Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 59

Tổng truy cập: 1453885

NHU CẦU

Nhu cầu.

Thông thường, con người có một nguy cơ chung, trong việc đến gần với nhau. Người ta có thể đi bên nhau qua nhiều năm, nhưng mỗi người vẫn khóa kín trong thế giới im lặng của riêng mình, hoặc chỉ trao đổi với nhau những lời nói không mang ý nghĩa thực sự nào cả, cho đến khi va chạm với nỗi nguy hiểm. Sau đó, họ mới chịu đứng bên nhau, vai kề vai. Họ phát hiện ra rằng mình đều thuộc về cùng một gia đình. Họ phát triển và lớn lên trong sự nhận biết về nhau như là những con người đồng chí hướng. Họ trở nên những người đồng hành trung thành của nhau. Họ thực sự gặp gỡ nhau.

Con người không tìm thấy hạnh phúc trong những của cải hoặc ngay cả trong những sự thành đạt, nhưng trong các tương quan nhân loại nồng nàn. Thông thường, những sở thích cá nhân và quan niệm của chúng ta giam hãm chúng ta trong những bức tường, và tách lìa chúng ta khỏi người khác. Chỉ nhờ được nắm chặt vào một bàn tay ấm áp và thân thiện, mới giải phóng chúng ta khỏi nhà tù này, mà chúng ta đã tự tạo ra cho mình.

Đêm trước khi chịu chết, Đức Giêsu đã ăn một bữa tối rất đặc biệt cùng với các bạn bè của Người – Bữa Tiệc Vượt Qua – mối nguy hiểm ẩn khuất ở tất cả mọi nơi. Thật khó mà nói được rằng có thể tin tưởng vào người nào. Người cảm thấy điều này rõ nét hơn các môn đệ. Trong giờ phút tối tăm và nguy hiểm này, Đức Giêsu cảm thấy gần gũi với các tông đồ của Người hơn lúc nào hết. Để bày tỏ cho họ biết Người cảm thấy như thế nào về họ, Người đã quỳ xuống và rửa chân cho họ. Sau đó, Người nói với họ về tình yêu – về tình yêu của Người đối với họ, và về tình yêu mà họ nên có đối với nhau.

Trên đường đi đến vườn Giệtsimani, Người tìm thấy một biểu tượng lý tưởng về sự ràng buộc mà Người cảm thấy đối với họ. Dừng lại bên cạnh một cây nho, Người nói “Thầy là cây nho, anh em là những cành nho. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người đó, thì người đó sẽ sinh nhiều hoa quả. Nhưng nếu anh em tách lìa khỏi Thầy, thì anh em sẽ bị khô héo và chết rục”. Ngay cả khi Người đã nói như vậy rồi, mà Giuđa, một người trong số họ vẫn tách lìa khỏi Người. Thật là một kết thúc cằn cỗi mà ông ta đã hướng tới.

Đây chính là điều mà Đức Giêsu cảm thấy. Đây chính là điều mà Người mong muốn có giữa Người và các môn đệ của Người. Đây chính là cách thức mà Người mong muốn tạo ra giữa Người và các môn đệ của Người. Đức Giêsu chính là cây nho, và chúng ta là những cành nho. Chúng ta không nên chờ đợi mối nguy hiểm đe dọa, trước khi chúng ta cảm nhận được sự thật này. Đây nên là môi trường mà trong đó chúng ta sống.

Điều này cũng đáp ứng nhu cầu về một cộng đoàn nâng đỡ của con người. Trong thế giới này, có quá nhiều nỗi cô độc rồi. Con người ngày nay đang kêu gào được nhìn nhận. Họ mong muốn được nhận ra, không phải theo một cách thế phô trương, hoặc bởi vì họ có nhiều tiền bạc hoặc danh vọng, nhưng chỉ bởi vì họ là những con người. Nhu cầu lớn nhất vượt lên trên tất cả, đó là nhu cầu được yêu thương. Nhưng thông thường, chúng ta cứ vượt qua mặt nhau, mà không hề có một dấu hiệu nào về sự nhận biết nhau, dù là nhẹ nhàng nhất. Người ta vẫn có thể đi đến nhà thờ và lại trở về, mà không hề gặp gỡ bất cứ ai cả. Có đúng thế không?

