Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1440648

SỰ CỨNG LÒNG TIN

Sự cứng lòng tin – Anmai, CSsR

 

Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để tiếp cận với con người. Khi thì nói gián tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người này, khi thì dùng người kia. Những người nói Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho dân.

Vì lẽ con người thường đi ngược với Thiên Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn sứ nói ra thì có người được đón nhận, có người bị khước từ và thậm chí có người còn bị giết.

Một trong những ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình đã được sai đến trong một thời khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã đặt nền móng cho một nền tảng mới đó là lòng tin vào Thiên Chúa.

Đoạn sách mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên Chúa gửi Ngài đến với dân: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: ‘Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này’. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng”. (Ed 2,2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien. Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung chịu số phận như Êdêkien.

Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương, mang theo sứ điệp cứu độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng đầu với sự cứng lòng tin của những người đồng hương quen thân.

Trình thuật này có thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3,20-35 ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ, song cũng ở đó sứ điệp thần học về Đấng Thiên sai cứu độ được phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin.

Để thấy rõ hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử lưu ý đến lược đồ câu chuyện của thánh ký:

+ Trước hết đó là thái độ kinh ngạc thán phục của những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết các phép lạ (c. 2)

+ Vấn nạn về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a)

+ Phản ứng cứng tin (c. 3b)

Đó là một thứ lược đồ về mầu nhiệm cứng tin, mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa:

Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t

Câu 2: Người lên tiếng giảng dạy trong Hội đường. Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông?

Câu 14: Chúa Giêsu lên đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo học mà lại thông hay chữ nghĩa

Câu 3a: Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao? Các chị em của ông không ở giữa chúng ta sao?

Câu 27: Nhưng ông ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức Kitô khi Người đến, thì nào ai biết được do lai của Người?

Câu 3b: Và họ vấp phạm vì Người

Câu 28: Chúa Giêsu hô lên: phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra. Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu. Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, các ngươi lại không biết Ngài.

Như vậy, nghe lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các kỳ công của Chúa Giêsu… điều đó chưa đủ. Người ta cần phải đạt đến một tầm mức cao hơn: tầm mức của đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu độ.

So sánh với bản văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của Người (c. 2). Song, họ không tin Người.

Ông ấy chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư?Và các chị em của ông lại không ở giữa chúng ta đây sao? Và họ vấp phạm vì Người (c. 3)

Người quê nhà của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của Người. Họ quen biết anh em và chị em của Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy, ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác thường. Và cũng chính vì thế mà Người trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho họ: họ đã vấp phạm vì Người.

Thành ngữ eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc 4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.

Chúa Giêsu đã vay mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp lời lại các người đồng hương cứng tin “Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi quê quán”.

Trước hết câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa trị được những kẻ quen biết mình. Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê hương họ: “Ấy anh em ngươi và gia đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản ngươi… Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết rằng chúng âm mưu hãm hại tôi”. (Gr 11,18t).

Chúa Giêsu, vị ngôn sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần học của Máccô. Thái độ cứng tin của người dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ cứu độ cho kẻ tin theo.

Từ đó số phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới, một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên tầm vóc “quê quán, bà con, gia đình” (c. 4b). Bởi vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của mình.

Do sự cứng tin, Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ… Nhưng tại sao Người không thể tỏ bày quyền lực trước một thái độ cứng tin? Thực ra sự không thể liên kết với sự kiện thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý, như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là điều kiện của sự chữa trị thành công. Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến chủ đề đức tin.

Nếu thiếu vắng đức tin, một phép lạ của Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới quan niệm lệch lạc về quyền lực của Chúa Giêsu.

Ngược lại, chỉ có đức tin mới mở mắt cho người ta nhìn thấy quyền năng cứu độ của Người ngang qua các lời nói hay việc làm của Người.

Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta để chúng ta nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp gỡ.

 

 

 

 

 

20. Đức Giêsu Kitô, Người là ai? – Anmai, CSsR

 

Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ trụ tốt đẹp do chính tay Ngài tạo dựng. Ngài cho con người hưởng tất cả hạnh phúc của Ngài chỉ trừ một điều duy nhất là đừng sờ vào, đừng đụng vào cái cây ở giữa vườn mà Thánh Kinh ghi lại là “cây biết lành biết dữ”. Cái cây ấy là dấu chỉ, là lời mà Ngài đã dặn đi dặn lại cho con người nhưng rồi con người đã vi phạm, đã giơ tay ra hái nó. Và từ đó, con người đã đánh mất đi mối tình đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Tưởng chừng với biết bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc đời, của con người, con người sẽ trở về với Thiên Chúa nhưng không. Con người vẫn mãi mê với cái thế sự thăng trầm này để rồi không còn nhận ra Thiên Chúa nữa, hay có nhận ra thì cũng nhận ra với một hình ảnh dị dạng, hình ảnh bóp méo hay hình ảnh một Thiên Chúa do chính người đó tạo dựng chứ không còn là một Thiên Chúa tuyệt vời, một người Cha nhân hậu nữa.

Cứ đọc lại những trang Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy được một Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Dẫu cho rằng con người trắc trở, con người quay lưng với Thiên Chúa đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn tiếp cận với con người qua những trung gian của Ngài như các ngôn sứ.

Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhưng liệu rằng con người có nhận ra sự hiện diện, sự đồng hành đó hay không? Đặc biệt, trong những biến cố đau thương bi đát của cuộc đời.

Hôm nay, chúng ta nghe tâm sự của Isaia:

Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,

còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,

giơ má cho người ta giật râu.

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

vì thế, tôi đã không hổ thẹn,

vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.

Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!

Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!

Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

ai còn dám kết tội? (Is 50,5-9a)

Trong cái cảnh bi đát của cuộc đời, Isaia vẫn tin vào Chúa và bám chặt cuộc đời của mình vào Chúa. Hình ảnh người tôi tớ trong Isaia đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu – Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết… Dù rơi vào cái cảnh khốn cùng nhất của con người, nhục nhã, đau đớn bi đát nhất của con người nhưng Giêsu vẫn tin vào Thiên Chúa Cha, tin vào sự quan phòng của cha mình.

Thiên Chúa mãi mãi vẫn là thách thức của lòng tin của con người.

“Con ơi Thiên Chúa tốt lành,

Đất trời có Chúa định thành mới nên.

Trên trời mọi sự do Thiên,

Bên nhân bên quả gắn liền với nhau”.

Cụ Kh. đã nhìn Thiên Chúa từ câu hỏi về nguồn gốc vạn vật.

Hỡi im lặng thiêng liêng, ngập tràn, ứa vựa,

Ta lia gươm rạch ứa máu ngàn không,

Để muôn đời không có nữa, Mênh Mông

Vẫn ngăn cách Hồn Yêu cùng Đạo lý.

Nhưng đau đớn! Ta vấp mồ thế kỷ

Chết nơi đây vì xét nghĩa Không Cùng

Đem trí người suy đoán nỗi Mông Lung

Của Thiên Chúa vẫn muôn đời bí mật.

Đó là một đoạn trong bài “Thể Chất” của Hồ Dzếnh, gia nhập Kitô giáo khoảng năm 1940. Nhà thơ này đã cúi đầu trước sự huyền nhiệm của Thiên Chúa.

Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người về Ngài. Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa làm người cũng chất vấn mỗi người chúng ta về lòng tin vào Thiên Chúa, về lòng tin vào Ngài.

Hôm nay, Chúa Giêsu thấy chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn mỗi người chúng ta. Với mỗi người chúng ta, khi Chúa Giêsu hỏi chúng ta thì liệu rằng chúng ta có can đảm, có tin nhận và trả lời như Phêrô hay không hay là chúng ta cũng nói rằng Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ như Êlia, như Gioan Tẩy Giả…

Nhiều lần nhiều lúc trong đầu Kitô hữu thì Giêsu Kitô như là Êlia hay Môsê thôi chứ chẳng hơn. Bi đát nhất của cuộc đời đó là người ta tự hoạ cho mình một Thiên Chúa, một Giêsu Kitô theo nét vẽ riêng của họ.

Trong tuần thường huấn nọ ở một nhà dòng kia. Vị thuyết giảng chia sẻ về hình ảnh của một Giêsu chịu đóng đinh, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô cũng như các môn đệ trong Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Vị thuyết giảng trình bày về một Giêsu theo mô tả của Thánh Kinh và một Giêsu lịch sử.

Sau khi trình bày thì nhiều người cứ chất vấn đi chất vấn lại về Giêsu! Chất vấn đó là quyền tự do của con người nhưng khi đã là tu sĩ, linh mục thì không dừng ở chuyện chất vấn nữa mà là tin và hiểu thêm về diện mạo Chúa Giêsu. Chất vấn là vấn đề, là chuyện dành cho những người chưa tin. Tu sĩ, linh mục mà lại chất vấn đi chất vấn lại Giêsu thì nó làm sao ấy. Nếu như vậy thì niềm tin tu sĩ, linh mục ấy tuyên xưng nó làm sao ấy.

Mỗi người bắt gặp câu hỏi về Thiên Chúa một cách khác nhau. Câu hỏi có khi gay gắt, dồn dập, có khi dịu dàng êm nhẹ, có khi như ray rứt, có khi như ủi an. Có khi, thật lạ lùng, người ta đang đối đầu với câu hỏi về Thiên Chúa bằng cách chối phắt Ngài đi. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì mỗi người đều bắt gặp câu hỏi ấy; vào một lúc nào đó trong đời, người ta như chợt thấy. Ai sẵn sàng đón nhận và ra công tìm kiếm thì thế nào cũng gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không tiếc với ai cả, nhưng phải sẵn sàng đón nhận thì mới gặp được Ngài, còn nếu đã phủ nhận ngay từ đầu thì còn gặp thế nào được. Mở mắt ra và sẽ thấy. Mỗi người gặp được Ngài trong một cảnh ngộ khác nhau, vì mỗi người đã lên đường từ những khởi điểm khác nhau.

Đã hơn một lần, có người hỏi tôi rằng Chúa Giêsu là người da đen, da nâu hay da vàng? Chúa Giêsu sinh ra chính xác là ngày nào? Năm nào?

Tôi trả lời ngay là không cần biết là Giêsu có da đen, da nâu, da vàng hay da đỏ miễn làm sao khi mở quyển Almanack thì bạn sẽ thấy rõ ràng rằng có một Giêsu sinh làm người tại hang đá Belem và sống cái làng Nagiaret nhỏ bé. Chúa Giêsu đã hiện diện rồi trong lịch sử nhưng ai tin vào đó là Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Ngôi Hai con Thiên Chúa làm người?

Về diện mạo, về hình ảnh của một Giêsu lịch sử hay một Giêsu ký ức cũng cần tìm hiểu, cần đào sâu để mở rộng kiến thức để trình bày lại cho những người chưa hiểu hay những người chưa tin. Vấn đề cần ở đây là làm sao ta cũng phải tuyên xưng lòng tin vào Giêsu Kitô như Phêrô giữa nhiều và nhiều người không tin ở thời Chúa Giêsu. Vấn đề đã rõ, giữa biết bao nhiêu người không tin, giữa nhiều sự chất vất nhưng Phêrô đã vượt qua chuyện không tin và Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của mình.

