Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1452349

SẠCH VÀ KHÔNG SẠCH

SẠCH VÀ KHÔNG SẠCH (Mc 7,1-4)

Chỗ khác nhau về cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với người Pharisêu và các Kinh sư mà chương sách này ghi lại vô cùng quan trọng. Vì nó cho ta thấy hai đường hướng trái ngược nhau giữa Chúa Giêsu với người Do Thái chính thống giáo vào thời của Ngài.

Vấn đề đặt ra là: Tại sao Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài không giữ theo truyền thống của người xưa? Truyền thống đó là gì và tinh thần vận dụng đó là gì?

Đối với dân Do Thái, thì luật có hai nghĩa. Thứ nhất và quan trọng hơn hết là Mười Điều Răn và thứ hai là năm quyển sách đầu của Cựu Ước hoặc gọi theo cách của họ là Ngũ Kinh (Pentateuch). Sự thật, Ngũ Kinh hàm chứa một số quy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự cắt nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Qua một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với việc làm ấy.

Nhưng đến thế kỷ thứ tư và năm TCN, một giai cấp các chuyên gia về luật xuất hiện, được biết với biệt danh là “các Kinh sư”. Nhóm người này không hài lòng với các nguyên tắc lớn về đạo đức, họ có một đam mê có thể gọi là chứng bệnh thích định nghĩa. Họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn luật lệ, quy tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh riêng lẻ của đời sống. Các luật lệ và quy tắc ấy không hề được viết ra, cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật Truyền Khẩu. Đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.

Người xưa đây là các đại chuyên viên về luật của các thời kỳ về trước, chẳng hạn như Hillel và Shammai. Đến cuối thế kỷ 3 SCN, người ta mới tóm tắt tất cả các luật lệ và quy tắc đó và viết lại thành sách, phần tóm lược đó gọi là Kinh Mishnah.

Các luật lệ, quy tắc của đoạn sách này có hai điểm thường xuất hiện trong cuộc tranh luận. Một là việc rửa tay. Các Kinh sư và Pharisêu tố cáo các môn đệ của Chúa đã ăn với bàn tay ô uế. Từ Hy văn là koinos, có nghĩa là bình thường, thông thường, rồi nó được dùng để mô tả vật gì thông thường theo nghĩa là không thánh, vật gì phàm tục, đối lập với vật thánh, thiêng liêng. Và cuối cùng như ở đây, nó mô tả một việc ô uế về mặt lễ nghi, không thích hợp cho việc phụng vụ và thờ phượng Thiên Chúa.

Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Nhưng cần ghi nhận là việc rửa tay ở đây không nhằm quan tâm vấn đề sạch sẽ về phương diện vệ sinh, nó là sạch sẽ về mặt lễ nghi. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay và phải rửa theo một cách thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát với vữa đá sỏi vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những ché đá lớn đặc biệt để chính chúng không hề được dùng vào việc nào khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó. Trước hết bàn tay được xòe ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất là đến cổ tay, lượng nước tối thiểu phải dùng là ¼ log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc hai bàn tay hãy còn ướt, phải rửa tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là câu cắt nghĩa cách thức rửa tay này bằng mu bàn tay kia: mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia và toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa, phải chụm các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì hai bàn tay mới được sạch.

Dưới mắt người Do Thái, nếu ai không làm đúng như vậy, chẳng những là kẻ cư xử xấu xa, dơ dáy theo nghĩa có hại cho sức khỏe, nhưng còn là kẻ ô uế trước mặt Chúa. Ai ăn với đôi tay không rửa sạch thì bị con quỷ gọi là Shibta tấn công. Không rửa tay như vậy sẽ có thể bị nghèo khổ, tán gia bại sản. Ăn bánh với đôi tay không sạch, chẳng khác gì ăn phân. Có lần nọ, một Rabbi quên giữ nghi lễ đó đã bị khai trừ có nghĩa là được làm lễ an táng với nghi thức dứt phép thông công. Một Rabbi khác, trong lúc bị người Roma cầm tù, đã dùng nước để rửa tay vì để uống, cuối cùng ông ta đã gần chết vì khát, vì ông ta nhất định giữ luật rửa tay thay vì uống cho đỡ khát.

Với người Do Thái theo Pharisêu và Kinh sư, thì đó là tôn giáo. Đó là nghi thức, nghi lễ, luật lệ, quy tắc, được xem như chính việc phụng vụ. Tôn giáo đạo đức đã bị chôn sâu dưới một khối khổng lồ những cấm kỵ, quy tắc và luật lệ.

Những câu sau của đoạn sách này đề cập sâu xa hơn quan niệm về sự ô uế này. Một vật theo nghĩa thông thường là hoàn toàn sạch sẽ, nhưng lại kể là ô uế theo nghĩa luật lệ. Có vài điểm liên quan đến sự ô uế này được chép trong Lêvi 11,15. Dân số 19. Một vật theo nghĩa bình thuờng là hoàn toàn sạch sẽ. Ngày nay chúng ta thường nói đến những điều bị cấm thay vì bảo rằng chúng bị ô uế. Có một số thú vất vốn là ô uế (Lv 11); một sản phụ bị xem là ô uế sau khi sanh nở; một người phong bị ô uế; ai chạm đến một xác chết bị ô uế. Mà đã ô uế thì làm ô uế luôn những vật nào mình chạm đến. Một người ngoại là ô uế, thức ăn mà người ngoại chạm đến cũng ô uế, bất ký cái chén, cái bình, vật dụng nào người ngoại chạm đến đều là ô uế cả. Cho nên, mỗi khi một người Do Thái giữ đạo nghiêm nhặt đi chợ về, anh ta phải ngâm toàn thân trong nước để được sạch.

Những vật dụng như bình, lọ, chén, bát rất dễ bị ô uế. Một người ô uế có thể chạm vào đó, hoặc người ta dùng nó đựng một thức ăn ô uế. Đây chính là điều đoạn sách này muốn nói đến khi đề cập đến việc rửa chén, bình bằng đất, bằng đồng. Trong Kinh Mishnah có không dưới mười hai bài thảo luận đề cập loại ô uế đó. Lấy vài ví dụ cụ thể, chúng ta sẽ thấy vấn đề ấy đi xa tới đâu. Một bình bằng gốm có thể nhiễm ô uế ở phía trong chứ không ở phía ngoài. Điều này có nghĩa là việc ai hoặc vật gì chạm đến nó từ bên ngoài thì không thành vấn đề, nhưng cái gì đã chạm đến nó từ bên trong. Một khi đã bị ô uế thì phải đập bỏ nó đi và miểng bể của nó phải không còn lớn đủ để người ta có thể dùng đựng dầu đủ xức cho ngón chân út. Một cái đĩa dẹt không có đường viền thì không bị ô uế, nhưng cái đĩa có viền miệng thì có thể bị ô uế. Các đồ dùng làm bằng da, xương hoặc thủy tinh mà bằng phẳng, thì không thể nhiễm ô uế. Nếu chúng là đồ dùng rỗng, thì có thể bị ô uế cả ngoài lẫn trong. Một khi đã bị ô uế thì phải đập bỏ chúng đi, chỗ đập bể phải to hơn trái lựu trung bình. Bình gốm phải đập bỏ mới không còn bị ô uế, các loại bình khác phải được ngâm nước, nấu sôi hay tẩy uế bằng lửa, còn các bình bằng kim khí thì phải đánh bóng lại. Một cái bàn ba chân có thể bị ô uế, nếu nó mất đi một hoặc hai chân thì không thể bị ô uế, nhưng nếu nó mất cả ba chân, thì có thể bị ô uế, vì người ta có thể dùng nó làm tấm bảng, mà một tấm bảng thì có thể bị ô uế. Các vật làm bằng kim khí có thể bị ô uế ngoại trừ cửa, then cài cửa, khóa cửa, bản lề, đồ gõ cửa và máng xối. Phần gỗ dùng trong các vật dụng bằng kim khí có thể bị ô uế nhưng phần bằng kim khí trong các đồ dùng bằng gỗ thì không. Như vậy chiếc chìa khóa bằng gỗ với răng bằng kim khí có thể bị ô uế, nhưng chiếc chìa khóa bằng kim khí có răng bằng gỗ thì không.