Thế giới đang kêu gào một cộng đoàn. Không có một cộng đoàn nào giống như cộng đoàn Kitô hữu đoàn kết với nhau. Hoa quả mà Đức Kitô ao ước nơi chúng ta trước hết, đó là hoa quả của sự hợp nhất giữa chúng ta. Qua sự hợp nhất này, tất cả mọi người sẽ nhận biết rằng chúng ta là những cành nho sống động của cây nho – nhờ sự ràng buộc tồn tại giữa chúng ta, và nhờ sự quan tâm mà chúng ta bày tỏ với nhau.


 

54. Cây và cành.

Đức Giêsu không viết một quyển sách nào cả. Ngài cũng không xây dựng một ngôi nhà nào cả. Nhưng Ngài đã thực hiện một công trình lớn lao và cần thiết hơn nhiều, đó là xây dựng một cộng đoàn.

Ngài nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành”. Đó chính là hình ảnh Ngài dùng để nói về cộng đoàn mà Ngài xây dựng, một hình ảnh rất súc tích:

Vào mùa xuân, các cành nho vươn ra, đơm lá, trổ hoa. Đến mùa thu thì các cành đã nặng trĩu những chùm nho tươi tốt. Nhưng sở dĩ cành sinh lá, trổ hoa và kết trái là nhờ chúng nối liền với cây nho. Nếu cắt lìa chúng ra khỏi cây thì chẳng những chúng không có trái, mà còn héo tàn dần và cuối cùng thì chết. Cành nho cần đến cây nho thế nào, chúng ta cũng cần đến Đức Kitô thế ấy. Nếu không kết hợp với Ngài, chúng ta sẽ không có sức sống và không thể sinh trái.

Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho, bởi vì chính cành nho sinh ra trái nho. Nói thế nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là cành của Ngài. Như thế cây nho và cành nho đều cần đến nhau. Hai bên tạo thành một thể hiệp nhất. Từ đó chúng ta mới hiểu Đức Kitô rất tin tưởng và trông cậy nơi chúng ta. Có thể chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng với sự tin tưởng trông cậy ấy, tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng bên cạnh chúng ta còn có Ngài nữa. Cành nho có thể yếu ớt và mong manh, nhưng cây nho thì rất vững chắc và dồi dào sức sống.

Đức Kitô muốn nhờ chúng ta để sinh trái cho thế giới. Có một khác biệt lớn giữa thành công và sinh trái. Thành công đến từ năng lực, và mang lại vinh quang. Nhưng việc sinh trái thì thường đến từ sự yếu đuối, khổ đau và nhiều khi chẳng ai nhận biết mà khen thưởng. Đức Kitô không bảo chúng ta phải thành công, nhưng Ngài dạy chúng ta sinh trái. Mỗi người chúng ta đều được Ngài ban cho một số khả năng nào đó. Bằng cách sử dụng, phát triển và chia xẻ những khả năng đó với người khác, chúng ta sẽ sinh trái. Thế giới đang chờ những trái ấy. Mà điều quan trọng là yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu của chúng ta sinh trái, những trái chúng ta thấy được và cả những trái chúng ta không thấy.

Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thãi chẳng ích lợi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Vì chúng ta là những cành của cây nho thật là Đức Kitô nên chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.


 

55. Cây nho thật – JKN.

Câu hỏi gợi ý:

1. Câu “cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi” nghĩa là gì? Tại sao gắn liền với Đức Giêsu mà lại không sinh hoa trái? Câu này ám chỉ loại người nào?

2. Câu “cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” nghĩa là gì? Chữ “cắt tỉa” ở đây ám chỉ điều gì? Tại sao lại phải “cắt tỉa”?

3. Từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện thế nào trong đời sống của ta?

Suy tư gợi ý:

1. “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi”

Đức Giêsu tự ví mình là cây nho, và những người theo Ngài là những cành nho. Cành nho sống được là nhờ thân nho. Rời thân nho, cành nho sẽ khô héo và bị quăng vào lửa. Tuy nhiên, Đức Giêsu đưa ra trường hợp này: có những cành nho, tuy gắn liền với cây nho, nhưng lại không sinh hoa trái. Trường hợp này, cành nho sẽ bị chặt khỏi cây nho.

