Cha rồi, vì Chúa Giê-su chính là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và Người hằng làm đẹp lòng Chúa Cha (x Mt 17,5), vâng theo ý Cha. Có lần Người đã khẳng định: “Tôi và Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
- C 8-10: + Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê yêu cầu Đức Giê-su chỉ cho ông xem thấy Chúa Cha như ông Mô-sê xưa đã xem thấy Đức Chúa trong đám mây trên núi Si-nai (x. St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha: Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết: ngày nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi con người Đức Giê-su. Từ nay không có con đường nào khác để người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, ngoài con đường duy nhất là Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì Người là đầu của thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). + Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy: Chúa Cha được biểu lộ qua Đức Giê-su là Con Một của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Chúa Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn hảo qua đời sống, lời nói và việc làm của Đức Giê-su. Vì Người luôn kết hiệp mật thiết với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.
- C 11-12: + Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm: Đó là được tham phần vào sứ mạng cứu độ loài người của Đức Giê-su. + Còn làm những việc lớn hơn nữa bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải các môn đệ sẽ làm được những phép lạ lớn hơn Đức Giê-su. Nhưng sau khi Người lên trời, các ông sẽ được trao cho sứ mạng thay Người đi loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đến tận cùng thế giới, với ơn phù trợ của Thánh Thần (x.Cv 1,8).
CÂU HỎI:
1) Tại sao các môn đệ bị xao xuyến khiến cho Đức Giê-su phải động viên tinh thần của các ông? 2) Đức Giê-su muốn nói gì qua câu "Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở"? 3) Đức Giê-su đã hứa sẽ đi trước dọn chỗ và khi nào Người sẽ trở lại đón các môn đệ đi theo Người? 4) Khi tự ví mình là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giê-su muốn dạy các tín hữu điều gì? 5) Câu "Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" nghĩa là gì? 6) Ngay từ bây giờ các môn đệ đã xem thấy Chúa Cha qua hình ảnh của ai? 7) Từ đây ai muốn gặp được Chúa Cha thì phải gặp qua người nào? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ làm được những việc Người đã làm và còn làm được những việc lớn hơn nữa, cụ thể là những việc gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. Lời Chúa: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
2. Câu chuyện:
1) THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG QUYỀN NĂNG VÀ VÔ HÌNH:
Một ông vua kia do cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra lệnh triệu tập tất cả các giám mục trong nước vào hoàng cung. Vua ra lệnh cho các giám mục: trong một tuần lễ phải chứng minh được là có Thiên Chúa. Nếu không chứng minh được thì tất cả các giám mục sẽ bị khép vào tội lừa bịp dân chúng và bị án treo cổ. Thật là một đòi hỏi nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được? Rồi càng gần đến ngày hẹn, tâm trạng các vị giám mục càng thêm bồn chồn lo lắng. Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu chuyện, liền đến yêu cầu nhà vua được thay các giám mục chỉ cho nhà vua nhìn thấy Thiên Chúa. Đúng hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng quần thần lên một ngọn đồi đang lúc trưa hè nắng gắt, rồi chỉ tay lên mặt trời và nói: “Tâu bệ hạ, xin nhìn theo ngón tay của thảo dân, thì bệ hạ sẽ thấy Thiên Chúa”. Nhà vua và các cận thần đều nhìn lên mặt trời theo hướng tay của anh tu sĩ kia đã chỉ, nhưng không ai có thể xem thấy gì vì bị ánh sáng mặt trời làm chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền nổi cơn lôi đình truyền thị vệ chém đầu anh tu sĩ trẻ kia vì đã dám đánh lừa mình. Vị tu sĩ liền quỳ dưới chân nhà vua thưa rằng: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi nhìn xem Thiên Chúa. Thế mà mặt trời chỉ là một tạo vật tầm thường của Thiên Chúa, mà bệ hạ đã không thể xem thấy được, thì làm sao bệ hạ đòi nhìn thấy chính Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả được? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người phàm mắt thịt không thể xem thấy Ngài, mà chỉ có thể thấy Ngài bằng mắt đức tin thôi”. Nhờ câu nói này của anh tu sĩ trẻ và các giám mục đã không bị khép tội khi quân và khỏi bị hành hình.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã nói với môn đệ Phi-líp-phê rằng: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình (Ga 14,9-10).
2) TIN VÀO THIÊN CHÚA LÀ NIỀM AN ỦI VÀ HY VỌNG CHO CUỘC SỐNG MAI SAU:
Trong một gia đình nọ. Ông chồng là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa. Dù sống giữa hai niềm tin trái nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo. Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường bệnh rằng: "Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con…
Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: "Bố đã sai rồi con ạ. Con hãy tin theo mẹ con nhé". Đứa con lại nói: "Nhưng nếu bố không cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ của đứa con thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su. Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
3. Suy niệm:
1) Nội dung Tin Mừng hôm nay:
Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ Phi-líp-phê khi ông muốn Thầy chỉ cho xem thấy Chúa Cha. Đức Giê-su nói: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Ngày nay muốn nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giê-su. Vì Người là Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình khi mặc lấy thân xác phàm nhân để nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội (x. Ga 1,14). Đức Giê-su cũng trấn an các môn đệ trước khi bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh như sau: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở" (Ga. 14,1-2).