Chúng ta đã dành thì giờ để đề cập đến các luật lệ của các Kinh sư, các luật truyền khẩu của người xưa, vì đó là những điều mà Chúa Giêsu đã chống lại. Với các Kinh sư Pharisêu, thì các luật lệ, quy tắc ấy chính là tôn giáo. Tuân giữ chúng là làm đẹp lòng Chúa, vi phạm chúng là phạm tội. Đó là ý kiến của họ về điều thiện và việc phục vụ Chúa. Trong ý niệm tôn giáo thì Chúa Giêsu và số người này đã nói bằng những ngôn ngữ khác nhau. Chính vì Ngài chẳng cần dùng đến một quy tắc nào trong tất cả các quy tắc ấy, cho nên họ xem Ngài là kẻ xấu. Ở đây có hai khuynh hướng căn bản: khuynh hướng của người xem đạo giáo chính là nghi thức, lễ nghi, luật lệ, quy tắc với khuynh hướng của người xem đạo giáo là yêu mến Chúa và yêu thương đồng bào đồng loại.

Đoạn sách tiếp theo đây sẽ khai triển vấn đề đó, nhưng rõ ràng ý kiến của Chúa Giêsu với các Kinh sư cùng những người Pharisêu liên hệ đến đạo giáo chẳng có điểm nào giống nhau.

LUẬT ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ LỆ CỦA LOÀI NGƯỜI (Mc 7,5-8)

Các Kinh sư và Pharisêu thắc mắc khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu không tuân giữ những điều tỉ mỉ truyền khẩu và luật người xưa về việc rửa tay trước khi dùng bữa. Chúa giêsu trích dẫn Isaia 29,13 cho họ nghe. Trong câu đó, Isaia tố cáo người thời bấy giờ chỉ tôn vinh Thiên Chúa bằng đầu môi chót lưỡi, trong khi đó lòng họ đã lạc xa Ngài. Trên nguyên tắc, Chúa Giêsu đã tố cáo các Kinh sư và Pharisêu hai điều:

1/ Ngài tố cáo họ là giả hình. Từ hupokrites có một lịch sử lý thú và vạch rõ nhiều điều. Thoạt tiên nó chỉ có nghĩa đơn giản là người trả lời, rồi nó tiến đến nghĩa người trả lời trong một cuộc đối thoại nào đó hay trong một cuộc đàm thoại nhất định, nghĩa là một diễn viên, cuối cùng, nó chỉ chỉ có nghĩa đơn thuần là một diễn viên trên sân khấu, nhưng là kẻ suốt đời diễn kịch, đóng tuồng, chẳng có chút thành thật nào trong hành động của mình. Với bất cứ ai mà đạo giáo chỉ là việc tuân giữ luật lệ, với bất cứ ai mà tôn giáo chỉ có nghĩa là vâng giữ luật lệ và quy tắc bên ngoài, với bất cứ ai mà tôn giáo hoàn toàn liên hệ với một số lễ nghi và tuân giữ một số cấm kỵ thì đến cuối cùng, nhất định người ấy sẽ trở thành kẻ giả hình như nghĩa trên đây. Đó là vì kẻ ấy tin rằng mình là người thánh thiện nếu giữ được hành vi, cử chỉ bên ngoài cho đúng, bất chấp tấm lòng và tư tưởng mình ra sao. Cứl ấy trường hợp của người Do Thái giữ luật vào thời Chúa Giêsu thì rõ, có thể tự thâm tâm người ấy ghen ghét đồng bào mình, có thể người ấy đầy lòng tham lam, ghen tỵ và che dấu cay đắng, kiêu ngạo, những người ấy sẽ chẳng chút bận tâm về những điều ấy khi còn giữ đúng quy tắc rửa tay, giữ đúng các luật lệ về thanh sạch và ô uế. Chủ nghĩa duy luật chỉ quan tâm đến các việc làm bề ngoài của con người mà chẳng đếm xỉa gì đến các cảm xúc nội tâm. Người ấy tỉ mỉ phục vụ Thiên Chúa bằng các việc làm bề ngoài, nhưng trắng trợn bất tuân những điều trong nội tâm và như thế là giả hình. Người theo Hồi giáo hằng ngày có thể cầu nguyện với Thượng Đế một số lần nào đó. Để làm việc ấy, người đó đem theo mình một chiếc chiếu, bất cứ ở đâu, lúc nào, người ấy cũng có thể trải chiếu ra, quỳ gối xuống, đọc bài cầu nguyện rồi đứng dậy tiếp tục đi. Có câu chuyện kể về người Hồi Giáo đuổi theo một người nọ, giơ dao lên định giết người ấy. Đúng lúc ấy có tiếng chuông báo đến giờ cầu nguyện, quỳ gối xuống đọc bài cầu nguyện thật nhanh, rồi đứng lên tiếp tục rượt đuổi người kia. Cầu nguyện chỉ là một hình thức, một nghi lễ, một việc tuân giữ bề ngoài, chỉ làm trì hoãn một cách phải lẽ việc giết người của anh ta. Thật chẳng có cơ nguy nào nghiêm trọng hơn cơ nguy đồng nhất hóa tôn giáo với việc tuân giữ bề ngoài. Không có sai lầm nào kinh khủng hơn sai lầm đồng nhất hóa điều thiện với một số hành động gọi là tôn giáo. Đi nhà thờ, đọc Kinh Thánh, dâng cúng, cả đến có một thời khóa biểu để cầu nguyện vẫn không khiến người ta trở thành tốt hơn. Vấn đề căn bản là tấm lòng phải như thế nào đối với Chúa và với đồng bào mình? Và nếu lòng người ấy là thù địch, cay đắng, giận ghét và kiêu ngạo, tất cả việc tuân giữ luật lệ tôn giáo bề ngoài nhập lại, cũng chẳng khiến người ấy trở thành một người khác hơn là một kẻ đạo đức giả.