Nói đến trường hợp này, người Kitô hữu không khỏi nghĩ về bản thân mình, liệu đó có phải là trường hợp của mình không? Vì người Kitô hữu là người gắn liền với Đức Giêsu, nhưng quả thật có rất nhiều Kitô hữu suốt bao năm trường đã chẳng sinh ra hoa trái nào! Biết bao Kitô hữu theo Đức Giêsu từ nhỏ tới lớn, thậm chí tới già, nhưng xét cho kỹ và nói cho khách quan, thì họ chẳng tốt hơn người ngoại loại trung bình chút nào! Nhiều người còn tệ hơn cả những người ngoại loại ấy nữa! Họ sẵn sàng ăn gian nói dối, đối xử bất công, sống không tình nghĩa, v.v… Tương tự, có biết bao linh mục, tu sĩ, mang danh theo Chúa hàng chục hay mấy chục năm, nhưng chẳng tốt hơn những giáo dân bình thường bao nhiêu, đôi khi còn tệ hơn! Sách Khải Huyền nói về hạng người này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).

Trường hợp này rất có thể đúng cho tôi, cho bạn. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải tự vấn mình trước mặt Chúa, để sửa đổi trước khi quá muộn. Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta sửa đổi, để Ngài khỏi phải ra tay! “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23; 33,11; x.33,19).

2. “Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn”

Người làm vườn giỏi biết chăm sóc cây thì biết cắt tỉa cành để nó sinh nhiều hoa trái hơn. Nếu người Kitô hữu là cành nho, Đức Giêsu là cây nho, Thiên Chúa Cha là người trồng nho, thì ắt nhiên Chúa Cha sẽ phải “tỉa cành” để người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” là người có nhiều tiến bộ về mặt tâm linh (mến Chúa yêu người ngày càng nhiều hơn). Và Chúa Cha “tỉa cành” là giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm vô ích để có thể tập trung năng lực vào việc tiến bộ tâm linh. Ngài có thể làm điều ấy bằng cách làm cho người Kitô hữu ấy bị thiệt thòi mất mát về vật chất, thể chất, cũng như tinh thần, hoặc cho người ấy trải qua những đau khổ thử thách. Vì những đau khổ thử thách có khả năng thánh hóa rất hữu hiệu.

Chính Đức Giêsu, thánh thiện như vậy mà cũng được Chúa Cha “tỉa cành” cho Ngài. Thánh Phaolô nói về điều ấy: “Thiên Chúa (…) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu đo” (Dt 2,10). Như vậy, theo thánh Phaolô, nhờ chịu gian khổ mà Đức Giêsu trở nên một người lãnh đạo hoàn hảo. Tin Mừng cũng nói: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Còn chúng ta, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta chia sẻ đau khổ với Đức Giêsu, để cùng tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hy” (1Pr 4,13). “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10).

Đọc hạnh các thánh ta thấy hầu như vị thánh nào cũng đều có kinh nghiệm được Thiên Chúa thánh hóa bằng đau khổ. Chẳng hạn, thánh Têrêxa Avila đã bị Thiên Chúa thử thách bằng biết bao đau khổ, đến độ thánh nhân phải kêu lên: “Chúa đối xử với bạn bè Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn là phải!” “Chúa ít bạn là phải!” vì nhiều người dù biết rằng đau khổ có tác dụng thánh hóa bản thân, nhưng vẫn sợ và tránh né đau khổ: nếu phải đau khổ mới nên thánh thì thôi, thà đừng nên thánh! Nghĩ như thế thật là nông cạn, vì nên thánh, nên hoàn hảo là điều rất quí giá: những đau khổ ta phải chịu chẳng là gì cả so với vinh quang và hạnh phúc ta được nhờ sự hoàn hảo thánh thiện, và sự thánh thiện hoàn hảo này ta đạt được là nhờ đau khổ. Thánh Phaolô viết: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!” (Rm 8,18). Thánh Phêrô cũng khuyên ta đừng sợ hãi đau khổ: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14). Vua Đavít cũng nhận ra ích lợi của đau khổ đối với sự thánh thiện: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71).