Thật sự ra mà nói không đơn giản để mà tuyên xưng được như Phêrô đâu. Có những lúc ta cũng mạnh mẽ tuyên xưng như Phêrô ấy nhưng có những lúc ta chối Chúa bây bẩy thôi.

Nếu chúng ta can đảm tuyên xưng một Giêsu là Đấng Kitô của đời mình như Phêrô thì chúng ta phải sống, phải thể hiện lòng tin ấy như Phêrô cách triệt để chứ không phải là nói suông. Lối sống của người có đức tin chúng ta vừa nghe Thánh Giacôbê mời gọi: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2, 14-19)

Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, đấng đang hiện diện trong cuộc đời ta, đang có đứng trước mặt ta ban thêm lòng tin cho chúng ta để ta cũng mạnh dạn tuyên xưng lòng tin ấy vào Giêsu Kitô như Phêrô tông đồ hôm nay vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm cho ta lòng mến để chúng ta diễn tả, chúng ta sống lòng tin ấy bằng đời sống thường nhật của chúng ta.

 

 

 

 

 

21. Người con của Đức Maria – Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

 

Hội đường là nơi hội họp của cộng đoàn Do thái. Đó không phải là Đền thờ với hàng tư tế chính thức thi hành một thừa tác vụ hy tế. Cộng đoàn tụ họp lại để cầu nguyện và nghe đọc sách thánh. Bất cứ người nam trưởng thành nào cũng có quyền phát biểu trước cộng đoàn. Vì thế, Đức Giêsu lên tiếng giữa hội đường Nazarét, không phải vì một đặc ân thánh nào cả, nhưng chỉ là 1 thành viên trong cộng đoàn. Rất nhanh các thính viên thoáng thấy rằng người nói với họ không phải là một người như những người khác. Mặc dầu họ đã biết Ngài, thấy Ngài sống nhiều năm tháng giữa họ và không có dấu hiệu gì bên ngoài cho thấy Ngài chuẩn bị ăn nói và hành động. Họ linh cảm một cái gì lạ thường.

Ở đây, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng tâm lý thông thường. Khi người ta có một hình ảnh nào về ai, họ không chấp nhận cho người ấy tỏ ra có những nét không phù hợp với hình ảnh này. Người ta tưởng biết một người nào đó, nhưng sự thật là họ xếp loại người ấy, họ dán cho người ấy một nhãn hiệu và đương nhiên người ta trở nên mù quáng đối với những gì không phù hợp với nhãn hiệu. Và họ vấp phạm vì Người. Dân chúng Do thái vấp phạm vì không nhận ra Đức Giêsu mà họ đã biết. Cho nên thay vì đón nhận các phần mầu nhiệm thoáng hiện ra, họ loại bỏ nó. Sự chối từ tiếp nhận làm tê liệt sự quảng đại của Đức Kitô. Ngài không thực thi quyền năng làm phép lạ được tại Nagiarét, ngoại trừ một vài việc lành cho một hai người bệnh.

1) ‘Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria sao?

‘Con bà Maria’ có nghĩa là lúc bấy giờ thánh Giuse đã chết. Và Đức Giêsu được nói đến như là người con độc nhất của bà góa Maria. Và người ta cũng biết danh xưng ‘anh em’ áp dụng cho: Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon, ám chỉ một sự liên hệ bà con gần xa nào đó mà thôi. Người ta đã đưa ra giả thuyết ‘người con của bà Maria’ để nói rằng Đức Maria – có thai trước lúc thành hôn với Giuse. Trong ngôn ngữ cảu thánh Marcô, điều này có thể là một xác quyết gián tiếp về việc sinh nở mầu nhiệm của Đức Giêsu, con của bà Maria theo xác thịt, chứ không phải của thánh Giuse.

Có cái gì ẩn núp sau câu hỏi của người Do thái? Đó là một sự khó khăn sẽ luôn luôn làm cản trở niềm tin cho đến tận thế: chính là mầu nhiệm Thiên Chúa tự mặc khải qua con người. Đây là điều làm khó chịu, bức rứt, gây giận dữ cho những đầu óc bướng bỉnh. Thái độ của dân làng Nagiarét từ chối chấp nhận Đấng họ nhận ra là sứ giả TC, loan báo sự khó khăn sẽ đến cho nhiều người là nhận ra trong con người của Đức Kitô, TC thật và đồng thời cũng là người thật.

2) Chúng ta hãy dừng lại ở từ ngữ: Con bà Maria.

Để một bên, ý nghĩa xác thực trong thánh Marcô, từ ngữ này gợi cho ta một thực tại sâu xa có tầm mức quan trọng về phương diện thần học và phong phú về phương diện tu đức. Những ai chọn con đường thẳng để đi đến gặp gỡ Đức Kitô: những người ấy phải nài xin Đức Trinh nữ Maria mặc khải Con Ngài cho họ. Nhận biết Đức Giêsu như là con của Đức Maria, tức là đón nhận Ngài, không như một niềm tin trừu tượng, nhưng như một ngôi vị nhân loại rất thực, kề cận và sát với chúng ta (nhất là nếu chúng ta tự trở nên bé mọn), một ngôi vị thần linh và thần linh hóa trong một bản tính nhân loại chung cho Ngài và cho chúng ta. Những người bạn thân thiết nhất của Đức Kitô biết rõ điều họ phải tùy thuộc vào sự trợ giúp của Đức Maria.

 

 

 

 

 

22. Đánh giá theo lý lịch.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Năm 1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, cho Giáo Hội.

Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.