2/ Lời tố cáo thứ hai của Chúa Giêsu ngầm đưa ra chống lại bọn người chỉ giữ luật đó, họ đã lấy những luật ngô nghê của loài người để thay cho các luật của Chúa. Họ không lắng nghe tiếng Chúa phán dạy để hướng dẫn đời sống mình, mà chỉ nghe theo những lý luận, những tranh luận khôn khéo, những cách nói lẩn quẩn tinh vi, những lý giải tài tình do các chuyên gia về luật soạn ra. Sự khôn khéo không bao giờ có thể dùng làm nền tảng cho đạo giáo chân chính. Đạo giáo chân chính không bao giờ có thể là sản phẩm của trí tuệ con người. Đạo giáo chân chính không do các khám phá tài tình của loài người mà ra, nhưng phải do tấm lòng chân thật, lắng nghe và tiếp nhận tiếng Chúa phán dạy.

SỰ Ô UẾ THẬT SỰ (Mc 7,14-23)

Tuy ngày nay, dường nhu sự việc không phải như vậy, nhưng lần đầu tiên lúc Chúa Giêsu phán những lời được ghi lại đây, thì hầu như đó là một trong những phần có tính cách mạng nhất trong Tân Ước. Chúa Giêsu đang tranh luận với các chuyên gia luật về nhiều phương diện khác nhau của luật truyền khẩu. Ngài đã cho thấy sự không thích hợp của những cách rửa tay cầu kỳ tỉ mỉ, Ngài cũng cho thấy lối bám riết lệ truyền khẩu cách cứng ngắc, thật ra có nghĩa là bất tuân luật của Chúa. Thế nhưng ở đây, Ngài còn nói một điều gây kinh ngạc nhiều hơn nữa. Ngài tuyên bố chẳng có một vật gì từ ngoài vào lại có thể khiến người ta thành ô uế được, vì nó chỉ được thân thể thâu nhận rồi chính thân thể tự giải quyết chúng bằng các đường lối vật lý thông thường.

Chẳng có một người Do Thái, nhất là người Do Thái chính thống chịu tin như thế. Lêvi 11 có một bảng liệt kê dài về những con vật không sạch, không nên dùng làm thức ăn. Sự việc ấy gây hậu quả trầm trọng như thế nào thì người ta đã thấy rõ ràng trong nhiều biến cố xảy ra dưới thời anh em Macabêô. Thời bấy giờ, Antiochus Epiphanes, vua Syri muốn nhổ tận gốc đạo Do Thái. Một trong những đòi hỏi của vua ấy là dân Do Thái p hải ăn thịt heo, nhưng hàng trăm người Do Thái đã thà chịu chết chứ không chấp hành luật ấy. “Nhiều người Israel đã quyết tâm không chịu ăn vật không sạch. Cho nên họ thà chịu chết chứ không chịu để cho thức ăn khiến họ bị ô uế, để khỏi xúc phạm Giao Ước thánh và họ đã chịu chết” (1Mcb 1,62-63), Sách có kể lại chuyện một phụ nữ nó có bảy con trai. Người ta buộc họ phải ăn thịt heo, họ từ chối. Người anh cả bị cắt lưỡi rồi bị chặt hết các bàn tay, bàn chân, sau đó bị chiên trong chảo; người thứ hai bị lột hết da đầu và lần lượt từng người một bị tra tấn, hành hạ cho đến chết, trong lúc người mẹ đã cao tuổi chứng kiến mọi việc, và khích lệ nung trí họ. Họ thà chịu chết chứ không chịu ăn vật gì không sạch. Chính trong một hoàn cảnh như thế, Chúa Giêsu đã nói lên câu nói hết sức cách mạng rằng chẳng có gì từ ngoài vào lại có thể khiến người ta bị ô uế. Chỉ bằng một cái khua tay, Ngài đã xóa sạch mọi luật lệ mà vì đó, dân Do Thái chịu đau khổ và chịu chết. Cho nên các môn đệ Ngài đã kinh ngạc thì chẳng có gì lạ.

Thật ra, Chúa Giêsu muốn nói tự chúng thì vật này, vật nọ không thể là sạch hay không sạch bất luận ý nghĩa tôn giáo nào. Chỉ có con người mới có thể thật sự bị ô uế mà thôi, điều làm ô uế con người chính là các hành động của người ấy, vì chúng vốn xuất phát từ lòng người ta. Đây là một giáo lý mới mẻ, một giáo lý có sức mạnh đập tan mọi sự. Dân Do Thái vốn có, hiện tại vẫn còn có cả một hệ thống các vật kể là sạch và không sạch. Bằng một câu nói quét sạch tất cả, Chúa Giêsu tuyên bố mọi chuyện đó đều không thích hợp, điều ô uế chẳng dính dấp đến các vật người ta đưa từ ngoài vào thân thể, nhưng vốn liên hệ với những gì từ trong lòng người đưa ra.

