Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 99

Tổng truy cập: 1446771

NGƯỜI TỘI LỖI

Người tội lỗi – R. Gutzwiller

Đức Giêsu vừa chữa lành người mù, bây giờ Ngài lại gặp một người tội lỗi, một người vị vọng ở Giêricô. Ở thị trấn gần biên giới này, thu thuế là nghề rất phát tài. Giakêu thi hành công việc này nhiều nơi nên ông đã thu tích được một gia sản đáng kể, tuy phải dùng đến những phương sách mà người Do thái coi là bất chính. Thực thế, vì nghề nghiệp, ông luôn phải giao tiếp với lương dân và còn phải chi li từng đồng với bọn thuộc hạ, rồi với dân chúng qua những người trung gian. Thế cho nên người Do thái cứ yên trí rằng bọn thu thuế khỏi cần nói cũng là người tội lỗi. Tội lỗi đã nên như đặc điểm nơi ông Giakêu.

Tuy nhiên đó chỉ là dáng vẻ cuộc đời ‘dân sự’ bình thường của Giakêu, nhưng bên trong ông có cả một chiều sâu. Ông muốn gặp gỡ Đức Giêsu. Không phải ông là người hiếu kỳ, vì cứ theo lời ông người ta sẽ nhận ra nỗi lòng hối tiếc trong tâm tư con người dư dật đó. Ông sẵn sàng dành phân nửa tài sản để bố thí cho người nghèo và nếu có lỡ gian lận của ai thì bồi thường gấp bốn. Giakêu không thoả mãn vơí chính mình, với đời sống, địa vị và thành công của mình. Tự đáy lòng ông cảm nghiệm được sự trống vắng. Tiền của có thể dư giả, nhưng không bù lấp được tâm tư. Uy thế có thể củng cố địa vị xã hội của ông, nhưng không cứu vãn được linh hồn ông trước mặt Thiên Chúa. Với tuổi đời như Giakêu, con người không còn ảo tưởng nữa và sự vĩnh cửu bắt đầu là một cái gì có ý nghĩa. Trên đời vẫn còn có nhiều người xử sự như Giakêu.

Cái nhìn và lời nói của Chúa đến với ông thật đúng lúc. Đức Kitô không bị ràng buộc với phán đoán của con người. người thường mai mỉa những ai ra vẻ đạo đức, rồi Người luôn kêu gọi người tội lỗi trở lại đường lành. Người không hề mị dân. Trong trình thuật này, Người đã chọn Giakêu-một con người dị dạng giữa đám dân chúng. Người không chỉ trao đổi hay gặp gỡ qua loa nhưng còn đem lại niềm vui và cho ông vinh dự đón tiếp Người tại nhà cho đến ngày hôm sau. Người biết rõ, theo quan niệm đạo đức thông thường, vào nhà một người tội lỗi là làm một cái gương xấu. Nhưng Đức Giêsu đến ‘để tìm và cứu chữa những gì đã hư mất’. Suốt cuộc hành trình cuối cùng đi lên Giêrusalem, Người đã nghĩ đến những kẻ lầm đường lạc lối; vì tha nhân quên mình, bất chấp quan niệm thường tình, Người đến với Giakêu vì Người đáp ứng được niềm ông mong đợi, đưa ông trở về với Thiên Chúa khoả lấp tâm hồn ông bằng sự sung mãn tinh thần, ban ân sủng, thức tỉnh và hướng dẫn tâm hồn con người để họ lắng nghe lời Ngài. Kẻ tội lỗi sẵn sàng hoàn lương ấy chính là điều Đức Giêsu lấy làm mãn nguyện.