Đừng đánh giá con người theo lý lịch, tương tự như dân làng Nagiraret đã đánh giá Đức Giêsu Nagiarét: “Nagiarét mà có cái chi hay!”. Thế mà con người làng Nagiarét ấy là Đấng Cứu Thế môn dân trông đợi. Tin Mừng hôm nay kể lại: Chúa Giêsu trở về Nagiarét, quê hương của Ngài, trong tư thế một vị Ngôn Sứ, một bậc thầy, có các môn đệ tháp tùng. Ngày Sabbat, Ngài vào Hội đường đọc Sách Thánh và công bố giáo lý của Ngài. Dân làng Nagiarét lấy làm ngạc nhiên sững sốt. Họ hỏi nhau: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vây nghĩa là làm sao? Ông ta làm được nhiều phép lạ như thế nghĩa là gì?”. “Ông ta là ai?”. “Ông ta không phải là chú thợ mộc trong làng, con của bà Maria, không phải là anh em họ hàng với các ông Giacôbê, Giôxê, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?”. Họ biết quá rõ lý lịch của Ngài, biết rõ họ hàng nhà Ngài, nên họ không thể nào để cho khôn ngoan và quyền năng của Ngài lay chuyển họ. Họ chẳng nhìn nhận Ngài là ai khác hơn là “chú thợ mộc trong làng”.

Đấng Thiên Sai Cứu Thế thì phải xuất thân từ dòng dõi “trâm anh thế phiệt”, phải là một “trang anh hùng xuất chúng” đầy uy thế và quyền lực chứ! Còn ông Giêsu này thì quá nghèo nàn, tầm thường. từ xuất xứ, lý lịch gia đình đến nghề nghiệp và địa vị xã hội. Tất cả đều trở thành “chướng ngại cho họ tin vào Ngài”. Nói cách khác đi, chưỡng ngại làm cho những người đồng hương vấp ngã chính là dáng vẻ đối nghịch giữa con người bên ngoài của Đức Giêsu và sứ mạng thần linh bên trong của Chúa. Vì thế, họ quay lưng lại với Ngài, với cả Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài, Cái tội lớn nhất của con người không phải là ngu dốt, không biết, nhưng thái độ kiêu ngạo, phản loạn, chống đối Thiên Chúa. Cuộc chống đối này lên đến tột độ khi con người đóng đinh Con Thiên Chúa trên thập giá dựng trên Núi Sọ. Ở đây, Thánh Marcô cho thấy thái độ của dân làng Nagiarét đối với Chúa Giêsu như thái độ chung của loài người. Ngài là nạn nhân của “chủ nghĩa lý lịch”. “Không tiên tri nào không bị khinh chê nơi quê hương mình, giữa họ hàng và trong nhà mình”. “Không Ngôn Sứ nào được quí trọng tại địa phương mình”. Biến cố này nói lên cái bi đát trong đời Chúa Giêsu: “Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Ngài” (Ga 1,11). Những người ruột thịt, đồng hương, không muốn trở thành bà con họ hàng thật của Chúa Giêsu nhờ lòng tin, không muốn nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Câu chuyện này còn tiếp nối trong lịch sử Giáo Hội: dân ngoại đón nhận Tin Mừng, còn những con cái trong nhà thì lại không chịu tin vào Ngài. Đó là một kinh nghiệm sống động của Giáo Hội sơ khai và làm cho mọi người ngạc nhiên như chính Chúa Giêsu đã phải ngạc nhiên.

Người đồng hương Nagiarét của Chúa Giêsu hôm nay là ai? Chính chúng ta là những người đồng hương mới của Chúa Giêsu. Chúng ta đã trở thành anh em của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần Ngài ban cho chúng ta. Nhưng hình như chúng ta lại biết Ngài quá rõ đến độ chẳng thấy ở nơi Ngài cái gì khác hơn là một Chúa Giêsu quen thuộc của các lời kinh, các bải giảng. Người ta nói: “quen quá hoá nhàm”. Chúng ta chẳng còn nhận ra sự khôn ngoan của Chúa trong Tin Mừng, quyền năng cứu độ của Chúa trong Giáo Hội. Chúng ta đi tìm sự khôn ngoan, tìm ơn cứu độ ở những người khác, ở những nơi khác. Chúng ta làm như thế Chúa Giêsu cũng chỉ là “một chú thợ mộc làng Nagiarét”, một người Do Thái của thế kỷ thứ nhất, không hơn không kém, chẳng có gì để đem lại cho chúng ta. Đọc Tin Mừng của Ngài có khi chúng ta cũng thấy hay, lý thú… nhưng chẳng thấy gì hơn. “Bụt nhà không thiêng” vẫn là số phận của Chúa Giêsu phải chịu hôm nay nơi các Kitô hữu.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải xác định lập trường, thái độ của mình đối với Đức Kitô. Chúng ta muốn đứng về phía dân làng Nagiarét hay muốn đứng về phía Chúa Giêsu? Đừng đánh giá con người theo lý lịch, theo thành kiến. Thiên Chúa đã đến chia sẻ thân phận nghèo hèn của con người nơi Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét. Thiên Chúa đã mạc khải tình thương của Ngài không ở tiền tài và giàu sang hay chức quyền mà ở trong con người nghèo hèn. Điều này đã nên cớ vấp phạm cho người Do Thái, cho người đồng hương với Chúa Giêsu, nhưng lại mời gọi lòng tin của chúng ta có dám tin như thế không.