Người tốt chấp nhận đau khổ vì đau khổ Chúa gửi đến cho mình chẳng những làm cho mình nên công chính, mà còn làm cho những người khác nên thánh thiện nữa: “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Như vậy, tự nguyện chấp nhận đau khổ (chịu đau đớn, cực hình, chịu thiệt thòi, mất tiền, mất thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan…) vì tha nhân là một hành vi bác ái, là một phương tiện thực hiện yêu thương. Vì nhờ ta chấp nhận đau khổ mà nhiều người nên công chính và được hạnh phúc. Vì thế, người có lòng yêu thương thật sự sẽ sẵn sàng lợi dụng đau khổ của mình để làm lợi cho người khác.

3. “Gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Giêsu là gì?

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng nhiều lần hai từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Ngài, và coi đó như điều kiện cần thiết để “sinh hoa trái” hay “sinh nhiều hoa trái”. Chẳng hạn câu: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”. Hai từ ngữ ấy có nghĩa gì? Chúng ta đã thật sự “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu chưa? - Thực ra, ai là người Kitô hữu thì cũng, một cách nào đó, “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu. Nhưng phải nói rằng tình trạng ấy có nhiều mức độ khác nhau, từ hời hợt bên ngoài đến thâm sâu bên trong.

Thật vậy, nhiều người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng có tinh thần Kitô hữu bao nhiêu. Họ là những người Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Thánh Phaolô có nói về một tình trạng tương tự như vậy trong Do-thái giáo (x. Rm 2,17-23). Có nhiều Kitô hữu có vẻ rất ngoan đạo, đi lễ và rước lễ hằng ngày, có vẻ rất hăng hái trong những việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ. Nhưng đời sống của họ lại chẳng toát lên được tinh thần Kitô giáo, là chân thật, công bằng, yêu thương, thông cảm, tha thứ.

Tình trạng “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện trong ba phạm vi:

* ý thức: luôn luôn ý thức Đức Giêsu ở với mình, ở trong mình. Ngài là tình yêu và sức mạnh của mình. Ngài vô cùng quyền năng, nên với Ngài ta có thể làm được mọi sự. Luôn luôn ý thức Ngài yêu thương mình, nên hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho tình yêu của Ngài. Nhờ đó, ta luôn luôn bình an, không phải lo lắng gì cho bản thân mình: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì…” (Tv 23). Ý thức này phải trở thành một tâm trạng thường hằng của ta.

* tình cảm: luôn luôn yêu mến Ngài, hướng về Ngài, lấy Ngài là lẽ sống cho cuộc đời mình. Vì thế, dấn thân hết mình cho Ngài, cho Nước Ngài, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, một cách quảng đại, không so đo tính toán. Ngoài ra, tình yêu của ta đối với Ngài phải được thể hiện cụ thể nơi những hiện thân của Ngài, là tha nhân chung quanh ta, đặc biệt những người gần gũi ta nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè…)

* hành động: luôn luôn làm theo ý muốn của Ngài, theo sự đòi hỏi của tình yêu trong lòng mình. Ý muốn của Ngài được thể hiện qua lời Ngài, qua luật yêu thương của Ngài, qua tiếng lương tâm, qua những biến cố hay hoàn cảnh xảy ra trong đời, đặc biệt những nghịch cảnh.

Khi luôn luôn “gắn liền với” hay “ở lại trong” Ngài, ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, và đời ta sẽ trở thành một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy sức mạnh, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa.

Cầu nguyện

Lạy Cha, Cha là nguồn sống, nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu của muôn loài vạn vật. Con muốn kết hiệp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu hầu sống một cuộc sống tươi đẹp, ích lợi, đồng thời để những ai tiếp xúc với con cũng nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu của Cha từ nơi con. Xin hãy giúp con gắn bó mật thiết với Cha.


 

56. Như cành hợp nhất với cây

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng cái hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói lên cái mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và ngành nho để nói lên cái sự hiệp nhất, nói một cách xác thực hơn, cái sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Chúa ví Người như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là nghành nho. Cây nho gồm nhiều ngành được hợp nhất với nhau, tạo thành một đơn vị của cây, vì cành cây chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Vậy nếu không gắn liền với thân cây, cành cây sẽ không có nhựa sống. Cũng như ngành nho cần phải được gắn liền với thân cây thì mới sinh hoa kết quả, người tín hưũ cũng cần được hiệp nhất với Chúa Ki-tô bằng ơn thánh để có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.