 

  1. Hôm nay nhà này được giải thoát.

Đoạn Tin Mừng hôm nay được đặt vào đoạn cuối của lần sau cùng khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nơi đây Người sẽ chịu khổ nạn và sẽ bị giết bởi tay người Do thái, rồi ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Câu chuyện ông Giakêu được đặt kế tiếp sau phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Giêricô. Người mù được Thiên Chúa chữa lành, vì tin vào Chúa Giêsu mà ông ta được sáng mắt. Phép lạ của người mù chuẩn bị cho thính giả hiểu được sâu xa cuộc cách mạng tinh thần của ông Giakêu, một cuộc cách mạng tận gốc rễ, đổi mới hoàn toàn. Từ bóng tối của cảnh mù lòa bước vào ánh sáng của người được chữa lành. Từ bóng tối của tội lỗi bước sang con đường sáng của cuộc đời mới, của cuộc sống thánh thiện. Từ cuộc gian tham khéo léo bước sang con đường ngay chính chân thật và quảng đại. Từ cuộc sống xa Chúa được xích lại gần Chúa hơn, được kết hợp với Chúa Giêsu và hòa giải với tha nhân.

Do đó, trọng tâm bài Tin Mừng hôm nay nêu bật một khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu, đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói gọn trong tình yêu khoan dung. Vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngụ ý của lỗi lầm, của tha thứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ mình yêu trong hiện tại đen tối của người ấy, nhưng còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tương lai. Trong cách hành sử của Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng tha thứ. Để biểu lộ một tình yêu chân thành trên, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội bấy giờ gán cho là những kẻ tội lỗi. Ngài không cấm họ không được lui tới nghe Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài cùng ăn uống và đồng bàn với họ.

Vì thế, những cuộc gặp gỡ và giao tiếp này minh chứng rằng, Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: Trạng thái hiện tại của họ và những trạng thái họ có thể trở nên tốt trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dầu họ đang sống trong tình trạng tội lỗi, nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải. Và những điều họ có thể trở nên tốt được minh chứng qua những hành động cụ thể, ví dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa Giêsu như trường hợp của Ông Gia kêu. Ông là một người thu thuế nhưng khi nghe Chúa Giêsu gọi, ông liền bỏ bàn thu thuế đứng dậy và theo làm môn đệ của một người tự nhiên tả: “Con cáo có hang, con chồn có tổ nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.

Do đó, sự cải tạo xã hội tận căn phải bắt đầu bằng ý thức về tội lỗi và sám hối, và đây có thể là ý tưởng mà Tin Mừng hôm nay gợi lên cho chúng ta. Vào thời Chúa Giêsu, nghề thu thuế được hiểu như là cấu kết với ngoại bang để hà hiếp và bóc lột người đồng hương, nên cũng đồng nghĩa với tham lam bất chính. Một cách nào đó, phường thu thuế là một ung nhọt của xã hội, trong khi xa lánh là biện pháp thanh trừng đối với nhà lãnh đạo Do thái dành cho những người thu thuế thì trái lại Chúa Giêsu đến với họ, ngồi đồng bàn với họ. Chúa Giêsu không làm như thế để biện minh cho hành động tham lam bất chính đối với những người thu thuế cũng như đối với các cô gái điếm. Ngài đến gần họ, trước hết là để cảm thông với thân phận bị đẩy ra bên lề xã hội của họ, đồng thời Ngài mời gọi họ ý thức về hành động tội lỗi của họ.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên chức giàu có tên là Giakêu tại thành phố Giêricô cho thấy cuộc cách mạng ấy bắt đầu bằng việc sám hối và cải thiện cuộc sống. Thật ra, sám hối đích thật luôn đi liền với cải thiện. Ánh mắt của Chúa Giêsu đã đi xuyên suốt tâm hồn ông, khiến ông nhận ra được những lỗi lầm của mình. Ánh mắt ấy lại từ nhân và mời gọi, đến nỗi đã làm cho ông cảm thấy thôi thúc và cải thiện đời sống. Vì thế, ơn cứu độ đã thực sự đến nhà ông và cuộc tái sinh đã khởi đầu: Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, mà nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn lần”. Ông Giakêu không chỉ sám hối và cải thiện cuộc sống bản thân, nhưng ông còn góp phần vào việc cải tạo xã hội, đúng hơn nữa sự hoán cải cá nhân của ông ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc sống xã hội. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được chiều kích xã hội của lòng sám hối. Vì thế, không những người tín hữu Kitô đóng góp tài trí của mình cho công cuộc cải tạo xã hội, nhưng niềm tin của họ được thể hiện bằng lòng sám hối và cải thiện cuộc sống làm trọng tâm và cũng là linh hồn của bất cứ một cuộc cách mạng và cải tạo xã hội nào.