Ở đây, niềm tin mời gọi người phải vượt qua dáng vẻ tầm thường bên ngoài để đạt tới mầu nhiệm thâm sâu bên trong của Chúa Giêsu. Ngài là Ngôn Sứ tuyệt vời, là Lời Vĩnh cửu của Thiên Chúa. Ngài đã nói thay Thiên Chúa để đem đến cho nhân loại Tin Mừng cứu độ. Với cuộc tử nạn và phục sinh, Chúa Giêsu đã nói lên tiếng nói cuối cùng của tình yêu Thiên Chúa đối với con người phản bội, chống đối Thiên Chúa. Cái chết thập giá của Con Thiên Chúa không phải là một thất bại, nhưng là một chiến thắng của tình yêu, là quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự yếu hèn của con người.

Cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được biết Tin Mừng cứu độ qua Ngôn Sứ, qua chính Con Một Thiên Chúa, qua các Tông Đồ, qua Giáo Hội. Nhờ Tin Mừng này chúng ta được đến với Chúa, sống với Chúa và hoạt động cho Chúa.

 

 

 

 

 

23. Chúa Nhật 14 Thường Niên

 

Ngay khi Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường quê nhà, lúc đầu họ có ấn tượng thậm chí họ ngạc nhiên. Tuy nhiên thay vì vui mừng về điều đó và cởi mở với những điều Người làm cho họ, họ lại hỏi: “Bởi đâu ông ta được như thế?”. Ở đây chúng ta gặp một mầu nhiệm về sự phát triển của con người. Chúng ta là ai mà đặt giới hạn và biên giới cho khả năng của người khác?

Người dân Nagiarét nhớ lại nguồn gốc của Đức Giêsu. Người là con một bác thợ tầm thường, họ biết rõ gia đình của Người. Thật vậy, họ nói: “Ông ấy nghĩ mình là ai?” Họ cảm thấy mình đã nắm rõ về Người. Họ đặt ra giới hạn cho Người. Một thái độ như thế không cho phép sự trưởng thành và phát triển.

Họ từ chối tin Người. Họ từ chối nhìn Người một cách nghiêm túc. Bởi thái độ của họ, họ làm cho Người không thể làm gì cho họ, và như thế họ không hưởng được ơn ích từ cuộc viếng thăm của Người.

Đây là một sự thật quen thuộc nhưng đáng buồn – Ngôn sứ không được quê hương mình tôn trọng. Thường chúng ta không tôn trọng tài năng của những người gần gũi với chúng ta, trong nhà chúng ta hoặc khu xóm chúng ta. Chúng ta không đánh giá đúng hoặc chấp nhận họ và do đó giới hạn khả năng của họ. Chúng ta không cho họ một cơ hội. Tệ hơn, chúng ta hạ thấp họ. Chúng ta có thái độ bất công rất lớn với họ. Và rồi chúng ta cũng chịu thiệt thòi bởi chúng ta không được hưởng lợi từ lòng tốt của họ.

Bị chối bỏ là một điều thương tổn. Nhưng đặc biệt thương tổn khi bị những người thân chối bỏ. Đức Giêsu ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Người rất muốn giúp đỡ họ nhưng chính Người bó tay!. Đức Giêsu buồn rầu vì sự việc đó nhưng Người không tức giận. Sự chối bỏ thường dễ dàng làm cho người ta tức giận.

Chúng ta đều có chút ít kinh nghiệm về điều đó. Chúng ta muốn giúp đỡ một người nào đó nhưng người ấy khước từ sự giúp đỡ của chúng ta. Chúng ta cảm thấy bực bội và vô dụng. Khi gặp phải sự chối bỏ, chúng ta có thể bị cám dỗ nói rằng: “Vậy thì đừng hòng tôi giúp cho”. Chúng ta quyết định không giúp đỡ một ai nữa. Điều này làm người ta đau khổ.

Đức Giêsu đã không phản ứng như thế. Người không trở nên cay cú. Người đã làm điều nhỏ bé còn có thể làm được ở Nagiarét. Người chữa lành một vài bệnh nhân – Rồi người quyết định đem ánh sáng và món quà của Người đi nơi khác.

Lạy Chúa, xin cho chúng con có tấm lòng của Chúa khi đối xử với người khác dù họ làm cho chúng con không hài lòng.

 

 

 

 

 

24. Đừng thèm khát – Gm. Arthur Tone.

 

Những người cổ Hy lạp thích thể thao, nhất là những cuộc thi chạy lẹ, thi sức mạnh và dai sức. Những cuộc tranh tài Olypic ngày nay phát sinh từ những ngày đó. Trong một cuộc tranh tài cổ xưa, một lực sĩ đoạt chức vô địch. Các bạn hâm mộ ông đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục. Điều đó làm cho một lực sĩ bạn thèm khát. Anh này, ban đêm trong bóng tối, gắng sức phá đổ tượng đài ấy. Anh tìm cách xô đẩy bức tượng được vài phân, bức tượng lắc lư vài cái trên đế, rồi đổ nhào trên đầu và đè chết anh lực sĩ.

Đó là câu chuyện thèm khát. Tính xấu này đã xâm nhập tâm hồn nhiều người. Chúng ta thấy tính xấu này trong bài Tin Mừng hôm nay. Nhiều người trong làng xóm, nơi Đức Giêsu sinh trưởng, đã buồn bực vì Người được tôn kính và ca tụng. Do lời nói và việc làm lạ lùng của Người. Họ từ chối nghe lời người, từ chối tin vào Người, từ chối theo Người, kết quả là Đức Giêsu, không thể làm phép lạ ở đó.

Thèm khát và ghen tỵ gần gũi nhau. Thèm khát liên hệ tới cái người khác có. Ghen tỵ liên hệ tới sự chú ý và cảm tình người khác được. Phải chăng tôi buồn vì người khác đẹp hơn tôi, nổi tiếng hơn tôi, giàu hơn tôi, có xe láng hơn tôi, có nhà đủ tiện nghi hơn tôi? Phải chăng tôi buồn vì một ai đó được để ý và kính nể. Chỉ mơ ước có một cái gì mà người khác đã có, không phải là thèm khát. Nó chỉ trở thành thèm khát khi thiếu những cái đó làm bạn buồn, bất mãn và khốn khổ.