Chúng ta hãy xét những điều Chúa Giêsu liệt kê, khi Ngài bảo chúng vốn từ lòng người mà ra, và khiến người ta bị ô uế. Ngài bắt đầu vằng các ác tưởng (dialogismoi). Mỗi hành động tội lỗi bộc lộ ra ngoài đều do một hành động chọn lựa trước từ trong lòng, cho nên Chúa Giêsu bắt đầu với tư tưởng gian ác, vốn là nguồn gốc của việc làm gian ác. Kế đó là dâm dục (porneiai), sau đó Ngài cũng kể thêm sự tà dâm (moicheiai), từ trước vốn có nghĩa rộng, nó ám chỉ mọi thói xấu liên hệ đến tính dục. Tiếp theo đó là trộm cướp (klopai). Trong tiếng Hy Lạp chữ chỉ người trộm cướp là kleptes và lestes. Baraba là một lestes, tướng cướp (Ga 12,6). Ăn trộm là kẻ đê tiện, gian xảo, chuyên bòn rút mà không biết xấu hổ, nó không hề có được phẩm chất đáng kể nào, chẳng hạn sự gan góc, liều lĩnh mà không một tướng cướp nào bắt buộc phải có. Giết người và tà dâm được kể tiếp đó, ý nghĩa rất rõ ràng. Tiếp theo là các hành động tham lam (pleonexiai). Chữ này vốn do hai từ Hy văn mà ra, có nghĩa là muốn có nhiều thêm. Nó được định nghĩa là ham thích sở hữu đáng rủa sả. Nó cũng được định nghĩa là “muốn chộp lấy vật mình không có quyền lấy”, “cái tham lam thèm muốn tai hại điều vốn thuộc về người khác”. Đó là tinh thần muốn chụp lấy mọi vật, không phải để bo bo giữ chặt như kẻ keo kiệt, nhưng là tiêu xài hoang phí trong tham dục và xa hoa. Cowley định nghĩa nó là “sự tham lợi không phải vì chính mối lợi, nhưng vì ý thức tiêu xài nó ngay vào các con đường kiêu ngạo, xa xỉ khác”. Do không phải là lòng tham muốn tiền bạc hay đồ vật mà gồm cả lòng tham quyền, sự tham dục không hề chán của xác thịt. Plato nói: Lòng tham củ con người giống như lỗ thủng của một cái bình mà dù có cố gắng tới đâu cũng không có thể đổ đầy được”. Pleonexia là sự tham dục muốn sở hữu và sung sướng nơi những vật thấy được, thay vì thấy hạnh phúc nơi Chúa. Tiếp theo là những việc làm hung ác. Trong Hy văn, có hai từ chỉ gian ác. Kakos chỉ một vật tự nó là xấu, là gian ác và chữ poneros chỉ một người hay một vật tích cức làm xấu, làm ác. Từ được dùng ở đây là poneriai, người poneros là kẻ có tâm địa làm hư hại. Như Bengel nói, anh ta “tập tành làm mọi tội ác và được trang bị đầy đủ để gây điều ác cho bất cứ ai”. Jeremy Taylor thì định nghĩa sự hung ác (poneria) này là “tánh sẵn sàng để gây chuyện rắc rối, tánh thích lừa dối và gây thảm kịch, muốn gây tai họa cho người lân cận, làm hại người ta, khi giao thiệp với ai thì thích hành động gây hư hỏng, lệch lạc, buồn lo cho người ấy”. Chữ poneria chỉ kẻ không chỉ làm hư chính mình mà còn gây tai hại cho người khác nữu. Poneros (kẻ ác) chính là danh hiệu của Satan. Người làm công việc của Satan là kẻ tệ hại nhất trong loài người, là kẻ bản thân vốn đã xấu mà còn khiến người khác trở nên xấu như mình. Tiếp theo là từ dolos được dịch là gian dối. Nó vốn do một từ được dùng để chỉ sự mồi chài và có nghĩa là lường gạt, gian lận. Chẳng hạn nó được dùng để chỉ cái bẫy chuột. Lúc người Hy Lạp vây thành Troa nhưng không vào được, họ mang đến cho dân thành Troa một lễ vật là một con ngựa bằng gỗ như biểu tượng của thiện chí. Dân thành Troa mở cửa thành để đem nó vào. Nhưng trong bụng ngựa là binh sĩ Hy Lạp, đêm ấy họ chui ra để tàn diệt và phá hủy thành, đây đích thực là dolos, là một lường gạt quỷ quyệt, khéo léo, tinh vi do kẻ có đầu óc gian xảo nghĩ ra. Tiếp theo bảng liệt kê là hoang đàng (aselgeia). Người Hy Lạp định nghĩa chữ này là “tinh thần thù ghét mọi kỷ luật”, và tinh thần không thừa nhận sự kiềm chế, dám liều lĩnh làm tất cả những gì mà thói hỗn láo ngang tàng của hắn có thể nghĩ ra”. Đặc điểm quan trọng nhất của kẻ mang tội (aselgeia) là anh ta không còn biết luân lý, đạo đức, không còn biết xấu hổ là gì nữa cả. Người làm tội ác có thể giấu tội mình và luôn tìm đủ cách để giấu nó, nhưng kẻ aselgeia phạm tội mà không thèm thắc mắc, chẳng chút phân vân, ngần ngại khi làm hại đồng bào, đồng loại của mình. Giêsabên là thí dụ cổ điển về kẻ mang tội aselgeia khi bà ta cho xây một đền thờ ngoại đạo trong thành Giêrusalem là thành thánh. Con mắt ganh ghét là con mắt nhìn vào thành công và hạnh phúc của người khác như chỉ muốn nguyền rủa và nếu được sẵn sàng gây tai hại cho người ta. Tiếp theo là lộng ngôn. Từ Hy văn là Blasphemia, khi dùng để chỉ những lời lẽ chống lại loài người, nó có nghĩa là gièm pha, khi dùng chỉ những lời lẽ chống lại Thiên Chúa, thì đó là phạm thượng, lộng ngôn. Nó có nghĩa là kẻ xỉ nhục loài người và Thiên Chúa. Tiếp theo là kiêu ngạo (Huperephania), nghĩa đen của từ này trong Hy văn là “tự xem mình ở trên”. Nó mô tả thái độ của người khinh dể tất cả mọi người, ngoại trừ chính mình. Điều thú vị về chữ này theo cách dùng của người Hy Lạp là nó mô tả thái độ chẳng bao giờ tỏ ra trước công chúng cả.có thể trong thâm tâm, một người luôn luôn tự so sánh mình với kẻ khác cách thầm kín. Có thể người ấy vẫn làm bộ nhún nhường nhưng trong lòng thì kiêu ngạo. Nhưng dĩ nhiên, thỉnh thoảng tánh kiêu ngạo vẫn bộc lộ rõ ràng. Người Hy Lạp có một truyền thuyết về sự kiêu ngạo này. Họ nói rằng những người khổng lồ con trai của Tartarus và Gê, do kiêu ngạo, đã tìm cách quâỵ phá thiên đàng nhưng đã bị Hercules ném xuống. Đó là kiêu ngạo (Huperephania). Đó là chống lại Thiên Chúa, đó là “chiếm quyền Chúa”, chính vì thế mà có người gọi nó là “tột đỉnh của mọi thói xấu”, và đó là lý do “Chúa chống kẻ kiêu ngạo” (Gc 4,6). Cuối cùng là sự điên cuồng (aphrosune). Đây không phải là sự điên cuồng do trí não suy nhược hay khiếm khuyết của bộ óc, nó ám chỉ sự điên cuồng về mặt đạo đức. Nó không mô tả một người điên cuồng vì thiếu trí óc, nhưng là kẻ chọn thủ vai điên cuồng.

Đây quả thật là một bảng liệt kê khủng khiếp mà Chúa Giêsu nêu lên về những điều như vốn xuất phát từ lòng người. Khi khảo sát tỉ mỉ, chúng ta phải rùng mình kinh sợ. Đây không phải lời khuyên chúng ta phải tránh những điều đáng ghê tởm đó, nhưng phải cẩn trọng, thành thật xét lại chính mình.

 

54. Gậy ông lại đập lưng ông – Như Hạ

Cộng đồng nào cũng có những người bảo thủ và cấp tiến. Sống chung không tránh khỏi vấn đề. Người bảo thủ lúc nào cũng lo giữ đúng luật. Đúng quá đến độ “bảo hoàng hơn vua”. Người cấp tiến lúc nào cũng tìm cách phóng xa hơn hiện tại. Xa quá đến độ buông thả. Giữa hai loại người đó, Đức Giêsu sẽ đứng ở vị trí nào? Luật lệ lúc nào cũng cần. Nhưng cần tới mức nào? Đâu là tiêu chuẩn?

Tố ngược

Đức Giêsu xuất hiện giữa một xã hội dầy đặc những tập tục lâu đời. Dầy đặc đến nỗi người ta không còn nhìn thấy ánh sáng Tin Mừng Đức Giêsu mang tới nữa. Chính nơi đây mâu thuẫn giữa Đức Giêsu và những người lãnh đạo Do thái không bao giờ chấm dứt. Họ tìm mọi cách bắt bẻ thày trò Đức Giêsu. Cơ hội đã đến. Ngày đó, “thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, những người Pharisêu và một số kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7:2.5) Họ tố cáo các môn đệ Đức Giêsu thiếu đạo đức vì không giữ luật cha ông. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu tố ngược. Sự thật cho thấy họ mới là những người vi phạm luật hơn ai hết. Đối với những đầu óc duy luật như họ, luật pháp là cứu cánh.