Vậy làm sao để được hiệp nhất với Chúa? Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, do đó làm giảm sự hiệp nhất với Chúa. Để được hiệp nhất với Chúa, người tín hữu cần ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là tuân giữ giới răn Chúa như Thánh Gio-an quả quyết trong Thư gửi tín hữu Do Thái: Ai tuân giữ răn của Thiên Chúa, thì ở lại trong Thiên Chúa (1 Ga 3:24). Chúa hứa cho những ai ở lại trong tình yêu Chúa, mà họ xin điều gì thì Chúa sẽ ban cho. Hợp nhất trong tình yêu Chúa có nghĩa là thần trí của Chúa phải thấm nhập vào mỗi lãnh vực của đời sống: tư tưởng, cảm tình, ước muốn, hành động...

Trong Phúc âm hôm nay, Chúa phán: Ai ở lại trong Thày và Thày ở trong người ấy, sẽ sinh nhiều hoa trái (Ga 15:5). Để cắt nghĩa cái sự hiệp nhất này, Thánh Phaolô nại đến ví dụ cụ thể của thân thể con người. Mặc dù được làm thành bởi nhiều phần, cái thân thể tạo thành một đơn vị độc nhất. Thánh Phaolô nhìn thấy cái sự hiệp nhất trong một thân thể tương tự như cái sự hiệp nhất trong nhiệm thể màu nhiệm của Chúa Kitô là Giáo hội. Trong cái nhiệm thể màu nhiệm này là Giáo Hội thì Chúa Kitô là đầu, còn người tín hữu là những phần chi thể. Thánh Phao-lô là người hơn ai hết hiểu được cái ý niệm thần học về nhiệm thể màu nhiệm Chúa Kitô. Trên đường đi Đamascô để bách hại người Kitô giáo, Phaolô bị quật ngã khoi lưng ngựa, rồi nghe tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4)? Thực ra thì Phaolô chỉ bách hại người Ki-tô giáo, chứ không bách hại Người phán ra tiếng đó. Sau này nhờ cầu nguyện, suy niệm và được ơn thánh soi sáng, Thánh Phaolô hiểu được tại sao bách hại người Kitô giáo là bách hại chính Đức Ki-tô vì người tín hữu là những chi thể trong thân thể màu nhiệm của Đức Kitô. Nói theo tiếng dùng của Chúa trong Phúc âm hôm nay, người tín hữu là ngành nho trong cây nho là Đức Kitô.

Giáo hội là cộng đồng dân Chúa và là gia đình của Chúa chỉ khi nào các thành phần qui tụ và hiệp nhất trong niềm tin cậy mến. Nếu chỉ qui tụ trong thời gian hoặc không gian, thì không phải là cộng đồng dân Chúa. Người ta có thể qui tụ lại cùng nơi, cùng lúc, cùng đợi một chuyến xe, nhưng đó chỉ là đám đông, chứ không phải là cộng đồng, lại càng không phải là cộng đồng dân Chúa. Khi mà người ta đến với nhau thì có sự việc xẩy ra. Đó là một nguyên tắc xã hội học. Nguyên tắc này còn được áp dụng cho lãnh vực tôn giáo. Khi mà người Kitô giáo đến với nhau thì sẽ xẩy ra những hoạt động Kitô giáo, nghĩa là những hoạt động thiêng liêng. Khi mà người Kitô giáo hiệp nhất đến với nhau, họ sẽ mang lại hoa trái thiêng liêng. Sản xuất hoa trái cho bữa ăn đòi nhiều thời giờ và công sức như canh tác, vun xới, trồng, tưới, tỉa bón, hái về nhà gọt rửa rồi nấu nướng. Để có được hoa trái thiêng liêng cũng đòi hỏi nhiều thời giờ luyện tập như cầu nguyện, suy niệm, hy sinh, hãm mình, vị tha, bác ái...


 

57. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.