Chúa cho chúng ta 2 giới răn đối lập lòng thèm khát. Giới răn thứ 9: “Ngươi chớ ham muốn vợ người khác”. Và giới răn thứ 10: “Ngươi đừng ham muốn của cải người khác”.

Thèm khát là ý muốn trái phép: ham muốn một người không phải là vợ (chồng) của bạn một cách trái phép là nguyên cớ của hàng triệu vụ ly dị trên đất Mỹ năm 1997. Tính thèm khát gây nên bao đau thương, bao đổ vỡ.

Hầu hết tội ác đều do sự ham muốn tài sản của người khác cách trái phép gây nên.

Sự ghen tỵ xấu xa lớn nhất đã đem đến cái chết cho Đấng đáng yêu mến của thời đại. Chúa chúng ta, Đấng cứu chuộc chúng ta, Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng hôm nay kể lại lòng ghen tỵ đã làm mù quáng những kẻ có thể tin theo Đức Kitô.

Chúng ta có thái độ gì đối với lòng ghen tỵ? Khi một người thành công, phát đạt, được kính nể? Chúng ta hãy cảm tạ Chúa cho họ. Nếu bạn bị người ta ghen tỵ. Bạn hãy xin Chúa giúp cho họ chế ngự được lỗi lầm của họ. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho kẻ chống đối Người. Đức Kitô sẵn sàng giúp đỡ vì Người đã từng chịu những kẻ ghen ghét hành hạ. Xin Người giúp bạn vượt thắng tính xấu này nơi bạn và nơi người khác.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

 

 

 

 

 

25. Suy niệm của Noel Quesson.

CHÚA NGẠC NHIÊN VÌ HỌ THIẾU LÒNG TIN

 

Thánh Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:

– Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?

Thánh nhân trả lời:

– Tin Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”

Họ thưa:

– Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.

Thánh Antôn nói:

– Nếu không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến mình.

Nhóm giáo dân thưa:

– Việc này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.

Thánh Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:

– Con hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện cho họ.

Là nhà giảng thuyết, là nhà truyền giáo, thế nào cũng có lần gặp thất bại trong việc rao giảng Tin Mừng. Ngay Chúa Giêsu, nhà giảng thuyết đại tài mà cũng đã từng thất bại trước nhóm bà con xóm làng quen thuộc.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết từ Capharnaum Chúa trở về thăm quê nhà, giảng trong hội đường. Tại Capharnaum, Chúa đã làm nhiều phép lạ. Có nhiều phép lạ nghĩa là có nhiều người tin Chúa, người ta lũ lượt theo Chúa đến quên ăn quên ngủ. Việc này gây xôn xao khắp miền Galilê, và chắc chắn những người đồng hương của Chúa cũng đã nghe biết. Bây giờ Chúa trở về quê nhà với nhóm môn đệ, có lẽ ai cũng tưởng người anh em đồng hương hân hoan đón nhận. Nhưng tình hình biến chuyển khác hẳn. Khi nghe Chúa đọc và giải nghĩa Thánh kinh ở Hội đường, họ cũng nhận là có những điều hay, nhưng nghĩ tới gốc gác tầm thường của Chúa, họ cho Ngài là một người không đáng tin. Bởi không tin nên họ cũng không nhận được phép lạ nào.

Có thể nói Chúa thất bại nơi quê hương. Cũng vậy, Giáo Hội nhiều lúc đã thất bại. Có người nói: “Tôi tin Đức Kitô, nhưng không tin Giáo Hội”. Thực ra Giáo Hội lại chính là khía cạnh nhân tính của Đức Kitô. Giáo Hội gồm những con người: các giám mục, linh mục, giáo dân. Những con người đó chẳng những quá quen thuộc mà có khi còn bất toàn nữa. Nhiều người thời nay đã vấp ngã vì Giáo Hội, cũng như những người đồng hương của Chúa Giêsu đã từ chối, không tin nhận Ngài. Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng những lời than phiền: “Chúa Giêsu ngạc nhiên vì họ thiếu lòng tin”. Thực ra, Chúa đâu có ngạc nhiên vì Chúa đã dựng nên con người có tự do. Chúa quá rõ tâm địa những con người đó, có ngày họ sẽ nổi lên chống lại Chúa, sẽ làm theo ý họ chứ không theo ý Chúa. Nhưng một khi đã cho con người tự do thì Chúa không rút lại, Chúa tôn trọng tự do của con người dù chúng làm cho Chúa buồn lòng. Chính vì vậy, chúng ta thấy ân huệ đức tin thật là cao quí.

Lạy Chúa, chúng con tin Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con. Xin ban ơn đức tin cho những người đã được nghe biết Tin Mừng để họ đón nhận Chúa và được Ngài cứu độ. Chúng con xin tạ ơn Chúa.