 

  1. Tiền bạc

Qua thái độ đền bù rộng rãi của ông Giakêu tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng nhỏ mọn về vấn đề tiền bạc.

Người xưa đã nói: của đồng lần thiên hạ tiêu chung. Thực ra tiền bạc có mục đích là để phục vụ con người. Nó được dùng để nuôi sống và thăng tiến con người toàn diện. Vì thế của cải phải được phân chia công bằng, và mọi người phải chung tay đóng góp vào đó. Kẻ giàu phải biết mở rộng con tim và bàn tay cứu giúp người nghèo túng. Còn người nghèo, không có gì phải mặc cảm khi nhận lãnh sự giúp đỡ của họ, dù giá nào mình vẫn sống khiêm hạ và công chính. Nào có ai giàu ba họ khó ba đời đâu mà lo!.

Trên thực tế, chúng ta thấy có điều đáng buồn, đó là số người nghèo quá đông, chiếm tới 3/4 nhân loại. Còn kẻ giàu lại làm giàu trên sự túng cực của người nghèo. Kẻ giàu thì như chuột sa chĩnh gạo, còn người nghèo thì lại bị chó cắn áo rách. Giàu nghèo mãi mãi trở thành hai phe chống đối nhau, gieo tai họa cho nhau.

Kinh Thánh đã lên án những kẻ giàu bất công và ích kỷ. Đồng thời tục ngữ Việt Nam cũng xác quyết:

– Của thiên trả địa.

– Của phù vân thì vần xuống biển.

Của cải dành cho một số người có nghĩa là nó sẽ loại trừ hạnh phúc của một số đông. Của cải sẽ làm cho chúng ta xa lìa Thiên Chúa là Đấng ban phát cho chúng ta. Một xứ đầy vàng bạc sẽ chóng biến thành ngẫu tượng. Vì khi đã mãn nguyện rồi, họ sẽ kiêu căng mà lãng quên Thiên Chúa. Và chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh cáo: Không ai có thể làm tôi hai chủ, hoặc yêu chủ này mà ghét chủ kia, cũng vậy không ai có thể làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền bạc. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời.

Bởi đó, vấn đề là phải biết san sẻ cho nhau, bởi vì không ai có thể tự sống tự lập một mình, không cần nhờ cậy ai. Ngay như kẻ giàu có, cũng phải nhờ vào người nghèo túng mà trở nên khấm khá. Cho nên chia sẻ là điều hợp tình và hợp ý.

Trước hết là cùng nhau chia sẻ những gì mình có. Chẳng hạn cùng là người Việt Nam, chúng ta hãy chia sẻ gia tài quí giá cũng như phúc lộc do tổ tiên để lại về luân lý và văn hóa. Cùng là con cái Thiên Chúa, chúng ta hãy chia sẻ với nhau trong Giáo Hội những việc lành thánh và ơn cứu rỗi. Còn về của cải, chúng ta thấy các tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem đã chia sẻ cơm áo cho nhau không để của mình là của riêng.

Tiếp đến là chia sẻ cái mình hơn cho người kém, cái mình có mà người khác không có và ngược lại người khác cũng làm như thế. Đó là lá lành đùm lá rách, có đi có lại, chị ngã em nâng.

Thật ra chúng ta luôn luôn có những cái để chia sớt và luôn có những người để lãnh nhận, vì chính chúng ta cũng đang ở trong tình trạng như thế. Cùng là chi thể của một thân thể, chúng ta có trách nhiệm lẫn nhau như câu nói: ‘Môi hở răng lạnh, một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ’.

Và sau cùng, chúng ta phải sống thế nào để đem lại hạnh phúc cho người khác, nhất là những người túng thiếu hơn mình. Chúng ta phải coi hạnh phúc của người khác là hạnh phúc của mình. Khóc cùng kẻ khóc, vui cùng kẻ vui.

Sự chia sẻ cho người khác hàm ý cho đi mà không đòi lại, cho đi thì có phúc hơn là nhận lãnh. Hãy coi sự cho đi của tre già cho măng mọc, của cha mẹ cho con cái được phát triển. Chúng ta hãy nối rộng vòng tay tình thương đến những ai đang cần tới chúng ta để họ thuộc về gia đình của Chúa sớm hơn.

Hãy coi Chúa Giêsu, Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó để nhờ Ngài mà chúng ta được trở nên giàu có, thì đến lượt chúng ta, chúng ta không có quyền sống ích kỷ hưởng thụ cho riêng mình. Tất nhiên cho đi là tiếc xót và thiệt hại, nhưng khi chúng ta đã chọn Chúa làm gia nghiệp thì Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.

 

  1. Người tội lỗi hay người công chính

Chuyện kể rằng, một hôm có vị Quận công vào thăm trại tù. Ông là người tốt lành, nhân hậu. Khi ông đến, ông hỏi thăm các tù nhân về tội trạng của họ. Ông lấy làm ngạc nhiên vì các tù nhân ông hỏi đến đều nói mình vô tội. Người thì nói bị cáo gian, kẻ thì nói vì lòng ghen tỵ mà người ta thêu dệt tội trạng để bỏ tù mình, có người còn nói tại quan toà thích bỏ tù thì kết án chứ anh có làm gì sai đâu! Nhưng có một người đứng lên thú nhận tội mình: thưa quận công, tôi là người có tội, trong lúc cần tiền, tôi đã đi ăn trộm, tôi thấy mình đáng bị phạt nơi này. Lúc đó các bạn tù xỉ vả anh: anh thật tệ, anh không xứng đáng ở chung với những người vô tội. Lúc đó, vị quận công nhìn anh với lòng thương xót và tuyên bố tha bổng cho anh. Còn những người kia thì tiếp tục ở lại trong tù để có thời giờ suy nghĩ về sự công chính giả hiệu của mình.

Chúa Giêsu đến không phải để cứu chữa người công chính, nhưng để cứu người tội lỗi. Hay nói một cách khác: ai khiêm tốn và nhận lỗi, sẵn sàng để cho Chúa khám và điều trị thói hư, lầm lạc của mình thì Chúa mới chữa được. Vì Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Những người xưng mình là công chính, tự cho mình là đúng, không muốn nghe dư luận, không sửa mình, kể cả lời nhắc bảo của Chúa họ cũng để ngoài tai thì làm sao Chúa chữa lành được họ. Chúng ta biết, Chúa Giêsu khi muốn chữa bệnh cho ai, thì Ngài hỏi: “Con muốn ta làm gì cho con?” Chắc chắn Chúa biết người đó phạm tội gì, bệnh tật gì. Nhưng Ngài muốn người đó tự thú nhận, cầu xin ơn tha thứ. Kế đó Ngài mới giải tội, ra tay chữa trị cho lành cả hồn lẫn xác.

Giakêu là mẫu gương về lòng hoán cải. Giakêu biết tội mình, nhưng vì ông thấy nhiều luật sĩ và biệt phái hữu danh vô thực. Tuy mang danh là đạo đức nhưng thật ra nhiều người biệt phái luật sĩ cũng tham lam đâu thua gì ông, họ cũng ỷ quyền, áp bức kẻ khác, lạm quyền đâu kém gì ông mà có khi, ông nghĩ, họ còn tệ hơn ông nữa! Vì vậy, ông tuy biết việc mình làm là không đúng nhưng nhất định không đến thú tội với bọn người giả hình kia.