Tin mừng hôm nay cũng mặc khải cho chúng ta: Mọi người trên trần gian đều có một Cha chung trên trời là Thiên Chúa, và đều là anh em với nhau. Sau này chúng ta sẽ được đoàn tụ với Thiên Chúa và với nhau trên Thiên Đàng. Thánh Phao-lô cũng dạy: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (Pl 3,20). Tuy nhiên chúng ta chỉ có thể lên trời với Thiên Chúa qua con đường Giê-su như Người đã nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha nếu không qua Thầy” (Ga 14,6). Vậy Con Đường Giê-su có những đặc điểm nào? Và chúng ta phải làm gì để đi tới đích là được về quê trời với Thiên Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng?
2) Những đặc điểm của Đường Giê-su?
1) Đức Giê-su là Đường: Con đường lên trời vô cùng khó khăn và vượt quá tầm khả năng hữu hạn của người phàm. Chỉ có Đức Giê-su, Đấng từ trời mà đến, trở thành “Em-ma-nu-el” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, mới có khả năng chỉ đường lên trời cho chúng ta như Người đã nói: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Người luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống (x. Lc 24,15) và ban Thánh Thần giúp chúng ta về tới thiên đàng đời sau.
2) Đức Giê-su là sự thật và là sự sông: Người dạy cho chúng ta sự thật là các mầu nhiệm của Thiên Chúa, ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Người cho chúng ta biết sự thật về Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương loài người và sai Con Một xuống thế để dạy loài người con đường cứu độ và sẵn sàng chịu chết đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống cho loài ngươi. Chính Sự thật ấy sẽ giải thoát chúng ta nếu chúng ta tin vào Đức Giê-su (x. Ga 8,32)
3) Đi con đường của Đức Giê-su là chọn con đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi; Là chấp nhận “qua đau khổ sự chết để vào vinh quang phục sinh” theo thánh ý Chúa Cha; Là “mến Chúa yêu người” theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giê-su; Là “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa”, là khiêm tốn rửa chân phục vụ anh em và quảng đại chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của tha nhân, năng thăm viếng an ủi những người sầu khổ bất hạnh… Là sẵn sàng chịu đựng những sỉ nhục và đau khổ vì danh Chúa như các Tông đồ xưa. Tóm lại là sống theo bản hiến chương Nước Trời là “Tám Mối Phúc Thật“ do Chúa Giê-su đã công bố.
3. Chúng ta phải làm gì?:
- Nên đồng hình đồng dạng với Đức Giê-su: Trở thành Ki-tô hữu tức là thành một Chúa Giê-su khác trước mặt người đời. Mỗi tín hữu chúng ta phải sống thế nào để có thể nói được rằng: “Ai biết tôi là biết Chúa Giê-su. Ai thấy tôi là thấy Chúa Giê-su, vì chính Chúa Giê-su đang sống trong tôi”. Từ nay, chúng ta cần xác tín rằng: Chỉ có Con Đường Giê-su mới dẫn đưa chúng ta lên trời. Tông đồ Phê-rô cũng đã quả quyết trước Thượng Hội Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng ấy, là Tảng Đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,11-12).
- Phải về quê trời cùng với tha nhân: Đức Giê-su đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh, sau khi đã sống một cuộc đời yêu thương tận hiến và đã trải qua cuộc khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha. Cuộc đời của Người đã trở thành con đường lên trời của các tín hữu chúng ta hôm nay. Khi suy niệm Lời Người và sống gắn bó với Người trong bí tích Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu biết ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì và sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su. Nếu chúng ta đi trên Con Đường Giê-su thì chính chúng ta cũng sẽ trở thành con đường để giúp anh em lương dân đến với Đức Giê-su. Chính nhờ gặp gỡ chúng ta, họ sẽ nhận biết Chúa Giê-su qua lời nói, việc làm và lối ứng xử hiền hòa nhân ái yêu thương phục vụ của chúng ta. Rồi “nhờ Người, với Người và trong Người”, họ sẽ gặp được Thiên Chúa Cha và trở thành con Chúa Cha trong gia đình Hội Thánh ở đời này, để sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa Cha và với công đoàn tín hữu trên thiên đàng đời sau.
4. Thảo luận:
1) Bạn có đồng ý với lập luận: “Đạo nào cũng tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng cần truyền đạo cho ai. Chỉ cần giúp anh em lương dân sống theo lương tâm hay sống đạo làm người là đủ”? Tại sao? 2) Khi gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên Chúa và vâng theo? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con đây! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì?"
5. Nguyện cầu:
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con cảm thấy mình thật nhỏ bé và bất lực, khó lòng có thể chu toàn sứ mạng loan báo Tin mừng mà Chúa đã trao cho Hội Thánh trước khi lên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: Sứ mạng truyền giáo trước hết phải thực hiện cho những người thân quen như: cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn bè của chúng con, rồi sau đó mới đến người khác. Xin giúp chúng con năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền của Chúa và suy niệm các hành vi và lời dạy của Chúa, vì Chúa chính là hình ảnh trung thực của Chúa Cha. Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời Chúa dạy và quyết tâm thực hành ý Chúa trong đời sống thường ngày. Xin cho chúng con biết từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam