Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 61
Tổng truy cập: 1444086
NƯỚC TRỜI ĐƯỢC XÂY DỰNG TRÊN LÒNG KIÊN NHẪN
Tiếp theo dụ ngôn người gieo giống, Chúa nhật hôm nay chúng ta được tiếp tục suy niệm các dụ ngôn về Nước Trời. Chúng ta cùng nhau dừng lại nơi dụ ngôn lúa và cỏ lùng. Ngày nay, người ta muốn diệt cỏ thì rất dễ dàng. Chỉ cần một bình xịt thì không bao lâu cỏ mà ta muốn diệt sẽ chết hết. Ngày xưa và nhất là nơi vùng đất Do thái không được như thế. Do đó, khi phát hiện trong ruộng có nhiều cỏ lùng người đầy tớ đã tức tốc chạy báo cho ông chủ. Đồng thời, anh cũng xin chủ cho mình ra ruộng nhổ và gom đi những cỏ lùng đó. Thế nhưng, ông chủ với thái độ bình thản và kiên nhẫn trả lời: “Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi.” (Mt 13, 29 – 30)
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và rất mực khoan dung (Tv 103, 8 ). Người không muốn một ai trong chúng ta phải hư mất. Chúa Giêsu đã nói: “Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người tội lỗi” ( Mt 9, 13 ). Thiên Chúa không dung túng cho tội lỗi nhưng Người rất thông cảm cho sự yếu đuối và mỏng dòn của con người.
Chúng ta nhớ thời Cựu ước, dân Do thái không biết bao nhiêu lần bội nghĩa thất trung nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ. Những Tông đồ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi cũng là những người thất học, thậm chí có người tội lỗi công khai. Dù vậy, chính những người đó lại là nền tảng để xây dựng Giáo hội. Đúng như lời của một ai đã nói: “Không thánh nhân nào mà không có một quá khứ tội lỗi. Cũng như không có một tội nhân nào mà không có một tương lai rực sáng”.
Có lẽ nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao còn nhiều kẻ ác vẫn còn sống thoải mái. Thậm chí họ còn làm hại nhiều người lành nữa. Trời đất sao tiêu diệt những hạng người đó cho xong. Suy niệm dụ ngôn hôm nay chắc phần nào chúng ta sẽ tìm được câu trả lời. Thiên Chúa không bao giờ muốn ai trong chúng ta bị hư mất. Hãy cám ơn Chúa vì biết đâu có lúc chính ta lại là những cỏ lùng. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn trông chờ chúng ta có thể trở thành cây lúa tốt.
1.- Ngữ cảnh
Câu dẫn nhập ngắn (c. 24a) liên kết dụ ngôn Cỏ lùng (13,24b-30) với hai dụ ngôn tiếp theo (cc. 31a.33a). Chủ đề “gieo giống” cũng là chủ đề của dụ ngôn trước; các từ móc là “gieo” (speirô), “giống” (sperma) và “ruộng” (agros).
Hai dụ ngôn ngắn, Hạt cải và Men (cc. 31-33), đưa chúng ta tới với diễn từ về các dụ ngôn Đức Giêsu giảng cho công chúng. Dụ ngôn Hạt cải, với một câu mở tương tự 13,24, được liên kết với dụ ngôn trước bằng những từ móc “con người” (anthrôpos), “gieo” (speirô), “ruộng” (agros) và “giống” (sperma). Dụ ngôn Men có nhiều điểm khác biệt hơn. Hai dụ ngôn này có bố cục song song trong phần thứ nhất, còn kết luận thì khác nhau.
Các câu 34-35 đưa tới một kết luận cho bài Diễn từ công cộng. Tác giả Mt đưa độc giả trở lại với cc. 2-3 và cc. 10.13. Câu 35b tương ứng với Tv 78,2 LXX, vì có số phức en parabolais (“Mở miệng ra, tôi sẽ kể các dụ ngôn); còn c. 35c không tương ứng với một bản văn Kinh Thánh nào cả và cũng không thuộc ngôn ngữ Mt.
Với c. 36a, chúng ta được đưa trở lại với Mt 13,1-2: thể văn đóng khung. Câu hỏi của các môn đệ kèm theo câu trả lời của Đức Giêsu được đối lại ở c. 51, với câu hỏi của Đức Giêsu và câu trả lời của các môn đệ.
2.- Bố cục
Nếu xác định cấu trúc theo kiểu quen thuộc của Mt, chúng ta có thể cho rằng đoạn văn đọc hôm nay có ba phần A, B và C, với một câu mở và một câu kết như sau:
Mở (13,24a)
- Các dụ ngôn:
(1) Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (13,24b-30):
- a) Trình bày sự việc (cc. 24b-26),
- b) Mẩu đối thoại giữa chủ nhà và các đầy tớ (cc. 27-30);
(2) Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (13,31-32),
(3) Dụ ngôn 3: “Men” (13,33);
- Lý do nói bằng Dụ ngôn (13,34-35);
- Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (13,36-42; c. 36 là câu dẫn nhập):
- a) Giải thích bài dụ ngôn từng từ một (cc. 37-39),
- b) “Bài khải huyền nhỏ” (cc. 40-43);
Kết (13,43).
3.- Vài điểm chú giải
– Cỏ lùng (zizania, 25): Đây là một loại cỏ ăn bám, độc hại. Khắp vùng Trung Đông đầy loại cỏ này. Nó bị coi là một dạng thoái hóa, biến chất, của lúa mì. Trong thân nó, có một thứ nấm thường tiết ra một chất độc.
– Hạt cải (31): Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs. Cây sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây rau thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Lá của nó có thể làm rau. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt (đường kính khoảng 1mm), nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc, thuốc và thức ăn cho chim. Tục ngữ Do Thái dùng hạt này mà chỉ những gì nhỏ nhất. Sách Mishna coi cây cải đen (brassica nigra) là loại cây trồng ngoài cánh đồng. Nhưng tại Paléttina và nhiều nơi khác, người ta trồng trong vườn nhà.
– Nó trở thành cây to (32): Trong Cựu Ước, cây cho đàn chim trú ngụ là một hình ảnh quen thuộc để diễn tả một vương quốc hùng mạnh đảm bảo che chở các thần dân (x. Ed 17,23; 31,6; Đn 4,9; 11,18). Trong nền văn chương khải huyền, kinh sư hoặc targum, “chim” tượng trưng các dân ngoại đang kéo đến thật đông. Ở đây, Mt nêu bật đặc tính cánh chung của dụ ngôn khi phóng đại kích thước của cây rau thành “một cây to”.
– chim trời tới làm tổ trên cành (32): Chi tiết này không phải là không thể xảy ra, bởi vì chim chóc thích ăn hạt cải.
– vùi vào (33): dịch sát là “giấu trong” (enekrypsen). Động từ này đi với văn cảnh (x. cc. 35.44)
– ba thúng bột (33): “Thúng” là từ được chọn để dịch từ saton Hy Lạp. Saton là một đơn vị đo lường ngũ cốc và bột, tương đương với 13-15 lít. Đây là một lượng bột lớn, khi đã dậy men thì có thể làm ra bánh cho khoảng 150 người ăn. Mt nhấn mạnh đến tính hữu hiệu của men.
– công bố (35): Động từ “công bố”, ereugomai, hiếm khi được dùng. Nghĩa chữ là “mạc khải”, nhưng cũng có thể là “gây ồn ào”, “thốt ra”, “diễn tả”.
– các gương mù gương xấu (40): Trong Kinh Thánh, skandala nhắm đến những sự vật chứ không nhắm đến những con người (x. Mt 18,6-7). Đây là những điều làm cho người khác “vấp”, nghĩa là không đi vững vàng trong đường lối Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Nhìn vào cuộc sống, ta thấy Thiên Chúa ở trong tình trạng ẩn mình, Ngài không can thiệp cách rõ ràng hiển nhiên. Người ta có thể sống không cần và còn chống lại Ngài mà dường như chẳng phải chịu hậu quả gì. Ngài biến mất hoàn toàn đàng sau các thế lực và các quyền hành đang thống trị sân khấu thế giới và đang can thiệp vào trong đời sống chúng ta cách quyết liệt. Tất cả tình trạng này vẫn là một chướng kỳ khiến con người khó mà coi trọng Thiên Chúa và tin cậy nơi Ngài. Điều này cũng đúng cho bản thân và công trình của Đức Giêsu, đúng cho cả cộng đoàn các tín hữu là Hội Thánh. Do bản tính, chúng ta hướng về sự to lớn, sức mạnh, sự hào nhoáng, sự hiển nhiên, sự cao cả, chứ chúng ta không nghiêng về sự chờ đợi, sự kiên trì nhẫn nại. Các giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ lại cách suy tưởng và xử sự của chúng ta.