 

 

 

 

 

26. Chúa hiện diện trong cuộc sống

 

Con người dễ có định kiến về tha nhân. Khi một vĩ nhân về quê hương, thông thường dân làng tìm đến vì tò mò hơn là vì kính nể. Nếu ai không có những suy nghĩ sâu xa thì sẽ không xem trọng vĩ nhân đó bao nhiêu, nhất là khi người đó xuất thân từ gia đình nghèo, không có địa vị gì ở quê hương. Chúa Giêsu trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo kiểu đó: Giêsu, con của ông thợ mộc Giuse chứ có gì hay đâu và họ không muốn thay đổi quan niệm về Người. Chúa Giêsu biết rõ tâm lý của họ, nên đã nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình (Lc 4,24). Tuy Chúa Giêsu về với tư cách là Messia loan báo Tin mừng cho dân làng mình nhưng chẳng mấy ai để ý đến tư cách đó, họ không muốn tìm hiểu thêm về vai trò và con người thật của Người và tự nhốt mình trong những định kiến. Họ chỉ nhìn thấy Ngài với những nét dạng của người đồng hương nghèo khó, học từ làng quê. Tuy họ sửng sốt về lời giảng dạy của Ngài, nhưng những thành kiến đã chôn chặt họ không cho họ nghĩ xa hơn. Họ chỉ thắc mắc cách hời hợt: bởi đâu ông ta được như vậy như thể Chúa Giêsu ngẫu nhiên uyên bác mà thôi. Họ tò mò tìm đến với ý phủ nhận hơn là tin nhận!

Chúa Giêsu nhận thấy rõ thái độ của họ và người đã không làm phép lạ vì họ không có lòng tin, không có lòng thành tìm hiểu về sứ mạng của ngài. Ngày hôm nay, Kitô hữu chúng ta biết về Chúa nhiều hơn, biết rõ hơn người Do thái xưa kia về lời giảng và thân phận của người. Tuy nhiên, chính chúng ta nhiều khi cũng chưa tỏ niềm tin của mình trước mặt mọi người. Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi mình: có khi nào tôi có thái độ giống như người Do thái xưa đối với Chúa giêsu không. Cuộc sống tôn giáo với những nghi lễ thiêng liêng thánh thiện nhưng tôi không ý thức là mình đang được tiếp xúc với Chúa. Có lẽ vì lòng tin yếu kém hay lo lắng chuyện đời mà không nhận ra Chúa đang hiện diện với mình. Nếu tôi có lòng tin, tôi sẽ rất nghiêm trang, cung kính hết lòng khi khi tham dự thánh lễ, đặc biệt là khi rước Chúa và cầu nguyện vì biết Chúa hiện diện trong lời Kinh thánh và Bí tích Thánh thể, tôi sẽ nhận ra Chúa trong trong lương tâm của mình và trong những biến cố cuộc sống.

Xét lại chính mình, tôi biết Chúa đến cứu chuộc thế giới trong đó có tôi và bổn phận của tôi là nói về Chúa và làm chứng cho Chúa bằng cuộc sống của mình nhưng tôi đã thực hiện bổn phận này như thế nào. Cuộc sống đạo chúng ta nhiều lúc còn bị động, không thua gì những người làng Nazaret bao nhiêu: cho là mình quen biết nên không nhận ra Chúa hiện diện với mình mà chỉ coi ngài như phàm nhân, chỉ hơn mình một chút mà thôi, không hăng hái thêm được bao nhiêu, không biến đổi nên tốt hơn, không vui mừng về tình thương của Chúa đối với mình.

Điều đáng lo ngại nhất cho loài người chúng ta hôm nay là đi tìm những cái trước mắt, không để thời giờ đến với Chúa và tìm hiểu thực hư, hàng quãng cáo nào gây ấn tượng thì mua. Các nhà sản xuất thi nhau kích thích nhu cầu của chúng ta để tăng thu nhập và chúng ta cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi xã hội hưởng thụ dễ dãi này. Dường như chúng ta không giờ thinh lặng để nghe tiếng Chúa thì thầm và suy nghĩ về chuyện đạo đức bao nhiêu, nhất là thế hệ trẻ dễ bị những phim ảnh hấp dẫn, chat, games cám dỗ nhiều: sau giờ học thì nhiều học sinh “nhào vô” những thứ vui chơi giải trí tiện lợi này, không dành thời gian cho việc thờ phượng Chúa như trước nữa!

Để thắng vượt chính mình và nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy năng đến với Chúa, xin Chúa mở lòng trí, mở đôi mắt đức tin để chúng ta sống đạo cho nên, và nhận biết trong những sự kiện lớn nhỏ đều có sự can thiệp của Chúa. Từ đó, chúng ta có đức tin ngày càng vững mạnh, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống và giúp cho mọi người xung quanh cảm thấy hạnh phúc vì biết rằng Chúa yêu thương đang mời gọi con người cộng tác vào chương trình của Chúa và mai sau ban thưởng trên nước Ngài hiển trị.

 

 

 

 

 

27. Chúa Giêsu bị khước từ

 

Trước đây, trên một trang báo Tuổi Trẻ, người ta có đăng hình hai người nhạc sĩ già, hai cây cổ thụ của âm nhạc Việt Nam, đó là nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Trần Văn Khê. Nội dung bài báo nói lên ước mơ của nhạc sĩ Phạm Duy là được trở về lại quê hương Việt Nam, định cư trên mảnh đất thân yêu này và góp phần làm một điều gì đó cho quê hương đất nước, rồi bài báo ấy kết luận: ai đi xa xứ mà không ao ước được trở lại quê hương của mình. Nếu tâm tình của nhạc sĩ Phạm Duy là như vậy thì chẳng có gì là ngạc nhiên cả, bởi nó rất là con người, rất là nhân bản. Con người có nguồn cội, có quê hương, dù thế nào đi nữa thì con người cũng không thể quên được quê hương của mình.

Quê hương, hai tiếng thân thương và ngọt ngào, thế nhưng quê hương đôi khi cũng làm cho con tim của con người rỉ máu. Chúa Giêsu đã nhiều lần về quê, nhưng lần nào quê hương cũng để lại nơi Ngài một nỗi niềm chua xót, đến nổi Ngài phải đau đớn mà thốt lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. Họ khước từ Chúa Giêsu, có lẽ một phần bởi Chúa Giêsu không cùng quan điểm với họ, nhưng phần khác, vì họ không thể chấp nhận “con một ông thợ mộc lại có thể làm lớn”, vì họ nghĩ rằng “con vua thì lại làm vua, con sãi ở Chùa thì quét lá đa”. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bị những người đồng hương của Ngài khước từ, chống đối mãnh liệt.