Tuy nhiên, thật may mắn cho ông, xu hướng trở về với Chúa vẫn thôi thúc lòng ông đêm ngày. Ông là người thức thời, ông nghe người ta đồn về một ông Giêsu, là một vị tiên tri đầy quyền năng, đối xử nhân từ với người thu thuế và tội lỗi chứ không như bọn Luật sĩ, Biệt phái giả hình, khinh khi và loại trừ người thu thuế. Vì thế, ông đã hỏi thăm kỹ càng ngày giờ Thầy Giêsu sẽ đi ngang qua đó. Đúng lúc đám đông theo Chúa Giêsu đi ngang, ông vội vàng trèo lên cây sung để mong được nhìn Thầy Giêsu, một người đầy lòng thương xót đối với tội nhân, và ông đã nhìn thấy Chúa. Hay đúng hơn Ánh Mắt Nhân Từ đã nhìn thấy ông trước khi ông nhận ra Ngài. Ngài đã gọi đúng tên ông. Thật ngỡ ngàng quá. Ông những tưởng chỉ có lòng ông khao khát tìm gặp Chúa, ai ngờ Chúa lại thao thức đi tìm ông. Dường như Chúa biết tất cả về ông về những tội lỗi và lòng chân thành sám hối của ông.

Thật quả đúng như lời người ta đồn đại và còn hơn thế nữa, Giêsu là Đấng Cứu Thế, Giakêu xúc động vô cùng trước tấm lòng của vị chủ chăn đi tìm chiên lạc. Ông chỉ còn biết thốt lên: tôi làm thiệt ai trong thời gian qua thì xin đền gấp 4 lần, còn phân nửa tài sản tôi xin chia cho kẻ khó. Đối với Giakêu, cuộc đời ông đã được Chúa Giêsu cứu chuộc rồi, của cải tài sản ông coi như phân phát hết cũng được, ông không cần gì khác nữa. Ông nhận ra tình thương của Chúa rồi. Cuộc đời ông tràn đầy ý nghĩa. Ông thấy cuộc đời mình đáng sống và hạnh phúc trong tình thương cứu chuộc của Chúa.

Trong ngày Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến tình thương của Chúa. Dù chúng ta thấy mình là công chính thì chúng ta hãy xét mình thêm xem mình đã đáp trả lại tình thương của Chúa đúng mức chưa? Chúng ta có dám nói như Giakêu: nếu tôi có làm thiệt hại danh giá hay vật chất của ai thì tôi xin đền gấp 4 và phân nửa tài sản của tôi xin chia cho kẻ khó. Rõ ràng, chúng ta chưa dám nói như vậy. Điều này cũng cho thấy là chúng ta chưa yêu mến Chúa bằng Giakêu. Vì vậy chúng ta phải dành thời giờ lưu lại với Chúa nhiều hơn sau thánh lễ và thiết tha cầu xin Chúa cho đời mình gắn bó Chúa hơn nữa. Ước gì chúng ta luôn biết nhận ra sự thật về chính mình để được Chúa gột rửa nên hoàn hảo, xứng đáng là môn đệ của Thầy chí thánh Giêsu. Amen.

 

  1. Đền tội

Sau khi được Chúa tha thứ, ông Giakêu đã thưa lên cho mọi người được biết:

– Tôi sẽ lấy nửa gia tài để làm phúc bố thí cho người nghèo và nếu đã làm thiệt hại ai, tôi xin đền bù gấp bốn.

Lời nói này biểu lộ thái độ sẵn sàng đền bù và sửa lại những sai lỗi của mình. Đã có một chuyển biến, đã có một đổi thay nơi con người Giakêu. Vì thế, chúng ta cùng nhau chia sẻ một vai ý nghĩ đơn sơ về sự đền bù.

Có một người bỏ xưng tội lâu năm, tìm gặp vị ẩn tu trong sau mạc để xưng tội. Vị ẩn tu ra việc đền tội là một kinh Lạy Cha, khiến người ấy hết sức ngạc nhiên. Vị ẩn tu trả lời:

– Chỉ có vậy mà thôi, nhưng con phải đọc cho thật sốt sắng.

Người tội lỗi quì gối giữa vùng sa mạc cát nóng, đôi tay giang rộng, mắt ngước nhìn lên trời và bắt đầu đọc chậm chậm kinh Lạy Cha với tất cả sự trang nghiêm của mình. Và khi đọc tới những chữ cuối cùng, người ấy cảm thấy mệt mỏi rã rời, hơi thở đứt đoạn, rồi ngã gục xuống và nhẹ nhàng từ bỏ cuộc sống. Vị ẩn tu nhìn thấy linh hồn người ấy bay lên trời như một cánh chim bồ câu trắng.