Đức Giêsu đến không như một nhà chiến thắng oai hùng, có sức thuyết phục và thống trị mọi người. Con đường Người theo và công trình của Người gây nhiều mệt nhọc. Cái chết của Người trong tình trạng bất lực và bị bỏ rơi dường như cung cấp một dấu chỉ rõ ràng cho thấy Người không đáng giá gì và ta không thể tin cậy nơi Người.
Đức Giêsu biết hoàn cảnh khó chịu này, nhưng Người không thay đổi cách xử sự: Người là và vẫn là Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người (x. Ga 1,14), Người đã đi vào trong tình trạng lệ thuộc, yếu đuối và mỏng dòn của cuộc sống con người. Người vẫn là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa, không gây ồn ào, không tỏ ra hào nhoáng (x. Mt 12,15-21).
* Dụ ngôn 1: “Cỏ lùng” (24-30)
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng muốn giúp chúng ta hiểu đúng đắn hoàn cảnh này và ngăn cản chúng ta rút ra những kết luận vội vã. Chúng ta không được chỉ nhìn vào ngày hôm nay, và khép mình lại trong khoảnh khắc hiện tại. Dụ ngôn Cỏ lùng có mục đích ấy.
Dụ ngôn Cỏ lùng là một tấn kịch có hai cảnh. Cảnh thứ nhất diễn ra hai nhân vật và hành động đối lập: Trên cùng một mảnh đất, ông chủ và kẻ thù đã gieo hai loại giống khác nhau, lúa tốt và cỏ lùng là loại cỏ ăn hại. Cảnh thứ hai mở ra với sự can thiệp của các đầy tớ: Họ hỏi một câu hỏi thừa là chẳng lẽ ông chủ lại không gieo giống tốt, mà như vậy thì do đâu có cỏ lùng. Câu hỏi không cần thiết, nhất là bởi vì họ không hỏi vì sao có quá nhiều cỏ lùng như thế. Có ai lại ngạc nhiên khi thấy trong một thửa ruộng xuất hiện thứ cỏ không thể tránh được?
Câu trả lời của ông chủ thật đáng ngạc nhiên. Ông biết rõ ràng là kẻ thù đã làm điều đó. Tuy nhiên, có kẻ thù nào lại có ý tưởng đó và lại có đủ hạt giống cỏ lùng mà gieo ngay trong đêm như thế! Nếu họ lén lút gặt lúa chín hoặc đốt cánh đồng, thì còn dễ hiểu hơn. Đàng khác, gợi ý của các đầy tớ là nhổ cỏ lùng cũng dễ hiểu, vì người ta vẫn làm như thế. Vậy mà ông chủ lại không đồng ý, ông bảo: “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt” (c. 30). Như thế, bài dụ ngôn không muốn mô tả cách làm ruộng thông thường.
Mọi chuyện trở nên rõ ràng khi đến cuối. Các thợ gặt, chứ không phải là các đầy tớ đã đến hỏi, trước tiên sẽ thu gom cỏ lùng, bó thành bó mà đốt đi. Thông thường người ta làm cách khác: cỏ lùng chưa được nhổ đi sẽ bị thợ gặt quẳng trên đất, sau đó được thu gom lại cho gà ăn hoặc để đốt đi.
* Dụ ngôn 2: “Hạt cải” (31-32)
Bằng dụ ngôn tiếp theo, Đức Giêsu mời độc giả quan tâm đến sự tương phản giữa hạt cải lúc đầu và cây to ở hồi kết thúc. Hạt cải là một thứ bé nhỏ và không đáng ai để ý, nhưng sẽ không cứ ở trong tình trạng nhỏ bé mãi; nó sẽ phát triển nhiều và mọi người phải nhìn nhận nó. Một chi tiết lạ: người nọ gieo “(chỉ) một” hạt cải trong ruộng/cánh đồng. Hẳn chúng ta nhớ lại bài dụ ngôn trước (13,24), nhưng ở đây rõ ràng không phải là vấn đề gieo và gặt, mà là vấn đề đặc tính của cây cải mà Đức Giêsu muốn vận dụng để giới thiệu Nước Trời.
Chuyện xảy ra cho Nước Trời cũng như vậy: khởi đầu trong tình trạng bé nhỏ, khiêm tốn; nhưng kết cuộc sẽ là một kết quả đầy sức thuyết phục. Dụ ngôn này là một lời “loan báo” đầy sức an ủi và khích lệ cho những ai chưa thấy các nỗi niềm chờ mong thiên sai được thể hiện nơi công trình của Đức Kitô.
* Dụ ngôn 3: “Men” (33)
Dụ ngôn về men lấy lại bài học của dụ ngôn trên. Hình ảnh “men” lấy từ nhà bếp. Bà nội trợ có thể mua men hoặc tự làm lấy. Đây là sự tương phản giữa phần khởi đầu nhỏ bé và khối lượng bột to lớn ở cuối. Khởi đầu với một chút men, không mấy ai để ý; nhưng trong đó đã chứa đựng tất cả sức bung mở trong tương lai. Như men đã được “giấu ẩn” trong bột, Nước Thiên Chúa lúc khởi đầu là một thực tại không ai thấy; chỉ sang giai đoạn thứ hai, ta mới thấy được sức mạnh của chút men ấy. Sự nhỏ nhoi khiêm tốn của chút men khiến làm ta không ngờ tới tác động của nó trên khối bột; đó cũng sẽ là tác động của Nước Thiên Chúa trong lòng nhân loại. Cũng như tình trạng nhỏ bé là một điều kiện quan trọng để hạt cải phát triển (c. 31), tình trạng giấu ẩn, hòa trộn với bột là điều kiện thiết yếu để cho men có thể tác động.
Động tác “vùi” (“giấu”) men vào trong bột hẳn muốn gợi ý đến tình trạng ẩn giấu của chân lý. Tình trạng ẩn giấu của sự thật trong các dụ ngôn (c. 35) và tình trạng ẩn giấu của kho báu trong ruộng (c. 44) tương ứng với men bị “vùi/giấu”. Hội Thánh có nhiệm vụ vén mở cho thấy chân lý giấu ẩn bằng lời nói và việc làm (10,26-27; x. 5,13-16). Khi làm như thế, Hội Thánh làm cho thế giới “dậy men”.
* Tại sao nói bằng Dụ ngôn? (34-35)
Tác giả Mt cắt ngang diễn từ các dụ ngôn bằng cách đưa vào một “bản tóm tắt” hoạt động rao giảng của Đức Giêsu. “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (c. 34). Câu văn này được TM Mc dùng để kết thúc “phân đoạn” các dụ ngôn (x. Mc 4,33-34); được đưa vào trong văn cảnh Mt, ta không hiểu rõ lý do bao nhiêu. Rất có thể tác giả Mt đưa câu ấy vào đây để ngưng một chút trong diễn từ dài về các dụ ngôn và để đào sâu những nguyên do thần học đã đưa Đức Giêsu đến chỗ chuộng ngôn ngữ dụ ngôn hơn là ngôn ngữ thông thường (x. c. 11). Sau đó, câu 35 với hai vế song song (c. 35b và 35c) giúp hiểu rằng mục đích của Đức Giêsu là trình bày những gì dược giấu kín. Cũng như ở 13,14-15, ở đây lại xuất hiện mối bận tâm biện giáo của Mt, đó là xác nhận thể văn dụ ngôn bằng một chứng từ Kinh Thánh. Lần này ngài trích Tv 78,2, trong đó mầu nhiệm tạo dựng được kể dưới dạng các câu bí hiểm. Tác giả Mt coi mọi bản văn Kinh Thánh Cựu Ước có một giá trị ngôn sứ. Rõ ràng Kinh Thánh đã tiên báo là Đấng Mêsia sẽ nói bằng dụ ngôn! Tuy nhiên, dân chúng lại không hiểu những gì Người đã nói. Chỉ các môn đệ mới hiểu, nên bây giờ Người rút về nhà với các ông. Thật ra, dụ ngôn Men là dụ ngôn cuối cùng Đức Giêsu công bố từ trên thuyền cho dân chúng, rồi sau đó Người về nhà và tiếp tục bài giảng với các môn đệ (c. 36).