Từ kinh nghiệm của Chúa Giêsu khi trở về quê hương phải chăng cũng là kinh nghiệm của chúng ta khi sống trong một cộng đoàn họ đạo. Một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương, những từ ngữ rất hay, rất đẹp và rất tình người. Thế nhưng, chẳng phải chúng ta cũng đã từng cảm nghiệm được rằng: Nơi cộng đoàn họ đạo, chúng ta tìm được sự cảm thông, tìm được sự lắng nghe, chia sẻ. Cộng đoàn họ đạo có thể là nơi người anh chị em của mình được chữa lành, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể làm cho vết thương của người anh chị em mình mãi rỉ máu.

Trong cuộc sống đời thường, có lẽ chúng ta cũng hiểu được những cái mất đáng thương hơn là đáng trách, có những lầm lỡ đáng tiếc hơn là đáng tội. Với những người lầm lỡ, cuộc đời đã lưu lại nơi tâm hồn họ quá nhiều những vết thương rồi, chúng ta đâu cần phải góp phần làm cho những vết thương trong họ thêm nhức nhối! Chỉ sự cứu vớt mới có khả năng chữa lành, chỉ sự đón nhận quảng đại mới mở ra cho người ta một con đường sống, một chân trời hy vọng. Cho nên, cộng đoàn họ đạo có thể vực dậy một người anh chị em của mình sa ngã, nhưng cộng đoàn họ đạo cũng có thể đẩy người anh chị em đang chao đảo xuống tận đáy vực sâu.

Và đồng thời, chuyện của những người đồng hương của Chúa Giêsu đã khước từ Ngài cũng là chuyện của cái nhìn. Sở dĩ, họ không công nhận Chúa Giêsu là ngôn sứ, là Đấng Cứu Thế, bởi họ đã có cái nhìn khép kín Chúa Giêsu trong những quan niệm của họ, họ không vượt qua được cái nhìn về quá khứ của Chúa Giêsu, về mối dây hàng xóm láng giềng. Và chính từ cái nhìn khép kín về Chúa Giêsu như vậy, cho dù Chúa Giêsu có đến với họ, họ cũng chẳng nhận được ơn nào của Ngài.

Cũng từ kinh nghiệm về cái nhìn khép kín của những người đồng hương với Chúa Giêsu, chẳng phải cũng là kinh nghiệm của chúng ta về cái nhìn khép kín của mình đối với người khác hay sao?

Trong thực tế của cuộc đời, khi nhìn về tha nhân, xem ra chúng ta vẫn hay khép kín người anh chị em của mình trong quá khứ hơn là mở ra với tương lai. Có phải biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta đã từng khóa chặt người anh chị em của mình trong cái quá khứ lỗi lầm, nhiều khi chỉ là một lỗi lầm nhỏ trong đời. Vậy mà chúng ta lấy lỗi lầm ấy bọc kín quá khứ của người anh chị em lại và cứ nhìn họ là nhìn vào lỗi lầm ấy mà phủ nhận, phán đoán và đánh giá chính con người của họ. Chúng ta cũng thường nghe nói: “Mỗi thánh nhân đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”. Thế mà dường như chúng ta dễ dàng chấp nhận cái quá khứ không đẹp của một thánh nhân hơn là tin vào cái tương lai tươi sáng của một người tội nhân. Như vậy chẳng bất công lắm sao?

Chính từ những kinh nghiệm đó mà Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần phải có một cái nhìn lạc quan hơn để dám tin vào những giá trị tốt đẹp nơi cuộc đời, nơi con người. Cũng như câu ngạn ngữ: “Chẳng có hồng nào mà không có gai, nhưng trong bụi gai ấy lại có đóa hồng”. Giữa những lầm lỗi thiếu xót của con người thì vẫn luôn có những giá trị tốt đẹp nơi cuộc sống. Thực ra, làm người ai cũng được ban cho nhiều nét đẹp riêng. Có những nét đẹp bị bao bọc bởi cái vỏ bề ngoài sần sùi xấu xí. Để có thể nhìn ra giá trị thực ẩn đằng sau cái lớp vỏ ấy, chúng ta cần phải có một cặp mắt tinh tường và một con tim yêu chuộng cái đẹp. Thật vậy, công trình của người thợ mộc bao giờ cũng bắt đầu với những khúc gỗ sần sùi xấu xí. Nhìn bề ngoài, người ta dễ tưởng rằng chúng vô dụng, chỉ có vứt đi. Phải có cặp mắt tinh tường của người thợ, người ta mới nhận ra được giá trị thực của khúc gỗ. Cũng vậy, để có thể nhìn ra giá trị tốt của một con người đã có những sai lầm lỗi phạm. Chúng ta cần phải có cái nhìn của một con tim bao dung và tha thứ.

Qua Lời Chúa hôm nay, từ những kinh nghiệm của Chúa Giêsu bị khước từ khi trở về quê hương, tôi xin gợi lên một vài kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn họ đạo, về cái nhìn của chúng ta đối với người khác, để mỗi người chúng ta sống lại, ý thức lại đời sống của mình, để có thể xây dựng đời sống cộng đoàn họ đạo của chúng ta ngày càng thật sự trở thành một cộng đoàn hiệp thông, một cộng đoàn yêu thương trong tình yêu của Chúa Giêsu. Amen.

 

 

home Mục lục Lưu trữ