Lối bắt bẻ các môn đệ Đức Giêsu đó tố cáo những suy tư hời hợt vì đạo đức vụ hình thức. Đức Giêsu không thể chịu đựng nổi những cách phản ứng một chiều đó. Bởi vậy, Người lên tiếng tố cáo:”Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả.” (Mc 7:6) Đạo đức giả vì họ chỉ nhấn mạnh vào hình thức mà không lo hoán cải tâm hồn. Họ có khuynh hướng đồng hóa những giới luật thứ yếu với chính luật Tôra. Trong một vài trường hợp, họ còn coi luật lệ con người hơn luật Chúa. Ví dụ luật coban “hủy bỏ lời Thiên Chúa”, không cho người ta “giúp cha mẹ” (Mc 7:12) Truyền thống đã lấn át lời Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Tin Mừng không thể lọt vào những não trạng nặng nề hình thức. Đức Giêsu vạch rõ bản chất những kẻ đạo đức giả: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc7:8a)

Một Pharisêu thời đại như Ted Turner, vua truyền thông Mỹ, mới đây cũng phê bình Kitô giáo “không có lòng khoan dung” và không chấp nhận tự do tín ngưỡng. Ong tự cho mình đạo đức hơn người khác và lên giọng kẻ cả phê bình những nguyên tắc Kitô giáo. Cô Judie, đại diện cho một giáo phái Tin lành đã phản pháo mãnh liệt: “Tôi cho rằng tiền bạc có thể làm cho người ta có địa vị trong xã hội, dám bạo mồm bạo miệng. Tuy nhiên, tiền không làm cho người ta khôn hơn và không che đậy được sự dốt nát.” (VietCatholic 1/9/2000) Ong Mikhail Gorbachev, cựu tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô nhận định: “Ong Turner không có tư cách gì để nói về lòng khoan dung. Trong khi trẻ con Iraq chết dần mòn vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men cũng như những điều kiện y khoa cần thiết” vì lệnh cấm vận của Mỹ, thì “chỉ có Vatican là dám mạnh mẽ tố cáo chính sách diệt chủng của Mỹ ở Iraq.” (VietCatholic 1/9/2000)

Ông Môsê dạy “phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa.” (Đnl 4:2.6) Nếu thi hành đúng như Môsê dạy, người Do thái đã được coi là “một dân khôn ngoan và thông minh” vì “được Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người.” (Đnl 4:7) Nhưng họ đã thiếu khôn ngoan khi đưa ra luật coban, một luật phản với thiên nhiên và luật Thiên Chúa. Những người già cả đã phải đau khổ biết chừng nào vì luật đó! Họ cứ tưởng làm xong nhiệm vụ đối với Chúa là miễn khỏi giữ bổn phận đối với cha mẹ. “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23:4)

Thật là một cú tát nẩy lửa. Những người Pharisêu và kinh sư choáng váng. Họ chưa kịp phản ứng, Đức Giêsu đã dạy cho một bài học đắt giá về cuộc sống đạo đích thực. Mọi canh tân phải bắt đầu từ bên trong. “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu.” (Mc 7:21) Chỉ lo sửa đổi hình thức, quên khuấy nội dung là chính lòng người, cuộc canh tân trở thành vô nghĩa và sẽ thất bại thê thảm. Đức Giêsu dạy các môn đệ phải phân biệt nghi thức bên ngoài và việc đạo đức đích thực (Mc 7:21-23) Mọi luật lệ phải dựa trên lòng kính sợ Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu cũng tôn trọng khuôn khổ căn bản của pháp luật Do thái. Người không chủ trương phá bỏ luật lệ: “anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5:17) Luật Môsê và sứ ngôn là những lời mạc khải. Cao điểm là Đức Giêsu. Chính nơi cao điểm này, mọi sự sẽ đạt tới mức thập toàn.

Tinh thần Tin Mừng

“Truyền thống của người phàm” chỉ làm cho cuộc sống nặng nề và mất hạnh phúc. Một cuộc ép duyên trắng trợn giữa “truyền thống của người phàm” và “điều răn của Thiên Chúa” không thể chấp nhận được. Chính vì thế, Đức Giêsu đã mạnh mẽ tố cáo: “Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7:7) Anh em Tin Lành rất thích đoạn Tin Mừng hôm nay, vì cho thấy sự khác biệt giữa Kinh thánh và truyền thống. Họ nhìn về phía Công giáo như một tổ chức đầy những truyền thống cồng kềnh, coi việc giải thích lời Chúa hơn chính lời Chúa. Đối với họ chỉ có Kinh Thánh mà thôi. Họ đề cao việc cải cách. Họ không muốn chấp nhận truyền thống, vì truyền thống làm cho lời Chúa bị hiểu sai lạc. Chỉ có Thánh Linh mới giúp tín hữu hiểu đúng lời Chúa. Không cần những nhà chuyên môn như giáo sĩ trong Giáo Hội. Tóm lại, truyền thống và Tin Mừng, Thánh Linh và chuyên môn chống đối nhau.

Có thật như thế không? Giáo hội Công giáo quả thực có một truyền thống lâu đời. Nhưng không phải truyền thống luôn luôn xấu. Cũng không phải cải cách nào cũng tốt. Giáo hội luôn phải canh tân. Nhưng không thể canh tân đến nỗi đánh mất bản chất và đi xa đường hiệp nhất. Kinh thánh không phải là một cuốn sách, nhưng là kết quả của truyền thống. Chẳng hạn, Tin Mừng không ghi nhận trực tiếp những lời từ miệng Chúa, nhưng là nơi ghi lại nhịp sống lời Chúa trong truyền thống Mathêu, Mátcô, Luca và Gioan. “Đức tin Kitô giáo hiểu truyền thống như một biến cố đang tiếp diễn với những nhân vật chính là con người và Thiên Chúa.” (Pottmeyer 1995:1119) Nếu thế, bất cứ Giáo hội nào cũng đang tạo những truyền thống ghi lại cuộc sống giữa Thiên Chúa và con người. “Thánh Kinh không những truyền lại nội dung truyền thống, mà cả những kiểu mẫu giải thích truyền thống đó nữa.” (Pottmeyer 1995:1121) Thánh Kinh “là Lời Thiên Chúa vì Chính Thánh Linh làm cho cộng đoàn tiên khởi sống, hiểu và truyền lời Chúa lại cho hậu thế. Thánh Linh vẫn còn làm việc không ngừng.

Chính Thánh Linh làm cho Thánh Kinh và truyền thống không đối chọi nhau. Cũng không có gì mâu thuẫn giữa Thánh Linh và các nhà chuyên môn. Ngay trong các Giáo hội Tin Lành, các mục sư cũng là những nhà chuyên môn. Nếu không, tại sao phải mất nhiều công sức, thời giờ và tiền bạc huấn luyện các mục sư? Bởi thế, trong khi làm việc trực tiếp trong tâm hồn các tín hữu, Thánh Linh vẫn không bỏ qua những nỗ lực con người. Đúng hơn, con người cộng tác với Thánh Linh để đào sâu lời Chúa. Nhờ đó mới có thể “đem Lời ấy ra thực hành.” (Gc 1:22) “Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em,” (Gc 1:21b) vì “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63).