Vậy dân chúng ở lại bên ngoài. Họ đã làm điều gì xấu khiến Đức Giêsu phải quay lưng lại với họ như thế? Dựa theo ngữ cảnh của Mt 13, thì chúng ta phải nói: họ không làm gì xấu cả. Đây là cách tác giả báo trước những điều sẽ xảy ra trong cuộc sống tương lai của Đức Giêsu. Dân chúng sẽ đưa Đức Giêsu đến thập giá, có nghĩa là họ sẽ liên tục loại trừ các sứ giả cho đến khi loại được cả vị Sứ Giả tối cao.
* Dụ ngôn Cỏ lùng được giải thích (36-43)
Đức Giêsu bỏ đám đông đang nghe Người tại điểm này và cùng với các môn đệ về nhà, nơi xuất phát (x. 13,1). Nay Người giảng dạy cho các môn đệ. Đời môn đệ là như vậy: suốt đời, họ phải học với “vị thầy duy nhất” là Đức Giêsu (x. 23,8). Tác giả gọi bài này là “dụ ngôn các Cỏ lùng trong ruộng” (hê parabolê tôn zizaniôn tou agrou) vì bài học nhắm vào điểm này.
Đức Giêsu đã giải nghĩa từng hình ảnh một. Danh mục ở cc. 37-39 chuẩn bị cho phần áp dụng ở cc. 40-43. Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Đến c. 41, ta thấy Con Người chính là vị Thẩm phán trần gian. Người nắm trong tay không những công việc gieo giống, mà cả việc thu hoạch và như thế là toàn thể lịch sử thế giới. Trong TM Mt, Con Người là Chúa tể xét xử, Người tháp tùng Hội Thánh suốt hành trình xuyên qua tình trạng cô đơn, đau khổ, để đi đến sự sống lại. Ruộng là thế gian (chứ không phải là Hội Thánh; Hội Thánh luôn hiện hữu chỉ trong sứ mạng truyền giáo cho thế gian). Hạt giống tốt là con cái Nước Trời (x. 8,12). Chúng ta không biết chính xác “con cái Nước Trời” là ai, nhưng toàn thể TM I cho thấy làm thế nào, thay vì dân Israel, “Dân ngoại” (ethnê) mang hoa trái (x. 21,43) sẽ trở thành “con cái Nước Trời”. Các cỏ lùng là “con cái Ác Thần”. Kẻ thù là ma quỷ, nó vẫn đang hoạt động, như ở 13,19, trong lúc này. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần của cuộc phán xét.
Sau những giải thích chuẩn bị, bây giờ tác giả Mt diễn tả mối quan tâm của ngài; ngài nhấn mạnh trên khía cạnh tiêu cực. Cũng như chủ nhà sẽ thu gom cỏ lùng lại vào lúc gặt và “lấy lửa đốt đi” (x. 3,12), chuyện cũng sẽ xảy ra như thế cho các con cái Ác Thần vào lúc tận thế. Ở đây, trên mặt đất này, các sự việc “trộn lẫn” với nhau: bên cạnh những người tốt, có những kẻ xấu. Sự gần kề này là một chướng kỳ. Các môn đệ trong nhà phải để ý đừng thuộc về “những kẻ làm gương mù gương xấu” (skandala) và “những kẻ làm điều gian ác” (anomia), đang có cả ở bên trong lẫn bên ngoài Hội Thánh.
Thiên Chúa lại không phải can thiệp, ngăn cản những kẻ xấu hành động và chặn đứng tất cả những lối xử sự bất công của họ sao? Đây lại không phải là nhiệm vụ của Đấng Mêsia: tách biệt người lành kẻ dữ và thiết lập những tương quan vĩnh viễn trong sáng sao (x. 3,12)? Chúng ta nhớ đến phản ứng của Giacôbê và Gioan khi cả nhóm không được một làng Samari tiếp đón: “Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu dùng dụ ngôn để dạy cho loài người chúng ta biết chấp nhận hoàn cảnh pha trộn này. Người không có nhiệm vụ chia cắt rõ ràng và vĩnh viễn người lành với người dữ. Người quy tụ các môn đệ quanh Người và dạy cho họ biết con đường của Người; như Người, cả họ nữa, họ cũng phải rảo qua con đường ấy trong thế giới này.
Nếu trong cuộc sống trần thế này, vẫn còn tình trạng gần kề, chưa tách biệt, điều đó không có nghĩa là hoàn cảnh này sẽ kéo dài mãi, là làm tốt làm xấu thì cũng như nhau! Đức Giêsu cho biết, số phận của người lành kẻ dữ sau này sẽ hoàn toàn khác nhau. Những người tốt, vì đã ra sức thi hành ý muốn của Thiên Chúa, sẽ được đón vào trong Nước Trời và thuộc về gia đình Thiên Chúa, sẽ được Ngài nhìn nhận là con cái (x. 5,9). Họ sẽ được sống trong ánh sáng và niềm vui chan hòa; chính họ cũng sẽ chói chan hạnh phúc. Những kẻ khác, vì đã không quan tâm đến thánh ý Thiên Chúa, đã đi theo tính ích kỷ và còn muốn lôi kéo người thân cận theo, sẽ bị loại khỏi cộng đoàn này.
+ Kết luận
Xuyên qua hình ảnh cỏ lùng, Đức Giêsu nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với loài người: về phương diện thực vật, cỏ lùng không thể biến thành lúa tốt, nhưng trên bình diện thiêng liêng, kẻ xấu có thể trở thành người tốt, nếu họ được người khác nêu gương sáng, tác động để họ biết vận dụng những ơn lành Thiên Chúa vẫn ban cho họ.
Xuyên qua hình ảnh hạt cải và nắm men, Đức Giêsu cho thấy rằng một tình trạng khởi đầu không nổi rõ không có nghĩa là kết thúc cũng như thế. Chỉ đến cuối, khi cây cải đã lớn lên và bột đã dậy men, người ta mới biết có cái gì ẩn giấu trong hạt cải và men. Cũng thế, Nước Trời (Thiên Chúa) trên mặt đất đang hiện diện, không viên mãn và xán lạn, nhưng trong sức mạnh dồi dào, và sẽ tỏ rõ ra vào lúc kết thúc. Vậy, ai ước ao thuộc về Đức Kitô, cần phải có một tầm nhìn rộng rãi và kiên nhẫn.
Như vậy, Nước Thiên Chúa đã khởi sự với công việc loan báo Tin Mừng, nhưng tình trạng hiện nay còn rất khiêm tốn (chưa đủ thuyết phục) và không rõ ràng (người tốt kẻ xấu đang lớn lên với nhau). Chỉ sau khi đã trải qua một hành trình dài, trong tình trạng tranh tối tranh sáng, Nước Thiên Chúa mới tỏ hiện rõ ràng là một cuộc quy tụ toàn thể vũ trụ vào sống trong bình an của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
- Phương pháp làm việc của con người và Thiên Chúa thật khác nhau. Tiêu chuẩn các đầy tớ nêu ra diễn tả một khát vọng vẫn dày vò các người của Thiên Chúa, như Giêrêmia, Gióp, những người nghèo của Đức Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng đã chia sẻ mối bận tâm ấy khi giới thiệu Đấng Mêsia đến sẽ làm việc quyết liệt: như rìu đã đặt sẵn nơi gốc cây (x. Mt 3,10), như nia đã sẵn sàng để rê lúa (x. Mt 3,11; Lc 3,17); một phép rửa trong lửa đang chờ đợi mọi người (x. Mt 3,11; Lc 3,16). Người ta cũng tạo lập những nhóm “những người hoàn hảo” tách khỏi những người khác: đó là những người Pharisêu, “những người tách biệt”, và những người Exêni ở Qumrân, “các con cái ánh sáng”, “những người công chính”. Đây chính là những đầy tớ của ông chủ trong dụ ngôn. Tuy nhiên, vì có hiểu biết và kiên nhẫn vô biên, Thiên Chúa đã và vẫn xử sự cách khác.
- Thiên Chúa không muốn triệt tiêu sự dữ, nghĩa là những kẻ dữ, nhưng muốn họ sống còn và sống chung với những người tốt. Hẳn là Ngài hiểu tính hợp lý trong đề nghị của các đầy tớ, nhưng Ngài đã phải xử sự ngược đời, là vì cỏ lùng sống đan quyện với lúa tốt, nên nếu nhổ cỏ lùng, thì khó tránh được chuyện nhổ cả lúa tốt. Với lại, nếu cỏ lùng không thể thành lúa tốt (về thực vật học), kẻ xấu lại có thể trở thành người tốt (trong đời sống thiêng liêng). Sự hiểu biết và kiên nhẫn của Thiên Chúa là nhằm cứu độ mọi người. Đàng khác, sự xấu và sự thiện đan quyện với nhau tinh vi đến nỗi không dễ gì mà phân tách ra. Thật ra không phải là với những cuộc tiêu diệt mà người ta xây dựng được Nước Thiên Chúa, nhưng là với sự kiên nhẫn và tin tưởng.