Trong một chương trình về làm vườn trên truyền hình, khi giải thích cách thức tỉa cành, chuyên gia nọ có nhận xét rằng thật đáng ngạc nhiên là hằng năm sau mùa đông người ta có thể xén tỉa cắt bỏ biết bao là cành khô củi mục từ một cây vẫn còn rất khỏe mạnh tươi tốt, đồng thời lưu ý thêm rằng cần xén tỉa kỹ lưỡng cây cối mới có thể sinh ra quả ngon. Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta rằng còn đáng ngạc nhiên hơn khi cuộc sống tốt lành chúng ta cũng có nhiều cây khô củi mục. Xét nhiều phương diện, cuộc đời chúng ta cũng không mấy khác gì với một vườn cây. Nếu chúng ta muốn sau này thu hoạch thật tốt, thì chắc chắn là phải liên tục chăm sóc vun trồng ngay từ đầu. Chúng ta cũng cần chạy tìm Đức Chúa Giêsu tư vấn, vì Người là bậc thầy trong lãnh vực "trồng ngưòi" này. Chúng ta cũng phải tự nhổ bỏ cỏ dại gai góc không thương tiếc, kẻo chúng chen lấn thui chột sức thăng trưởng của niềm tin Kitô giáo. Điều này có nghĩa là cần chặt bỏ những gì vô ích và gìn giữ những gì tốt đẹp. Việc xén tỉa mà Đức Kitô đang nhắc đến chính là việc thanh tẩy trọn vẹn tất cả con người: thân xác, và tâm hồn.

Là một Kitô hữu, không dễ gì giữ mãi vóc dáng tươi tốt ban đầu. Ngay cả những cuộc đời thánh thiện nhất cũng có thể tìm thấy lợi ích khi chịu xén tỉa đôi chút. Hoa trái tốt lành mà chúng ta mong mỏi sản sinh cho đời chính là tình yêu bác ái đối với tha nhân qua lời nói và việc làm. Đây là dấu thử nghiệm chánh hiệu cầu chứng của chúng ta vì hoa trái bác ái nào cũng có dấu ấn của Đức Kitô đóng trên chúng. Thật đáng tiếc nếu chúng ta đóng kín tâm hồn, quay lưng những anh chị em hàng xóm bằng cách nói xấu nói hành, bêu diếu những gương xấu lỡ lầm của họ, dồn họ vào đường cùng, làm mất danh thơm tiếng tốt của họ... Không ai lại không có lỗi lầm, thậm chí những người tốt lành nhất cũng có thể có cái mặt yếu nhất mà người ta có thể lợi dụng tấn công tơi tả. Quyết định nào cũng có cái giá phải trả, chúng ta không nên làm ngơ hay giảm thiểu những khó khăn gắn liền với quyết định sống yêu thương, sống tình yêu. Chúng ta không thể bẽ gẫy phá đổ những rào cản hận thù hay định kiến mở đường cho lòng tốt và khoan dung đi vào cuộc sống của anh chị em, nếu như chúng ta không quyết tâm chăm sóc tu dưỡng ngôn từ của chính mình bằng cách "giữ mồm giữ miệng" hay đúng hơn là "gọt dũa lại" cái lưỡi của mình. Tính hư tật xấu cũng như tội lỗi chúng ta thường ngăn chặn hay làm giảm hiệu quả việc chúng ta sống yêu thương qua tha nhân.

Đức Giêsu đã tạo một ảnh hưởng lớn lao trên đời sống thế gian này nhờ những môn đệ, những kẻ đi theo Người, biết cách sống sao cho mọi người nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong mọi tình huống đời thường. Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta có trở nên đôi tay và môi miệng Người hay không, để đem ánh sáng cứu độ đến cho người khác. Sự đóng góp to lớn nhất mà mỗi người trong chúng ta có thể làm cho Giáo Hội là chúng ta cho phép tình yêu của Đức Kitô thấm nhập vào trong máu của chúng ta. Nếu chúng ta sống trong Đức Kitô và Đức Kitô sống trong chúng ta, thì hoa trái chúng ta mang lại thật là ngoài sức tưởng tượng. Hôm nay là cơ hội cho chúng ta suy tư lại mức độ chúng ta gắn bó với Tin mừng, vì nếu lìa xa Đức Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không tăng trường vững bền. Thiên Chúa đòi hỏi con cái của Ngài cũng nhiều, khi Ngài mong muốn chúng ta xây dựng Giáo Hội trở nên một cộng đồng đầy sức sống năng động qua việc sống một đời tốt lành thánh thiện đầy hoa trái.