 

55. Khi đại bàng vỗ cánh – Lm. Đỗ Vân Lực

Đầu óc tôi lúc này cứ miên man suy nghĩ về lời nhận định nhức nhối của một viên chức cao cấp ở Tòa Thánh Vatican. Vị ấy cho rằng giáo dân Việt nam sống đạo sốt sắng, nhưng lòng đạo không sâu. Không hiểu tại sao vị ấy lại nói như thế? Căn cứ vào đâu để khẳng quyết như vậy? Có bằng chứng gì không? Nếu đúng thế, phải làm cách nào cải thiện tình trạng bi đát ấy?

Thiết nghĩ câu nói ấy hàm ý chê giáo dân Việt nam chúng mình không đạo đức thật. Sống đạo chỉ vụ hình thức, lễ nghĩa, theo truyền thống như những người Pharisêu và kinh sư ngày xưa. Tôi bắt đầu tìm bằng chứng. Không phải vô tình viên chức đó đã phán đoán công khai như vậy. Có nhiều bằng chứng xác đáng lắm.

Trước khi kê khai những bằng chứng, tôi tự hỏi thế nào là sống đạo sâu? Thánh Giacôbê trả lời ngay: lòng đạo sâu xa căn cứ trên việc “khiêm tốn đón nhận Lời” và “đem Lời ấy ra thực hành.”[1] Câu trả lời này quả thực đã giúp chúng ta hiểu được những quan tâm của những người Pharisêu và kinh sư hôm nay. Họ đã đặt vấn đề với Chúa: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”[2] Câu hỏi của họ có thực sự tỏ lộ họ đang quan tâm tới Lời Chúa không? Nếu thực sự quan tâm tới lời Chúa, họ có quá chú ý tới những hình thức bên ngoài và vụn vặt đó không?

Những quan tâm của họ lộ ngay trong vấn đề nêu lên với Đức Giêsu. Họ bám sát Thày trò Đức Giêsu để moi móc và chỉ trích. Dựa trên những tiêu chuẩn truyền thống bên ngoài, họ kết luận về giá trị đạo đức của các môn đệ.[3] Có lẽ trước khi ăn, nhiều lần Đức Giêsu cũng chẳng rửa tay. Nhưng tại sao họ không dám đụng tới Người? Câu hỏi của họ không còn thuần túy nằm trong lãnh vực tự nhiên. Rửa tay trước khi ăn không phải vì lý do vệ sinh, nhưng đã trở thành một truyền thống và lễ nghi tôn giáo. Họ thắc mắc để nhằm tới lãnh vực tâm linh, đạo đức và tôn giáo.

Theo Thomas Merton, khi thắc mắc như thế, không những người Pharisêu và kinh sư để lộ những quan tâm, mà còn cho thấy cách nhận thức về chính mình và thế giới. Đó cũng là cách tấn công và tố cáo đối phương một cách tế nhị. Nhưng qua đó người ta cũng thấy lộ ra những giấc mơ và khát vọng muôn đời của họ. Nắm rõ ý đồ hiểm độc của họ, Chúa Giêsu đã cao giọng “xỉa thẳng” vào mặt họ và mở rộng vấn đề. Vượt trên truyền thống và nghi lễ, Người muốn định nghĩa cho mọi người thấy thế nào là con người có lòng đạo đức đích thực và sâu xa.

Đã đến lúc con người phải nhìn thật rõ những gì đang diễn ra chung quanh mình. Những tội ác ghê tởm không phải tự trên trời rơi xuống hay dưới đất mọc lên, nhưng từ lòng người chui ra. Đó là những sản phẩm của con người. Những sản phẩm đó sẽ ảnh hưởng ngược lại và tạo ra một thứ người không phải là người. Dơ nhớp đến độ họ cũng không thể tưởng tượng và chịu đựng nổi chính mình![4] Những tội ác Chúa liệt kê ở đây tương ứng với những lời Chúa dạy về sự công chính mới phát xuất từ Bát Phúc, sự công chính dẫn tới sự thanh sạch nội tâm.[5]

Đáng lý có những vấn đề cần phải đặt nặng hơn như “công lý, lòng nhân và thành tín.”[6] Đó mới là những đức tính cốt lõi trong Bài Giảng Trên Núi. Những đặc tính đó làm thành ba mặt của lòng thanh sạch không thể tách rời nhau như Chúa Giêsu đã truyền.[7] Nhờ đó, ta có thể nhận ra ai là người có lòng đạo đích thực và sâu xa. Chúa không chê trách những việc theo truyền thống và nghĩa vụ xã hội.[8] Nhưng phải biết tôn trọng những bậc thang giá trị. Đạo đức bao giờ cũng phải chiếm vị thế ưu việt. Tâm hồn trong sạch là điều kiện cần thiết để con người tiến gần đến sự thánh thiêng của Thiên Chúa, chiêm ngưỡng Thiên Nhan, và trở thành người thờ phượng Thiên Chúa đích thực. “Trong Tân Ước, trong sạch là một công trình của Thần Khí, Đấng hoạt động trong tâm hồn các môn đệ qua đức tin và ơn Thanh tẩy.”[9]

Những vấn đề thiêng liêng như thế làm sao lại có thể ngang hàng với những vấn đề trần tục, kể cả truyền thống cha ông? Người Pharisêu và kinh sư đã đặt sai vấn đề, chỉ vì tâm hồn họ không thanh sạch. Cái nhìn của họ thật giới hạn. Họ chỉ chú tâm tới vật chất và hoàn toàn theo những truyền thống cha ông. Cha ông bảo sao, cứ thế mà làm. Chẳng cần suy nghĩ nhiều. Quần chúng lại càng ít đặt vấn đề hơn. Bởi thế, chạnh lòng thương đám đông, Chúa mới mời mọi người suy nghĩ về bản chất của sự thanh sạch và đạo đức thực sự.

Chỉ có tâm hồn thanh sạch mới có thể bay bổng để nhìn rõ mọi sự như Chúa. Cần phải được giải thoát khỏi “cái tôi,” con người mới có thể nhìn cao hơn và sâu hơn. Đàng khác, “Muốn hiệp thông với Đức Kitô và chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, muốn nhận ra khuôn mặt Chúa nơi anh em và trong những công việc hàng ngày, cần phải có bàn tay vô tội và tâm hồn thanh sạch. Bàn tay vô tội được chân lý tình yêu chiếu sáng. Tình yêu này vượt trên sự lãnh đạm, nghi ngờ, sai lầm và ích kỷ. Hơn nữa, rất cần những tâm hồn thanh sạch, những tâm hồn đã được vẻ đẹp Chúa thu hút trọn vẹn, những tâm hồn mang dáng vẻ dung nhan Chúa Kitô.”[10]

Trở lại vấn đề đặt ra ở đầu bài suy niệm hôm nay, chúng ta thấy lời chê trách của người ngoài có hợp lý không? Đã thấy đủ bằng chứng về lòng đạo của chúng ta hay chưa? Chúng ta quá coi trọng lễ nghi hình thức, trong khi lại coi thường những vấn đề công bình, lòng nhân đạo và sự thành tín. Chúng ta rất khó hiệp nhất, tha thứ, đối thoại với nhau. Công lý trở thành thứ yếu trước những truyền thống, quyền lợi, tổ chức, cơ cấu v.v. Những vấn đề này đã được nói đến quá nhiều rồi. Mỗi người có thể kiếm thấy bằng chứng đầy dẫy chung quanh mình và ngay nơi chính mình nữa.