- Những gì mà loài người thấy như là một chướng kỳ thật ra lại là một điều bí nhiệm nằm trong chương trình Thiên Chúa: sự bé bỏng và yếu đuối không gây phương hại mà đúng hơn lại tạo điều kiện cho thành công tương lai. Nếu Nước Thiên Chúa trở thành một định chế tự thỏa mãn về mình và hết là một hạt cải, thì Nước ấy thiếu mất điều kiện tăng trưởng. Chỉ khi biết mình yếu đuối, con người cậy dựa vào Thiên Chúa, con người mới nên mạnh mẽ (x. 2 Cr 12,9). Các tín hữu cần phải bỏ các điểm tựa và các duyên cớ trần tục, trở thành nghèo khó, khiêm nhường, yếu đuối, để Họi Thánh có được những đặc tính như Đấng Sáng Lập thần linh muốn cho có.
- Dụ ngôn Men trong bột khiến chúng ta nhớ đến một phương pháp mục vụ mà các sứ giả Tin Mừng đều nhớ: họ được đề nghị sống âm thầm, khiêm tốn, nhỏ bé, để có thể chuyển sức mạnh Tin Mừng vào trong lòng thế giới và biến đổi thế giới từ bên trong. Một tư tưởng khác đến từ thư 1 Pr 1,1: “Tôi là Phêrô, Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô, kính gửi những người được Thiên Chúa kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ”. Các Kitô hữu sống tản mác, sống tình trạng diaspora. Trong tiếng Hy Lạp, diaspora là hành động gieo hạt: Vậy các Kitô hữu là hạt giống Thiên Chúa gieo vào trong thế giới, để cuối cùng toàn thế giới trở thành một cánh đồng của Thiên Chúa, mang những hoa quả tốt lành.
DỤ NGÔN CỎ LÙNG HẠT CẢI, MEN BỘT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như người kia”: Trong lúc dụ ngôn người gieo giống có thể tóm tắt bằng mấy chữ: việc nảy mầm của Nước Trời sẽ gặp nhiều thất bại đau đớn; thì dụ ngôn cỏ lùng lập tức đi tiếp theo và đặt ngay câu hỏi: các thất bại, các sự chống đối Nước Trời, cái công việc của Thần dữ đó phải chăng không thể bị dẹp bỏ ngay lập tức? Cả hai đều cố gắng đánh đổ lòng nao nức trông chờ Đấng Thiên sai ra tay, dụ ngôn người gieo giống thì bằng cách xác quyết rằng không thể tránh được việc một phần lớn hạt giống bị mất đi; còn dụ ngôn cỏ lùng thì bằng cách khẳng định: đừng hành động trước thời gian, đừng muốn dẹp bô công việc của Thần dữ trước mùa gặt. Xin nhớ là vào thời Chúa Giêsu, sự nóng lòng này đã khiến người ta tin rằng việc giải phóng dân thánh và việc tiêu diệt quân vô đạo sẽ xảy ra ngay lập tức (x. các Thánh vịnh của Salomon và các bản văn Qumrân). Do đó họ không thể nghĩ là có việc chống đối lại Đấng Cứu thế (dụ ngôn người gieo giống) và việc chung sống, lâu dài với sự dữ trong thời Đấng Messia (dụ ngôn cỏ lùng).
(Chú thích về các công thức nhập đề của các dụ ngôn):
Như các dụ ngôn đương thời, dụ ngôn của Chúa Giêsu xuất hiện dưới hai hình thức căn bản:
1/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng chủ cách (nominatif) (chủ từ): đó là các câu chuyện đơn giản không có động thức nhập đề, ví như dụ ngôn người gieo giống (“Này người gieo giống đi ra gieo lúa”).
2/ Những dụ ngôn bắt đầu với một tiếng ở dữ cách (datif) (tức từ gián tiếp) tương đương với chữ “Le” trong tiếng Aram. Đa số dụ ngôn của các giáo sĩ bắt đầu với các chữ ấy: MashalLe (người ta hay gặp chẳng hạn: Mashal. Le mélék shé: “Một dụ ngôn. Giống như ông vua kia…”). Ngữ điệu đó là một cách nói rút gọn, hay một lối viết tắt của câu émshol Lekha, Úlashal. Le ma haddabhar dom? Le… = “Tôi muốn kể cho anh một dụ ngôn. Tôi sẽ so sánh sự vật với cái gì? Thì nó cũng giống như… “. Thỉnh thoảng người ta thay thế ngữ điệu dài dòng đó bằng một tiếng dữ cách duy nhất.
Trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu, ta gặp một công thức nhập đề dài ở dữ cách nơi các câu hỏi đi trước dụ ngôn của Mc 4, 30 tắt: “Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa hay lấy gì mà ví nó được? Thì cũng như…” hoặc của Lc 13, 20t: “Ta sẽ lấy gì mà so sánh Nước Thiên Chúa?”.
Tương ứng với công thức vắn với dữ cách khởi đầu, là các chữ hôs, hôsper, “như” viết ra tiếng Hy lạp là homoiôthêsetai, homoiôthê, homoios estin, “giống như”; trong căn ngữ của 5 công thức này, cũng có cùng một giới từ Aram là “Lc”. Như vừa nói, chữ “Le” này là một lối viết tắt, nên không chỉ được dịch là “giống như song là: “Về… thì cũng giống như…”. Trong nhiều trường hợp, chính nội dung của dụ ngôn buộc ta phải để ý đến lối viết tắt của công thức nhập đề đó, vì công thức này thay đổi điểm ta muốn so sánh. Trong Mt 13, 45, Nước Thiên Chúa rõ ràng là không “giống như người thương gia”, mà giống như “viên ngọc quý”; trong Mt 25, 1, nó không “giống như mười trinh nữ” mà giống như bữa tiệc cưới; trong 22, 2 nó không “giống như vua kia” mà giống như các cuộc vui ở tiệc cưới; trong 20,1 Nước Thiên Chúa không “giống như gia chủ” nhưng giống như việc trả lương; trong 13, 24, nó không “giống như ‘ người kia gieo giống tốt trong ruộng mình”, mà giống như mùa gặt hái; trong 18, 23 nó không “giống như ông vua trần thế” mà giống như việc tính sổ. Trong mọi trường hợp trên, ta tìm ra điểm so sánh đích thực khi nhớ rằng: dưới thành ngữ Hy lạp homoios estin “giống như”, tiềm ẩn một chữ “Le” Aram, mà ta phải dịch là: “Về…. thì cũng giống như..”.
Nhận xét này cũng có giá trị đối với các trường hợp khác trong đó ta thường không thấy lối viết tắt của công thức nhập đề. Không thể dịch Mt 13,31 là “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải…” mà phải dịch: “Về Nước Thiên Chúa thì cũng giống như hạt cải… “, vì chẳng phải với hạt cải mà Nước Thiên Chúa được so sánh, nhưng là với cây to lớn phát sinh từ hạt cải và làm chốn nương náu cho chim trời. Ở trong Mt 13, 33 cũng thế: Nước Trời không “giống như men” mà giống như bột dậy lên (coi Rm 11,16) và trong Mt 13,47 Nước Trời không được ví với chiếc lưới đánh cá, nhưng như việc lựa lọc cá bị mắc vào lưới.
“Hãy để chúng mọc lên cả hai cho đến mùa gặt”: Trong suốt cả dụ ngôn, ông chủ luôn tỏ ra tự tín. Khi được hỏi về nguồn gốc cỏ lùng, ông không chút ngần ngại tuyên bố: cỏ lùng do kẻ thù gieo. Ông cũng tỏ ra tin tưởng vào giá trị hạt giống của ông, và biết chắc cỏ lùng sẽ không tài nào thắng thế. Kể cũng lạ khi ở đây hầu như không biết đến nguy cơ làm chết ngạt hạt giống tốt, cái nguy cơ đã được tỉ mỉ mô tả ở dụ ngôn người gieo giống trước (13,7).