Nhờ việc xưng thú, tội lỗi chúng ta đã được tha thứ, nhưng nhờ việc đền bù, những hình phạt do tội lỗi gây ra cũng được xóa bỏ. Chính vì thế, linh hồn có thể không phải qua luyện ngục, mà tiến thẳng đến cùng Chúa. Do đó, chúng ta hiểu được tại sao vị linh mục bao giờ cũng ra việc đền tội cho chúng ta sau mỗi làng xưng thú. Ngài muốn hoàn tất trọn vẹn công việc của ngài: xóa bỏ tội lỗi cũng như những hình phát bởi tội mà ra. Ngài muốn cho chúng ta thoát khỏi những tháng ngày đày đọa nơi luyện ngục. Bởi đó, hãy chu toàn việc đền tội của mình.

Tuy nhiên, những người thiện chí như muốn nói:

– Xin cha hãy ra việc đền tội nặng hơn một chút.

Tốt lắm! Chúng ta cứ việc hoàn tất việc đền tội linh mục đã chỉ định, rồi sau đó tự ý làm thêm những việc khác, chẳng hạn như lần chuỗi hay đi chặng đàng Thánh giá…

Sau khi xưng tội, đừng vội vã rời bỏ nhà thờ, nhưng hãy ở lại ít phút để cầu nguyện với Chúa bằng tất cả tâm hồn trong sạch của mình. Chúa sẽ lắng nhge lời chúng ta trong những phút giây ấy.

Tuy nhiên, việc đền tội không nhất thiết phải là đọc kinh nọ, kinh kia, nhưng có thể là những hy sinh và hãm mình. Hãy sống tinh thần sám hối trong chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Thánh Louis đã kể lại rằng: trong suốt cuộc sống mình chỉ phạm có hai tội nhẹ mà thôi. Tội thứ nhất, đó là hồi còn bé ngài đã ăn cắp mấy xu của một người lính. Tội thứ hai, đó là ngài đã nói lời tục tĩu một lần. Ngài đã làm nhiều việc hãm nình để đền bù hai sai lỗi nhỏ bé ấy. Là hoàng tử, nhưng ngài luôn vui vẻ giúp đỡ người khác. Mỗi khi cầu nguyện, ngài đều quì trên đất cứng, thay vì quì trên nhung lụa. Mỗi tuần, ngài ăn chay hai ngày. Ban đêm, thay vì ngủ trên chăm ấm nệm êm, thì ngài lại nằm trên một tấm ván.

Sau này, ngài đã rời bỏ cung điện để vào tu trong một nhà dòng. Tại đây, ngài vui mừng vì được làm những công việc tầm thường như quét nhà, rửa bát… Khi cơn dịch bộc phát, ngài đã hăng say đi giúp đỡ các bệnh nhân và sau cùng, ngài cũng đã mắc phải bệnh dịch.

Mặc dù đớn đau, ngài không bao giờ than van oán trách. Ngài chấp nhận tất cả để đền bù tội lỗi. Tại sao thế? Vì ngài biết Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng và sẽ trừng phạt cả những sai lỗi nhỏ bé nhất. Ngài muốn bị trừng phạt ở đời này, còn hơn là bị trừng phạt ở đời sau.

Tuy nhiên, có một cách đền tội thật tốt đẹp, đó là hãy uốn nắn những sai lỗi, sửa đổi những khuyết điểm, để thăng tiến bản thân, mỗi ngày một trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.

Chúng ta hãy noi gương thánh Phêrô, ông đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó, ông đã ăn năn sám hối, đã làm lại cuộc đời và đã trở nên một vị thánh.

Trước khi xưng thú, chúng ta là những kẻ tội lỗi. Còn sau khi xưng thú, chúng ta phải trở nên những vị thánh.

 

home Mục lục Lưu trữ