 

58. Hiệp thông với Chúa và với tha nhân

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

1. Têrêsa: Mãu gương hiệp thông với Chúa:

Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi, Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897, chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.

Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; Không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; Không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo khổ bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lực mới cho Hội Thánh, như lời Chúa phán: "Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).

2. Hiệp thông với Chúa như cành nho kết hiệp với thân cây nho:

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự hiệp thông với Đức Giê-su là điều kiện để đức Tin của các môn đệ phát sinh hoa trái. Cũng như cành nho phải kết hiệp mật thiết với thân cây mới sinh hoa kết quả thế nào, thì các tín hữu cũng phải kết hiệp mật thiết vối Chúa Giê-su mới có thể chu tòan sứ mệnh làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.

3. Hiệp thông với Chúa để hiệp thông với tha nhân:

Qua tác phẩm "Tự thuật" mà Tê-rê-sa đã vâng lời bề trên trình bày về linh đạo của mình. Linh đạo ấy được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, là Đức Bác Ái rút ra từ lời dạy và gương lành của Đức Giê-su trong Tân Ước, và được tóm gọn như sau:

- Luôn tin yêu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, giống như đứa con thơ ở trong lòng bà mẹ.

- Quyết tâm thực thi tình mến Chúa yêu người trong cuộc sống hằng ngày: "Sống đời thường bằng một cách thức phi thường".

- Tận hiến toàn thân để làm vinh danh Chúa và khiêm nhường phục vụ tha nhân.

- Vui vẻ đón nhận những sự hiểu lầm bất công hay khinh dể của tha nhân, như những món quà Chúa gởi đến giúp ta nên thánh.

Tê-rê-sa đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau: "Đức Ái đã cho tôi thấy chìa khóa về ơn gọi của tôi. Tôi hiểu rằng: nếu Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều chi thể, thì các chi thể đương nhiên phải có một chi trọng yếu hơn. Đó là trái tim luôn cháy lửa yêu mến. Chỉ có lòng mến mới thúc bách mọi thành viên trong Hội Thánh hăng hái hoạt động. Nếu ngọn lửa mến đó tắt đi thì các tông đồ không còn rao giảng Tin mừng, các vị tử đạo sẽ không hy sinh đổ máu. Tôi hiểu lòng mến bao trùm mọi ơn gọi khác, bao quát mọi không gian và thời gian. Tóm lại lòng mến là vĩnh cửu". Quả vậy, chính lòng mến Chúa tha thiết đã làm cho Tê-rê-sa tiến lên tới đỉnh trọn lành, và kết thúc cuộc đời trong sự bình an hạnh phúc.

Về đời sống nội tâm, Tê-rê-sa đã thưa với Đức Giê-su trong cuốn Tự Thuật như sau: "Ôi Giê-su là Tình Yêu của con. Con đã khám phá ra ơn gọi của con là Sống Tình Yêu! Con đã tìm ra chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh là mẹ con mà Chúa đã ban cho con. Con sẽ là Tình Yêu, và như vậy con sẽ là tất cả..."

4. Lạy Chúa Giêsu.

Hôm nay xin Chúa cũng giúp chúng con biết noi gương Đức Maria trong việc hiệp thông với Chúa và với tha nhân: Sau khi thụ thai Hài nhi Giêsu, Mẹ đã đem Thai Nhi đi viếng thăm bà chị họ để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho cả gia đình Gia-ca-ri-a. Nhờ đó thai nhi Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Xin cho chúng con hôm nay, mỗi lần dự lễ và rước Chúa Giêsu vào lòng, cũng biết đem Chúa là tình yêu đến chia sẻ cho những người thân chưa tin nhận Chúa, thăm viếng thắt chặt tình thân với các thành viên trong cộng đoàn... và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân trong những người neo đơn bệnh tật và bất hạnh... Nhờ được luôn hiệp thông với Chúa, chúng con sẽ biết quên mình, vác thập giá là những rủi ro trái ý gặp phải hằng ngày và bước theo chân Chúa trên đường lên Núi Sọ noi gương Mẹ Maria xưa. Amen.


 

home Mục lục Lưu trữ