“Một hạt cải”: Tính cách nhỏ bé của hạt cải được đưa vào ngạn ngữ Palestine. Nhưng cây cải lại cao đến 2 hay 3 mét, đứng quanh vùng có thể thấy. Tuy nhiên dù cao lớn (arbuste), nó cũng không phải là cây (arbre) như dụ ngôn nói.
“Thành một cây”: Trong Cựu ước, cây có chỗ cho chim trời nương náu là một hình ảnh thường dùng để chỉ một vương quốc hùng mạnh bảo đảm được an ninh cho thần dân mình (Ed 17, 23; 31, 6; Đn 4, 9; 11, 18). Trong văn chương khải huyền, giáp sĩ hay targum, chim tượng trưng cho dân ngoại đến từng lũ, từng đoàn. Ở đây Mt nhấn mạnh đặc tính cánh chung của dụ ngôn (nhưng điều này không loại bỏ lối áp dụng có tính cách Giáo Hội học) khi phóng đại thân cây rau lớn (arbuste) thành một “cây to (arbre).
“Bà nọ lấy, vùi…”: dịch sát chữ: che dấu”, hạn từ này đưa về ý tưởng chủ yếu của cả phần này.
“Ba thúng bột”: Đây là một khối lượng bột rất lớn, trên 39 lít, nghĩa là khoảng 60-70 ký lô. Con số ba thúng bột này. Khác hẳn lấy từ St 18. 6 (x.Tl 6, 19 và 1 Sm 1, 24) là quá phóng đại vì lượng bột đó làm đủ bánh nuôi trên 150 người ăn! Viễn ảnh dị thường của bữa ăn này xem ra muốn đưa ta nghĩ đến bữa tiệc cánh chung. Ở dây Matthêu nhấn mạnh tới hiệu lực của men, thứ có một sức mạnh lạ lùng như vậy. “Cho đến khi tất cả dậy men”: hiệu lực của Nước Trời lan rộng đến toàn thể sức mạnh của nó thật vô song, dù bề ngoài xem ra yếu ớt.
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà nói hết thảy các điều ấy với dân chúng, và Người không nói với họ điều gì mà lại chẳng dùng dụ ngôn”: Trong văn mạch Mt, phải giới hạn nghĩa của chữ “hết thảy” vào lời giảng dạy của Chúa Giêsu về Nước Trời. Vì không phải bao giờ Người cũng nói bằng dụ ngôn; nhưng khi dạy về mầu nhiệm Nước Trời, thì Người luôn dùng thể văn ấy. Phần thứ hai của câu ngụ ý rằng Chúa Giêsu, để dạy về Nước Trời cho quần chúng, đã cẩn thận nói bằng dụ ngôn, hầu tránh mọi hậu quả tuyên truyền có tính cách thiên sai chủ nghĩa.
“Sấm ngôn của ngôn sứ”: Matthêu bảo là một ‘ngôn sứ’ nhưng lại trích dẫn một tác giả Thánh vịnh, Asaph. Có thể ông nhớ Asaph ấy đã được gọi là “ngôn sứ” trong 2 Sk 29, 30; nhưng đúng hơn, có Iẽ ông quan niệm tất cả các sách Cựu ước đều có giá trị sứ ngôn… Thế mà sách thánh đã tiên báo Đấng Messia sẽ dùng dụ ngôn mà phán dạy.
“Con cái của Nước… con cái quỷ dữ ”: Cách phân chia nhân loại thành hai khi đối nghịch nhau đây rất thông dụng trong Do thái giáo đương thời. Ta thường gặp lối phân chia đó trong các văn tập của Qumrân. Chỉ khác một điều là: đối với Qumrân, nói kẻ lành đều ở trường phái của họ. Tất cả kẻ dữ là những người bên ngoài; còn ở đây cá hai đều sống lẫn lộn, và các môn đồ không có quyền tách rời họ ra.
“Cũng như người ta nhặt cỏ lùng…”: Trong dụ ngôn, trọng tâm nằm trên quyết định của ông chủ là để cỏ lùng mọc chung với giống tốt, trong lúc ở phần giải thích lại là đề tài mùa gặt tương lai, là số phận chung cục của cỏ lùng và lúa: trên 7 câu giải thích, đã có tới 4 câu nói về mùa gặt tương lai. Có lẽ Matthêu đã lan rộng một kết luận nguyên thủy vừa phải hơn của Chúa Giêsu, để đánh đổ một niềm vững tin tự đại có khuynh hướng lan tràn giữa Kitô hữu thời ông: việc gia nhập Giáo Hội chưa phải là được cứu độ cách dứt khoát; còn có cuộc phán xét sau cùng sẽ vô cùng khốc liệt đối với các Kitô hữu xấu xa.
KẾT LUẬN
Được bắt đầu với việc rao giảng Lời, Nước Trời thoạt tiên rất nhỏ bé khiêm hèn. Nó không áp đặt trên mọi tạo vật một cách hách dịch và ngay tức thời. Tình trạng hiện nay của nó còn hỗn tạp hồ đồ: kẻ lành người dữ đều triển nở trong nó. Và chỉ vào cuối cuộc hành trình dài đằng đẵng? được theo đuổi một cách âm thầm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nước Trời âm ỉ quy tụ toàn thể vũ trụ trong Hòa bình của Chúa Kitô.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Người môn đồ Chúa Kitô sẽ chấp nhận hiện tại dễ dàng hơn nếu biết tin tưởng như đã nói vào tương lai. Họ biết rõ rằng các bước đầu thật khiêm tốn như thế (Giáo Hội luôn luôn là thiểu số trong trần gian) chỉ là các dấu chỉ bất tương xứng vai công trình một ngày kia sẽ hoàn tất. Họ hoàn toàn tin tưởng ở Thiên Chúa. Thiên Chúa há không thể biến sỏi đá thành con cái Abraham được sao, nghĩa là Ngài không thể từ hư vô mà gầy dựng nên một dân tộc, một dân cho riêng Ngài được sao (Mt 3, 9)? Cái nhìn của Thiên Chúa khác với cái nhìn của người đời các vật tầm thường đối với Ngài lại là to tát, và cái lớn lao trước mặt người đời đôi khi lại làm Ngài ghê tởm.
2) Người hoàn toàn phó thác cho Nước Thiên Chúa, để Nước Chúa biến đổi, tái dựng mình, thì đúng là men đích thực của môi trường họ sống. Cái sinh lực liềm tàng trong họ cũng xâm nhập vào mọi thứ chung quanh và lan tràn đến hết mọi người. Tình yêu ở trong một con người luôn chiếu dọi cho những kẻ chung quanh.
3) Hạt giống tốt đã được gieo đầu tiên và ở khắp nơi, thì hạt lúa tốt sẽ được gặt hái sau cùng và khắp mọi chốn. Cỏ lùng không phải là nguyên thủy và cùng đích, chẳng phải là alpha và omêga:- Alpha và Omêga chính là hạt lúa tốt vậy.
4) Cái nhìn của Kitô hữu về thế giới, về tha nhân phải là một cái nhìn tích cực. Không phải vì ta có mắt tốt hơn những người khác để phân biệt cỏ lùng với lúa tốt hay bàn tay tài khéo hơn để tách rời thứ này khỏi thứ kia. Nhưng vì cái nhìn của ta là một cái nhìn đức tin: ta biết hạt giống hôm nay đang triển nở mà không gì ngăn được vì ta tin vào Chúa Giêsu Kitô; nhưng niềm xác tín này ta được không phải nhờ một phân tích “khoa học” về lịch sử đâu. Ta chẳng thấy hạt giống tốt ưu thắng và sẽ không bị chết ngạt, nhưng ta tin diều đó. Niềm tin làm ta hy vọng mãnh liệt vào con người, sự vật, biến cố.
5) “Óc kỳ thị” không chết trong ta đâu. Ta vẫn luôn bị cám dỗ lên án hay loại trừ những kẻ xem ra chẳng có cùng quan niệm như ta về chân thiện mỹ.
6) Ta thường đặt câu hỏi như các đầy tớ trong dụ ngôn: Từ đâu mà có biết bao sự dữ trong trần gian? Tại sao thế giới không nên tốt hơn sau 20 thế kỷ Kitô giáo? Vì sao Giáo Hội vẫn luôn có những khuyết điểm sờ sờ như vây? Chúa Giêsu trả lời bằng cách cho thấy tính cách hàm hồ không thể tránh được của toàn thể tạo vật đang trên đường tiến về Nước Trời. Một tính cách hàm hồ phổ quát, lan tới các tập thể cũng như cá nhân, Giáo Hội cũng như tín hữu. Điều đó có nghĩa là chân, thiện, mỹ không hiện hữu ở tình trạng hiển nhiên, y như điều sai quấy, xấu xa. Không một ai, không một tập thể nào hoàn toàn phù hợp với Nước Trời, nhưng cũng chẳng ai xa lạ, chẳng bị khai trừ khỏi Nước ấy.