Lạy Chúa, xin cho con đôi cánh đại bàng để con có thể bay thật cao và nhìn thật rõ những gì đang diễn ra trên mặt đất và trong tận đáy lòng con. Xin sai Thần Khí đến hoạt động trong con để con trở thành người thờ phượng Chúa đích thực. Amen.

(Ngày 03.09.2006)

[1] Gc 1:21b.22.

[2] Mc 7:5.

[3] x. Mc 7:5.

[4] x. Mc 7:21-23; Mt 15:10-20.

[5] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.

[6] Mt 23:23.

[7] x. Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.

[8] x. Mt 23:23.

[9] Servais Pinckaers, O.P., The Pursuit of Happiness – God’s Way – Living the Beatitudes, trans. Sr. Mary Thomas Noble, O.P, 1998, tr. 131.

[10] ĐGH Bênê đictô XVI: Seek Christ With Pure Hearts, Zenit, 01.09.2006.

 

56. Trinh sạch hay ô uế đều phát xuất từ cõi lòng

(Suy niệm của Giuse Đỗ Anh Dũng)

Lẽ thường trong dân gian quan niệm rằng: “Nội Dung” thì quan trọng hơn “Hình Thức”, “Bên Trong” thì tốt hơn “Bên Ngoài”, “Chất” thì quý hơn “Lượng”, “Tinh Thần” thì cao cả hơn “Vật Chất”. Ông bà ta cũng đã từng đúc kết: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Cái nết đánh chết cái đẹp.

Tin Mừng thánh Mác-cô hôm nay thuật lại việc một số người Pha-ri-sêu chỉ trích các môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay. Thật vậy, người Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu có truyền thống là: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận, thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn…(x.Mt 7,3-4), họ còn quan niệm thịt heo và thịt thỏ là những vật ô uế, không thanh sạch nên họ không ăn (Đnl 14,7-8). Những điều này thì cũng hợp tự nhiên thôi nhưng họ lại xem như là điều chính yếu trong đạo. Vì thế, khi thấy các môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà chưa rửa tay thì họ đã xét đoán. Họ chú trọng sự dơ bẩn bên ngoài nhưng lại không quan tâm gì đến sự nhơ bẩn bên trong cõi lòng. Chúa Giêsu – nhà cách mạng tôn giáo – muốn “khử thiêng” những hình thức bên ngoài này và khuyên con người khi thực hành tôn giáo thì phải chú trọng đến ý nghĩa tinh thần bên trong của luật và việc thanh tẩy tâm hồn mới là điều chính yếu trong đạo.

Hơn nữa, Chúa Giêsu khẳng định sự thanh sạch hay ô uế đều xuất phát từ trong lòng con người vì mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp (x.St 1,31) nên không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế (x.Mc 7,15). Chúa Giêsu đã mặc khải lên đến nguồn gốc của tội lỗi: đó là sự ước muốn bất chính, vô độ trong lòng. Kinh Thánh cũng nói: “Tội ác thì thào trong thâm tâm kẻ dữ. Nằm trên giường hắn bày ra chước độc mưu thâm” (Tv 35, 2a.5a). Tội lỗi len lỏi vào trong cõi lòng nhơ uế và phát xuất những tưởng suy, những ý định xấu xa: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7,21-22).

Ước muốn bất chính làm ô uế tâm hồn, làm mất đi tính thiện nơi con người. Chúa Giêsu quả quyết: “Cây mà tốt thì quả cũng tốt, cây sâu thì quả cũng sâu; người xấu thì làm sao nói điều tốt được? vì lòng có đầy, miệng mới nói ra (x.Mt 12,33-34). Tâm có tốt thì lời nói chân thực và hành động mới ngay chính, tâm xấu xa thì lời nói giả dối và hành động gian manh vì hành động là tiếng nói của cõi lòng. Chúa Giêsu đã thấu biết lòng dạ thiếu ngay thẳng của người Pharisêu (x.Mc 2,8): họ ăn chay, cầu nguyện, bố thí không phải vì lòng mến nhưng là để tự cao, tự tôn rằng mình công chính, đạo đức hơn người, khoe sự giàu sang khi dâng cúng thì cố ý cho thiên hạ nghe thấy tiếng kêu của những đồng tiền va vào thùng. Tương phản với hình ảnh người Pharisêu, người thu thuế không tự phụ việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí của mình mà chỉ khiêm nhường nhận mình tội lỗi và xin lòng thương xót của Thiên Chúa nên được Chúa kể là người công chính (x.Lc 18,9-14). Cũng vậy, người đàn bà góa chỉ dâng hai đồng xu nhỏ thôi nhưng là dâng cả tấm lòng của bà, tuy không có tiếng kêu của đồng tiền nhưng tấm lòng quảng đại của bà thì vang mãi (x.Mc 12,41-44). Việc đạo đức của ta phải chăng đôi khi cũng có tà ý: Ta ăn chay mà lòng chẳng chay tịnh chút nào khi tự nhủ: phải chi hôm nay không phải là ngày ăn chay để đi ăn tiệc. Khi cầu nguyện, ta cũng đọc kinh, tham dự thánh lễ nhưng lại chẳng có một chút tâm tình yêu mến nào vì lòng ta còn đang bận rộn với bao công việc, hay đang để tâm tới một mối lợi nào đó. Khi bố thí, ta lại muốn được đưa tin, quảng cáo, xướng danh cho thiên hạ biết đến mình.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thường có khuynh hướng đánh giá nhau theo cái nhìn bên ngoài. Xin thanh tẩy lòng trí chúng con và ban thần trí Ngài để chúng con đừng xét đoán lương tâm của nhau vì điều này chỉ dành cho Ngài, và chỉ có Ngài mới thấu hiểu lương tâm mỗi người (Tv 32,15).

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con hiểu rằng: việc quan trọng và cần thiết là năng thanh tẩy linh hồn. Với một tâm hồn thanh sạch, chúng con sẽ nhận biết Chúa, sẽ gặp gỡ Chúa (mối phúc thứ sáu) trong kinh nguyện và thánh lễ; trong thinh lặng của cõi lòng và trong cả những ồn ào, bận rộn của cuộc sống để nghe Chúa đang nói những gì với chúng con.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho lòng chúng con đừng ham muốn những sự đời này, vì khi chưa có thì ao ước, có rồi lại thấy chán; nhưng xin cho lòng chúng con ước ao những niềm vui thiêng liêng, vì bao lâu chưa có thì luôn ước ao, mà khi đã có rồi thì lại càng ước ao hơn (thánh Ghê-gô-ri-ô). Amen.