7) Thiên Chúa là Đấng kiên nhẫn: Ngài chịu đựng nhiều thế kỷ tội lỗi vì viễn ảnh rộng lớn của Ngài là ban ơn cứu độ cho ta (Rm 3, 26). Ngài ghét tội lỗi, nhưng yêu kẻ biết thống hối ăn năn dù tội lỗi đến đâu (Rm 2, 4). Nếu Thiên Chúa không kiên nhẫn, bây giờ ta ở đâu rồi?
8) Đức kiên nhẫn ấy cũng cần cho con người. Do đấy có nhiều yêu sách xem ra mâu thuẫn nhưng phải biết dung hòa: không dung túng sự dữ, song vẫn kính trọng nhân vị và khả năng hoán cải của tội nhân, vẫn bảo vệ các tâm hồn ngay chính khỏi nhiễm lây gương xấu, tà đạo, thái độ dửng dưng tôn giáo. Do đó ngay từ nguyên thuỷ, ta thấy Giáo Hội khi thì nghiêm khắc (1Cr 5, 3- 5) lúc lại thông cảm (1 Cr 5, 9-10) tùy hoàn cảnh cụ thể của các tâm hồn. Hai thái độ ấy đều chính đáng và cần thiết, dù theo một lường độ khó mà xác định. Chúng cũng đề phòng ta khỏi bị ảo tưởng đạt được những trạng thái dứt khoát rõ ràng ở đời này. Một cộng đoàn Kitô hữu lý tưởng trong đó chỉ có các thánh, chỉ gồm người công chính là một điều hão huyền. Nếu đường ranh giới phân chia sự dữ điều lành khá rõ ràng, thì lại rất lu mờ giữa kẻ lành người dữ (lấy quyền nào mà cho mình là “tốt”?). Vì kẻ sống trong tội lỗi hôm nay, mai ngày có thể trở nên một thánh Augustinô hay một Charles de Foucauld.
DỤ NGÔN HẠT CẢI VÀ CỎ LÙNG, BỘT VÀ MEN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1) Theo gương nhẫn nại của Chúa
Chúa nhật trước, chúng ta đã bắt đầu đọc bài giảng thứ ba trong năm bài giảng lớn của Phúc âm thánh Matthêu là dụ ngôn Người gieo giống. Hôm nay chúng ta tiếp tục với ba dụ ngôn khác. Trước tiên là dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng, rồi sau là dụ ngôn bột và men. Cả ba đều tiếp theo sau phần giải thích dụ ngôn người gieo giống.
Dụ ngôn hạt cải và cỏ lùng đều mở đầu giống như dụ ngôn người gieo giống: “Nước Trời thì ví như người kia gieo giống tốt trong ruộng “mình…? Thế rồi đột nhiên câu chuyện trở nên bi đát: các đầy tớ sửng sốt khám phá thấy cỏ lùng đã mọc lan khắp cả ruộng lúa vừa gieo. Họ hỏi ông chủ: “Cỏ lùng ở đâu mà ra vậy ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó”. Họ sẵn sàng đi ra ruộng ngay để nhổ hết thứ cỏ dại làm hư ruộng của chủ.
+ “Vậy ông có muốn chúng tôi nhổ cỏ đi không”. Phản ứng tự phát của những người đầy tớ trong dụ ngôn cũng đúng là phản ứng của những người đã mắt thấy tai nghe bài giảng của Đức Giêsu, phản ứng của những tín hữu ở mọi thời. Đó là phản ứng của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã vẽ nên bức tranh gây ấn tượng về việc Đấng Mêsia sắp đến: “Tay Người cần nia. Người sẽ rê sạch lúa. trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tốt là đốt đi” (Mt 3,12). Hụt hẫng vì không thấy cách xét xử của Chúa diễn ra y như mình đã loan báo, nên từ trong ngục tù, Người sai hai môn đệ đến hỏi Chúa rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác”. Đó là phản ứng ngỡ ngàng của tất cả những ai đã nghe lời Đức Giêsu loan báo: “Nước Trời đã đến gần, thế mà họ lại chẳng thấy có gì được phác hoạ giống như sự xét xử vẫn trông đợi khi Nước này tới.
Đó là phản ứng tỏ ra thất vọng của mấy môn đệ thân tín của Chúa khi thấy người ta không lịch sự tiếp đón Thầy mình. Giacôbê và Gioan, hai con ông Dêbêđê rất bực mình vì thái độ tiêu cực của một thôn làng miền Samari, liền hỏi Chúa: “ Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa trời xuống tiêu diệt họ không?”.
Thực vậy, làm sao tin được rằng những hành động chẳng có gì là vẻ vang của Chúa Giêsu như chữa lành người bệnh, quan tâm đến các trẻ em và những người hèn mọn, tiếp xúc gần gũi với những người tội lỗi, mà lại loan báo và thực thi Nước Chúa một cách hiệu quả đang lúc giờ phút xét xử của Thiên Chúa còn muộn màng, chưa tỏ hiện và sự ác thì hoành hành và có mặt khắp nơi.
+ Ông chủ bình tĩnh đáp lời những người giúp việc tỏ ra quá mẫn tiệp: “cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt… sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa”.
Từ hình ảnh mùa gieo Nước Thiên Chúa đến-đến mùa gặt kèm theo việc đập lúa – hình ảnh việc xét xử – có một khoảng giữa: Lúc này đang là thời kỳ lúa lớn lên là thời gian nhẫn nại của Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa gớm ghét sự ác, thì Người vẫn cứ phải yêu thương con người – kẻ tội lỗi cũng như người công chính – và Người biết rõ tiềm năng lạ lùng của Lời gieo trong lòng họ. Ngày thu hoạch mùa và lựa lọc sẽ đến vào giờ của Người; ngày đó không thể dự đoán trước. ông chủ nói với các gia nhân ông rằng: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: Hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi. Là một lời mời gọi sống theo gương nhẫn nại của Thiên Chúa, dụ ngôn này đồng thời cũng đề nghị ta suy niệm về thời gian của Giáo Hội: đó là thời gian mà tiềm năng của Lời đang hoạt động, bất chấp mọi trở ngại và chống đối; thời gian chờ đợi ngày cánh chung, thời gian của niềm hy vọng. Lời giải thích dụ ngôn chúa có ý nhắm nói năng cho các môn đệ khi đã về tới nhà xem ra xa với bài học về lòng nhẫn nại mà dụ ngôn đã đưa ra. Điểm nhấn mạnh ở đây không còn nhắm tới sự sống giữa giống tốt và cỏ lùng nữa, mà là sự chọn lựa cuối cùng; đang khi chờ đợi sự chọn lựa này, thì phải cố gắng sống không như “con cái ác thần” mà như “những con cái Nước Trời”.
2….trong niềm hy vọng hạt giống sẽ nẩy mần:
Xen giữa dụ ngôn cỏ lùng và người gieo giống được giảng cho đám đông, mà giải thích thì dành cho các môn đệ, ta thấy có hai dụ ngôn mới: dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trong bột. Dụ ngôn này cũng như dụ ngôn kia đều nói đến mối tương quan be,1ớn, mà có ý làm nổi bật sự bất cân xứng khác thường giữa một bên là cái bé nhỏ, khiêm tốn hầu như vô nghĩa lúc khởi đầu và bên kia là sự bành trướng lạ thường khi tới đích.
Quả thực, chẳng có tỉ lệ cân xứng chút nào giữa “một hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” và một cây lớn lên từ hạt đó” vì khi mọc lên thành cây lớn nhất trong vườn, nó trở thành cây cổ thụ, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được!”.
Và thật là chẳng cân xứng chút nào giữa một bên là một dúm men hầu như không trông thấy mà người phụ nữ vùi vào trong bột, và ba đấu bột là dùng để ủ men: từ ba trở thành 40 hạt đủ bảo đảm bữa ăn cho hơn 100 người!
Cũng vậy, để làm cho Nước Chúa đến, Thiên Chúa cũng không xử sự khác người nông dân khi gieo vào đất một hạt bé nhỏ, hay như người đàn bà vùi một chút men vào bột. Dù bề ngoài xem quá khiêm tốn, sứ mệnh của Đức Giêsu vẫn cứ khai mào việc Thiên Chúa nhất định can thiệp vào lịch sử của con người. Vậy thì có lẽ nào mà phải nghi ngờ về kết quả chung cuộc?