 

57. Lề luật của Thiên Chúa

(Ts. An tôn Phạm Trọng Quang)

“Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm.”

Kính thưa quý ông bà và anh chị em,

Câu Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nằm trong lời tường thuật của thánh Maccô về một cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu với nhóm biệt phái và những Pharisêu về việc giữ luật. Khi thấy vài môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa, thì những người biệt phái và Pharisêu thắc mắc, tại sao các ông ấy không giữ luật của tiền nhân: là phải rửa tay, tức tẩy uế trước khi ăn, thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước trước rồi mới ăn… Chúa Giêsu liền trả lời: thật các ông là những người đạo đức giả. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm. Qua lời trình thuật trên chúng ta mới thấy được khuôn mặt thật của những người biệt phái và Pharisêu: những người luôn nhân danh lề luật mà làm những việc thiếu tinh thần của lề luật. Bề ngoài họ làm bộ công chính, đạo đức nhưng thực ra họ luôn giò xét người khác, áp đặt, bắt buộc người khác làm những điều mà không bao giờ họ đụng tới. Chúa Giêsu rất bất bình với những ai sống giả hình, chỉ tay năm ngón, nên Ngài đã dùng lời của tiên tri Isaia mà nói thẳng trước mặt họ rằng “Dân này thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ lại xa Ngài.” Có lần Chúa Giêsu đã ví họ như nấm mộ tô vôi, bề ngoài được quét một lớp vôi sáng sủa nhưng bên trong đầy những chất thối tha.

Quả thật, lề luật của Thiên Chúa là lề luật yêu thương. Thiên Chúa ban lề luật của Ngài là để cho con người nhờ đó mà được sống yên vui hạnh phúc. Thiên Chúa ban lề luật là để cho con người được sống bình đẳng. Thiên Chúa ban lề luật là để cho con người biết sống hoà thuận với nhau hơn. Thế nhưng con người lại quá nại đến lề luật mà xử sự với đồng loại của mình thiếu tình bác ái. Xét cho cùng nhiều người đã núp đàng sau lề luật mà xử sự với người khác theo ý của mình.

Một lần, có một cô gái ngoại đạo đến nhà thờ với bạn bè của mình. Khi cô bước vào giữa mọi người, một người có trách nhiệm trong nhà thờ tiến lại đứng trước mặt, ngăn cản: “Cô không thể vào đây được, mời cô ra ngoài” Cô gái hỏi tại sao thì được giải thích là: “Chúng tôi không chấp nhận kiểu ăn mặc như cô” Người bạn của cô (người có đạo) mới phân trần: “Cô ấy là người ngoại, chưa biết lối quy định ăn mặc của chúng ta, xin cho cô ấy ở lại” (Quy định của giáo xứ này là ngày Chúa nhật mọi người phụ nữ phải mặc áo dài… trong khi cô gái này lại mặc áo sát nách) Nhưng vị chức trách ấy càng gắt khao hơn: “Tôi bảo người Công giáo chúng ta không chấp nhận kiểu ăn mặc như thế”

Cô gái đó xấu hổ bước ra vì bao ánh mắt đang hướng thẳng về cô. Cô rất buồn và hết sức thất vọng. Từ hôm đó cô đánh mất thiện cảm với người công giáo, thậm chí rất tức giận. Và cũng kể từ đó cô không bao giờ đặt chân đến nhà thờ nữa.

Vâng, kính thưa quí ông bà và anh chị em. Đã bao lần chúng ta nhân danh luật lệ mà làm hại danh dự của người khác. Hoặc đã bao lần chúng ta nhân danh lề luật Thiên Chúa mà có những xử sự thiếu bác ái khiến cho người ta nghĩ sai về Thiên Chúa tình yêu. Nhiều lắm, tôi nghĩ như thế. Trong cuộc sống hằng ngày, khi chúng ta nhân danh lề luật mà đoán xét người khác là chúng ta tước đi quyền xét đoán của Thiên Chúa. Khi chúng ta căn cứ vào ý nghĩ cá nhân mà bác bỏ hoặc từ chối ý kiến của người khác là chúng ta đã hạ thấp phẩm giá của họ. Hoặc khi chúng ta quá đề cao phẩm giá của mình (xỉ diện) mà từ chối một người nghèo, bệnh tật, cô thân cô thế… là chúng ta đã gạt bỏ giới luật yêu thương của Thiên Chúa rồi.

Kính thưa quý ông bà và anh chị em. Qua những chia sẻ trên đây, tôi xin mời mọi người hãy kiểm điểm lại đời sống của mình và khiêm tốn lắng nghe lời Chúa dạy hôm nay: Sách Đệ-nhị-luật dạy rằng: “Đừng thêm gì vào lời Thiên Chúa dạy cho chúng ta, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Thiên Chúa. Chúa chúng ta” (4,2). Và thánh Giacôbê thì dạy: “Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (1,21-22)

Lời Chúa là lời sự thật, là lời mời gọi yêu thương, là lời ban sự sống. Xin cho tất cả chúng ta biết khiêm nhường và biết cởi mở tâm hồn để đón nhận lời Thiên Chúa dạy, để cho lời Ngài được thấm nhập và biến đổi cuộc đời của chúng ta, giúp chúng ta biết yêu thương, cởi mở với mọi người trong lề luật, chứ đừng vì lề luật mà tỏ ra khắt khe, đòi buộc nhiều điều nơi người khác. Amen.

 

58. Giả hình, giả dối

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pha-ri-sêu và kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ…thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch. Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.

Nhân dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước hết, Chúa trưng lời ngôn sứ I-sai-a: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái vỏ quan trọng hơn cái ruột; cái hình thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng.

Vấn đề rửa tay trước khi ăn. Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động: miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn người ta đến hành vi độc ác, xấu xa.

Thực vậy, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”, để diễn tả người mang mặt nạ giả danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Câu truyện sau đây là một bằng chứng: Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi. Lòng dạ con người thật nham hiểm.

Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ: loài người không dò thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”, “Thiên Chúa, Đấng thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên Chúa”…Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được. Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa.

Chúng ta hãy suy nghĩ xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc kinh dâng lễ, nhưng có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa bên ngoài môi miệng, còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình. Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm, trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “Tốt mã rã đám”.

 

59. Giáp mặt – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Tại thủ đô Hà Nội, cách đây ít lâu, có một cuộc triển lãm, lấy tên là “hàng thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là “một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.

Bài Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pha-ri-sêu và kinh sư, còn bên kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.

Trong Tin Mừng chúng ta hay nghe nói đến những người Pha-ri-sêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy tập tục loài người”.

Rồi như một hệ lụy, những người Pha-ri-sêu và kinh sư thường xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm nay.

Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức mà là một thái độ sống.

Thế là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pha-ri-sêu và kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh tốt đẹp bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.

Chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.

Không những chúng ta không được sống giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại: hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang” cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.

Cuộc giáp mặt giữa những người Pha-ri-sêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v… không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.

Dĩ nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những cuộc giáp mặt trong đời.

home Mục lục Lưu trữ