BÀI ĐỌC THÊM:
1) “Chưa nhẫn nại đợi chờ”
“Sự nhẫn nại đợi chờ này thực là rõ nét trong dụ ngôn cỏ lùng, tâm điểm của Tin Mừng hôm nay. Cánh đồng được gieo toàn hạt giống tốt. Con người đã gieo vào trần thế những con cái Nước Trời. Ban đêm kẻ thù xuất hiện, Satan tới gieo cỏ lùng. Và thế là có cảnh lẫn lộn trên trần gian, người lành kẻ dữ cùng chung nhau một mảnh đất. Nếu chỉ thoáng nhìn, đôi khi khó mà không phê phán Thiên Chúa. Làm sao Chúa lại để điều ác phát triển như vậy? Những người xấu đôi khi xem ra lại được ưu đãi trong đời sống vật chất hơn những kẻ lành. Đó là vấn đề thường nhật mà không phải chỉ riêng cho những người chân chất. Thiên Chúa để cho như vậy. Và quả thực Thiên Chúa muốn để cho mọc lên hạt giống Người đã gieo; đó là người con Chúa đã tuyển chọn, những người Chúa đã ban ơn thanh tẩy, những người mà Thần Khí đã biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Con của Người. Chúa để cho họ phát triển, cùng lúc để cho cỏ lùng Người đã không gieo và không thể gieo lớn lên. Nhưng Người kiên nhẫn đợi chờ. Thế giới phải đi con đường của mình, và Thiên Chúa cứ để cho họ đi. Người đợi cho đến mùa thu hoạch. Cuộc đời trần gian cứ trà trộn như vậy, nên tốt hơn ta đừng can thiệp quá sớm kẻo làm chết đi cái gì còn đang sống. Nhưng Nước Chúa vẫn không ngừng tiến triển như hạt cải như, bột lên men: Chúa đợi chờ cho mọi cái đạt tới độ chín mùi. Thánh Matthêu khi viết điều này không phải là người không biết đến tình trạng của cộng đoàn mà ngài trách nhiệm. Ngài thấy cộng đoàn ấy lớn lên bước đầu từ hạt cải nhỏ tí ti, rồi trở thành cây lớn. Ngài hiểu biết rằng men đang nằm trong bột, nhưng ngài cũng không thể không biết rằng cỏ lùng lẫn lộn với hạt giống. Chắc chắn điều đó tạo nên vấn đề cho các tín hữu của ngài, cũng như ngày nay vậy và vấn đề không chỉ đơn giản là trấn an những nổi lo âu và hâm nóng lòng tin tường vào Chúa quan phòng. Chứng tỏ cho thấy rằng Nước Chúa vẫn có sức năng động, mặc dầu có những kẻ thù, mặc dầu có những khiếm khuyết, và đồng thời giúp cho cộng đoàn biết suy nghĩ về trách nhiệm của mình đang khi chờ đợi Ngày hội ngộ, đấy mới phải là mục tiêu mà thánh sử nhắm tới.
- “Hạt giống tốt và cỏ lùng lẫn lộn xà ngầu”
Phân loại nhưng “người lành”, “kẻ dữ ” thực ra có quá dễ dàng như thế không? Chúa Giêsu phán rằng sẽ chỉ đến mùa gặt thì việc phân biệt lựa chọn (nghĩa là đến ngày tận thế) mới thực hiện được: “Con người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người. Phải, việc đó sẽ được thực hiện, nhưng chỉ những tình huống tuyệt vọng nhất, nơi những con người xem như tồi tệ nhất, vẫn còn lập loè vài tia sáng. Hơn nữa, trong tình liên đới giữa con người với nhau, những người bị hãm hại và bị ức hiếp không để mình chịu thua sự độc ác của những kẻ hành hạ mình, mà lại trở thành con đường hộ phù và cứu độ cho những kẻ ấy. Đức Giêsu người đứng đầu các kẻ công chính khi hấp hối trên thập giá đã cầu nguyện: “lạy Cha, xin tha cho chúng..!”. Nét đẹp của con người, vẻ cao cả của một tấm lòng, đức tận tuỵ hy sinh của tình yêu thương cho đến tận cùng cũng biểu lộ cả trong những tình huống tội lỗi hỗn loạn hoàn toàn. Đôi khi chính ở đó mà những vẻ đẹp kia lại tìm những cứ chỉ yêu thương và anh hùng bất ngờ, phải là phép lạ khi hình ảnh của Thiên Chúa thường bị biến dạng mà vẫn ẩn vùi trong thâm sâu của bản thân mỗi người phải là phép lạ khi tình yêu vẫn le lói như một tia sáng yếu ớt và kiên cường ngay ở nơi xem ra chỉ cồ bóng tối; hạt giống nhỏ xíu của Nước Trời “loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống” mà người ta tưởng chừng nó phải mất hút, thế mà lại xuyên qua được đá cứng nhất nhờ sức mạnh của nhựa cây? Hạt giống rất quý giá đó mà Thiên Chúa vốn nhẫn nại không cho phép người ta tạo nguy cơ loại bỏ nó, chỉ vì vội muốn nhổ ngay đám cỏ dại. “Sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa… “. Ta phải học cho biết hy vọng cả khi phải nguyện vọng như thế nào?; phải có lòng trắc ẩn và xót thương biết bao để biết tôn trọng tình trạng “‘hổ lốn” mà ta vốn thích phân loại cho rõ rệt! Ta phải học đức nhẫn nại của Chúa, một sự nhẫn nại không mệt mỏi cho đến tận thế, học thương yêu con người, hết mọi người để cho không một ai phải hư mất, học lòng thương yêu của Chúa Con, Đấng đã mặc lấy xác phàm để các anh em nhân loại của Người không phải là những nạn nhân của chính lòng độc ác của họ. Đức nhẫn nại của Cha đâu có biết đến giới hạn? “Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt…? Con người thật là quý giá, nên phải coi chừng đừng để mất đi một mảnh vụn nào hết! Thiên Chúa không hề mệt mỏi khi phải kiên nhẫn “cho đến ngày tận thế”.
Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng, vào giữa lúa, rồi đi mất.”
Vấn đề sự ác là vấn đề trầm trọng nhất trong mọi vấn đề và làm cho mọi người phải suy nghĩ. Ai trong chúng ta vấp phải sự ác trong da thịt mình, khi bệnh hoạn… trong lòng mình với mọi vết thương tình cảm… trong lương tâm khi bị tội lỗi cắn xé… trong gia đình, công việc của mình vì những khó khăn, trong quan hệ nhân bản… Trong thế giới vì những áp bức và bất công đủ mọi loại… Và cái chết? Đối với tất cả mọi người cái chết là biểu tượng không tránh khỏi.
Tại sao có sự ác trong thế giới này?
Chúng ta có sẵn sàng lắng nghe một trong những lời giải đáp khả hữu? Lời giải đáp của Đức Giêsu.
Theo cách thức đơn giản và không thể bắt chước được của Người, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy lòng chúng ta như thế nào? Một cái nhìn hiện thực, không phải là giấc mơ hoang tưởng của những kẻ lạc quan, cũng không phải là sự chê bai có hệ thống và nhị nguyên thiện ác của những kẻ bi quan. Nhân loại là một hỗn hợp của thiện và ác, của “ân sủng” và “tội lỗi”. Trong lòng của chính tôi, có cả hai…cái tốt và cái ít tốt hơn. Và trong mọi con người mà tôi gặp gỡ hoặc sống chung, có cả hai… điều tốt và điều ít tốt hơn. Nhưng như các bạn đã nhận thấy, có một sự khác nhau giữa thiện và ác. Hai người gieo hạt không ngang bằng nhau. Người này gieo hạt ban ngày còn người giao vào ban đêm, lén lút lợi dụng lúc người ta không để ý. Theo những bước chân của Đấng gieo hạt, một kẻ gieo hạt khác lén đến ban đêm để thêm cỏ lùng?
Lạy Chúa, khám phá được điều đó thật tốt cho con!.
Phải, chính Chúa, Đức Giêsu cho con biết rằng điều xấu ác trong con và trong những người khác không phải là khuôn mặt đích thật của chúng con… mà nó lẻn vào một cách lén lút, chúng ta không hay biết, trong những kẽ hở của vô thức. Trong lúc người ta đang ngủ, kẻ thù chợt đến… hắn gieo cỏ lùng… và bỏ đi!
Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?”. Ông đáp: “Kẻ thù đã làm đó?” Đầy tớ nói: “Vậy ông có muốn chúng tôi đi gom lại không?” Ông đáp: Đừng! sợ rằng khi gom cỏ lùng các anh làm bật luôn rễ lúa…”
Trong lời đáp ấy, có điểm làm người ta ngạc nhiên, trong khi mà dụ ngôn “người gieo hạt” Chúa nhật vừa qua, rõ ràng Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên nguy hiểm của loài cỏ dại có thể lâu ngày làm cây lúa chết nghẹt. Vậy chúng ta cần phải “lắng nghe” một cách sâu xa hơn nhiều… dụ ngôn, ẩn ngữ, ý nghĩa được che giấu.
“Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt…”
Đây là quyết định của “ông chủ cánh đồng”. Thiên Chúa dành cho Người “sự phán xét” sau cùng. Trong lúc chờ đợi, Người yêu cầu chúng ta không nên “xét đoán”. Thiên Chúa nhẫn nại hơn chúng ta. Tạm thời, Người chịu đựng cỏ lùng: đây là một biểu lộ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta. Và chính tôi là người được hưởng lợi bởi sự nhẫn nại ấy của Thiên Chúa: chính trong lòng tôi rễ lúa mì và rễ cỏ lùng đan kết vào nhau.
Lạy Chúa là Chủ cánh đồng, Chúa đã chấp nhận nguy cơ của cỏ lùng nhẫn nại: mầm sự sống và hạt giống sự chết sẽ càng lớn lên.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những thứ óc bè phái của chúng con, khỏi những phán đoán nghiêm khắc và vội vàng. Lạy Chúa, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi sự khắt khe, những cuộc chiến tranh tôn giáo, những ý thức hệ đảng phái. Lạy Chúa, Chúa không muốn có một Giáo Hội của những người “Thanh khiết” những người thuần túy”: Giáo Hội của Chúa là một tập hợp của những người tội lỗi. Chúng con… các Kitô hữu, chúng con không hơn gì những người khác. Với mọi người, với mọi kẻ tội lỗi! Chúa cho họ cơ hội để có thể trưởng thành, để có thể hoán cải.
Tôi có thể áp dụng dụ ngôn này vào những hoàn cảnh sống của tôi không?
Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: “Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.
Mùa gặt! Đây là hình ảnh tuyệt vời của Kinh Thánh (Giê-rê-mi-a 51,33; Hô sê 6,11; Giô-en 4,13). Ở Israel, mùa gặt lúa mạch vào tháng tư và mùa gặt lúa mì vào tháng năm… như trong mọi nước khác, ở những mùa màng khác, đó là một cơ hội để quần chúng vui mừng (R 2; Is 9,2; TV 126,6). Sau những công việc nặng nhọc, mùa gặt tỉa: phần thưởng và lễ hội của người nông dân. Mùa gặt trong Kinh Thánh thường là biểu tượng cho cuộc Phán xét vào ngày Thế Mạt (Is 28,27; 17,5; Am 9,13)…
Có phải, tôi sẽ khám phá ý nghĩa ẩn giấu của hình ảnh rất đẹp đẽ ấy?
Đối với Đức Giêsu, tạo vật tiến về mục đích của nó:
Người biết rằng lúa mì sẽ không bị hủy hoại, mặc dù mọi nỗi sợ hãi chính đáng mà chúng ta có thể có phải chấp nhận quan điểm của Đức Giêsu. Phải kiên nhẫn cộng tác vào công việc chậm chạp của Thiên Chúa đồng thời trông cậy vào Người. Điều đó đòi phải có một lòng nhân từ cao cả Chúng ta hãy tôn trọng kẻ tội lỗi và kẻ ác vì cái phần tốt đẹp còn ở trong họ, và vì luôn còn có khả năng họ sẽ hoán cải. Tôi phải tập nhìn điều tốt đẹp có trong nhân loại và không chỉ nhìn cỏ lùng trong cánh đồng. Lời kêu gọi ấy là để đào sâu đức tin của chúng ta: Bạn có thật sự tin vào Thiên Chúa không?
Dẫu sao chúng ta đã được cảnh báo. Sau cùng, khi mùa gặt đến, chúng ta sẽ thấy những hoa trái thật sự của những nỗ lực mà chúng ta đã làm trong cánh đồng của Chúa Cha.
Cha mẹ, vợ chồng, các chiến sĩ tông đồ hãy lắng nghe, lắng ghe điều đó.
Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: “Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ cải lớn nhất! nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được”.
“Một” hạt cải… một thôi! Xem ra buồn cười khi chỉ gieo một hạt cải.
“loại nhỏ nhất”: hầu như khó nhìn thấy trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, mầm sống ấy sẽ mọc chồi xanh, rồi một cái cây… nếu bạn kiên nhẫn chờ đợi và chăm sóc cây trồng.
“Nước Thiên Chúa” là như thế!
Lạy Chúa tôi, tại sao thế gian dường như còn xa Triều đại của Chúa biết bao? Tại sao có quá ít người đi theo đến cùng Tin Mừng của Chúa?
Cha mẹ, vợ chồng, chiến sĩ, tông đồ… hãy nhìn, nhìn kỹ hạt giống ấy trong thế gian. Điều đáng kể không phải là cái vẻ hiện nay của chúng. Các bạn hãy tưởng tượng đến một cây lớn mà Đức Giêsu đã nhìn thấy trong đôi mắt sống lại của Người. Không còn là hạt cải bé tí xíu… bạn hãy tưởng tướng những con chim sẽ hót trên cây? Và bạn hãy gieo nó vào lòng đất… hạt cải duy nhất của bạn, hạt nhỏ nhất.
Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện một nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men”.
Đây cũng là sự không tương xứng về tỉ lệ giữa lúc đầu và lúc cuối giữa nguyên nhân và hậu quả: Một nhúm men nhỏ, trộn với bốn mươi ký lô bột? Một sức mạnh ẩn giấu của sự sống! Tác vụ của Đức Giêsu đã là một hoạt động rất nhỏ bé trong một vài tháng, mất hút trong một góc của một tỉnh trong đế Quốc La Mã. Nhưng Đttc Giêsu mơ mộng. Người nhìn xa. Tầm nhìn của Người trải rộng đến thời thế mạt, khi “Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả khi mọi thứ bột của nhân loại được dậy men Phúc âm. Nhưng về phần tôi, tôi sẽ làm thế nào cho công việc đó tại nơi tôi đang sống?
Một người dù nam hay nữ để cho mình biến đổi thành men. và để cho mình bị vùi xuống, trộn lẫn vào thế gi an… sẽ trở thành một sức sống vô hình thông ban cho tất cả môi trường mà mình được trộn lẫn vào. Tình yêu cư ngụ một con người, đức tin làm cho sống, hy vọng nâng đỡ những thất vọng… đều là “men” làm dậy tất cả bột” một cách vô hình, chậm chạp. Những người kbác cần đức tin, niềm hy vọng, niềm vui, sự thanh khiết, can đảm và lương tri của bạn… Bạn có là một thứ men không?
Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: “Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa”.
Với Đức Giêsu, nơi tín hữu phân biệt những thực tại “ẩn giấu” trong nơi thâm sâu của mình.
Bấy giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”.
Matthêu phân biệt rõ ràng giáo huấn dạy cho mọi người cách công khai và một sự đào sâu hơn về giáo huấn cho người trong nhà và những người tìm hiểu sâu xa hơn. Có phải tôi thuộc về những người ham thích giáo huấn ấy hoặc thuộc những người chỉ bằng lòng với điều tối thiểu?
Lạy Chúa, xin giải thích cho chúng con…
Người đáp: “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù, gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi -nước của Người…”
Lạy Chúa nếu chúng con có làm người khác sa ngã, nếu chúng con có phạm tội, xin Chúa tha thứ cho chúng con.
Rồi quẳng chúng vào lò lửa, ở đó chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng: Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước Cha của họ. Ai có tai thì nghe.
Ở đây Đức Giêsu, sử dụng những hình ảnh thường thấy ở thời đại Người. Không nên giải thích những hình ảnh một cách cụ thể. Chúng có nghĩa là sự hủy diệt chung cuộc mọi sự dữ, là ngày tận thế. May thay! Điều đó sẽ được thực hiện như thế nào? Đó là mầu nhiệm không được tiết lộ.
Về phần những người: được cứu, họ sẽ chói lọi như mặt trời: đây cũng là một hình ảnh để suy niệm trong những tháng hè này.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam