Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 120

Tổng truy cập: 1447850

NGƯỜI CON PHUNG PHÁ

NGƯỜI CON PHUNG PHÁ

Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi muốn dừng lại ở thái độ của người cha và của người anh cả. Trước hết là của người cha.

Người Cha

Ở vào hoàn cảnh của chúng ta, chúng ta có nhiều cách xử sự. Trước hết, ông có thể đuổi ngay đứa con vừa mới trở về và nói với nó: Hãy cút đi, hãy xéo cho khỏi mặt tao. Mày đã chẳng đem lại gì ngoài sự nhục nhã đến cho gia đình. Đồ khốn nạn, đồ mất dạy. Mày coi cả xứ này đang bàn tán về gia đình mày, vì vậy mà tao chẳng dám vác mặt đi tới đâu. Thứ đến ông có thể thử thách đứa con một thời gian, và đây là điều mà bất cứ người con nào đã bỏ nhà ra đi, khi trở về đều mong được hưởng: Xin hãy xử với con như một người làm thuê trong gia đình. Sau hết người cha có thể làm thinh, không thèm để ý đến nó. Cách này là một hình phạt nặng nề nhất đối với đứa con trở về. Nhưng người cha đã chẳng chọn một cách nào trong ba cách nói trên, thay vào đó, ông sung sướng như một đứa trẻ khi thấy cha mẹ đi xa trở về. Ông còn trút như mưa trên đứa con những dấu chỉ mạnh mẽ để chứng tỏ tình yêu khoan dung ông dành cho con. Ông phục hồi quyền lợi cho nó một cách tràn đầy như một người con của ông vậy. Người ta nói rằng đứa con trở về đó như đã mất mà nay lại tìm thấy và lại được thương mến hơn trước.

Vậy Chúa Giêsu muốn nói về ai thế? Ngài nói về Thiên Chúa, bởi vì chính người cha chứ không phải là đứa con giữ vai trò chính trong câu chuyện. Đó là cách Thiên Chúa cư xử với tội nhân khi họ quay trở về với Ngài, khi họ thực sự đổi mới cách ăn nết ở. Đó là tâm tình đích thực của Thiên Chúa.

Người con c

Trái lại người con cả sau khi nghe biết đứa em trở về và người cha giết bê béo ăn mừng, thì anh liền nổi giận và nhất quyết không vào nhà. Anh đã trả lời cùng người cha: Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha, không hề trái lời cha, vậy mà chẳng bao giờ cha cho tôi một con bê con để ăn mừng với chúng bạn. Câu chuyện có thể chấm dứt một cách tốt đẹp khi bữa tiệc được chuẩn bị. Vậy tại sao Chúa Giêsu lại thêm phần này vào dụ ngôn? Tôi xin thưa vì Ngài muốn mạc khải cho chúng ta biết về cách thức Thiên Chúa suy nghĩ, cách thức ấy hoàn toàn trái ngược với con người. Như người anh cả xét đoán đứa em thế nào thì người đời cũng đoán xét kẻ tội lỗi như vậy, dù họ đã ăn năn hối cải. Người đời đâu có thèm vui mừng khi thấy một người tội lỗi trở lại như Thiên Chúa đã làm. Đối với họ, kẻ tội lỗi là một con người xấu xa và đáng khinh chê. Họ còn chống đối lòng thương xót của Chúa nữa. Và đó cũng là lý do để Chúa nói lên dụ ngôn này. Người bị người ta chê trách vì đã làm bạn với bọn thu thuế và tội lỗi, khi những người này tìm đến để mong Ngài ban ơn cứu độ. Chúng ta chỉ cần đọc lại câu dẫn nhập là thấy rõ điều đó: Khi ấy những người thu thuế và tội lỗi đến gần Người để nghe giảng, thấy vậy bọn biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm: Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng. Với ba dụ ngôn vừa nghe, Chúa Giêsu đã chỉ trích cái nhìn hẹp hòi của người đời, chứng tỏ cho họ thấy rằng họ chẳng biết gì về Thiên Chúa. Người đã nhấn mạnh: Trên trời sẽ vui mừng biết mấy khi một kẻ tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công chính. Dù có vấp phạm, chúng ta đừng bao giờ thất vọng, trái lại hãy tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa mà chỗi dậy, mà trở về để được hưởng nhờ ơn Ngài tha thứ.

 

7. Sự tha thứ của Thiên Chúa.

Chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay đó là tình thương tha thứ của Thiên Chúa, nhất là qua hình ảnh người cha nhân hậu.

Thực vậy, đây là hình ảnh của một tình yêu không biên giới và vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài là Cha và chúng ta là con. Làm con thì có quyền hưởng gia tài của cha. Thiên Chúa luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta nhưng đồng thời mỗi người chúng ta lại phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình trước mặt Ngài. Vì tôn trọng quyền tự do của con, người cha đã chia gia tài cho cậu út và để cho cậu ra đi. Nhưng tình yêu của người cha luôn đi theo cậu không ngơi, luôn mong chờ cậu trở về. Ngày ngày ông những nóng cùng trông. Cho tới một ngày kia, ông nhìn thấy bóng dáng cậu từ xa thất thểu lê lết từng bước chân. Thế là ông vội chạy về phía cậu, quên đi tuổi già sức yếu của mình, ông lại gạt bỏ khỏi lòng mình mọi đau buồn về lầm lỗi thất hiếu của cậu. Ông ráng chạy, chạy thật nhanh mà ôm lấy người con yêu dấu, đã chết mà nay lại sống. Rồi ông mở tiệc linh đình để ăn mừng.

Thiên Chúa là thế. Vì là Cha, Ngài luôn trông chờ, sẵn sàng đón nhận chúng ta trở về. Chỉ cần chúng ta biết nhớ lại tình thương vô bờ bến của Cha, nhận ra sự dại dột của mình mà ăn năn sám hối. Chúa luôn tha thứ và muốn chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ, như một trong những ơn cao đẹp nhất của tình yêu Ngài ban cho con người.

Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người anh cả, nhờ đó mà hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn này. Người anh cả trong thời Chúa Giêsu, ám chỉ dân Do Thái. Họ tưởng rằng chỉ họ là trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, họ khinh bỉ các dân tộc khác và những kẻ mà lề luật đạo cũ gọi là tội lỗi.

Ngày nay, người công giáo chúng ta cũng nên thật trọng, kẻo lại có cách nhìn và thái độ của đạo cũ, tự coi mình là nắm hết chân lý, có sự trọn hảo đạo đức, rồi khinh chê, xa tránh và thậm chí thù ghét những người không cùng chia sẻ một niềm tin, một lối sống như chúng ta.

Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc đến mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lần đường lạc lối, Ngài tạo mọi điều kiện để chúng ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta, đó là tin vào tình thương tha thứ của Ngài, để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chín con ở lại trong đàn. Niềm vui tha thứ thật trong lòng là niềm vui của những người biết và dám sống nội dung của kinh Lạy Cha, lời kinh duy nhất của những công dân đích thực Nước Trời, đó là: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.

 

8. Lòng Chúa xót thương

Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.

Trước hết đó là một tình yêu đi bước trước.

Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri Ezechiel cũng như nhiều vị tiên tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm kiếm con chiên, không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.

Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong tội lỗi. Thái độ và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu thuế và tội lỗi đã là một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.

Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi trước cũng chính là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm tới hạnh phúc của người được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ tình yêu tinh ròng và cao cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để sống trọn lành như Ngài, nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.

Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu thiên vị.

Lời xác quyết này có lẽ làm cho chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không trừ một ai, không bỏ bất cứ con người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên có một điều cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị, dành cho những kẻ sống bên lề xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những người thu thuế, những người ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm, trộm cướp... Người Do Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với phường tội lỗi, và họ đã nói lên được một sự thật.

Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng và cõi lòng của Thiên Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của Ta thật khác biệt với tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu đã gần gũi, đã làm bạn, đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi. Ngài đã khẳng định một cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc, và Ngài chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài phải thực hiện khi đến trong trần gian:

- Con Người tới là để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã hư đi.

Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái thế ưu tiên, cái thế thiên vị ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới nghiệm ra được tại sao nỗi vui mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi tìm thấy một con chiên lạc, một đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.

Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa là con người được cứu rỗi và sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải là lặn ngụp trong chốn bùn nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy muôn kiếp.

 

9. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!"

Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.

Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.

II. Gợi ý sám hối

* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)

Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.

Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.

Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:

Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.

Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe".

2. Đáp ca (Tv 50)

Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".

3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)

Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.

Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc - người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột - và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17)

Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:

"Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"

"Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"

"Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài".

IV. Gợi ý giảng

* 1. Giá trị của từng con người

Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".

Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.

Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.

Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).

* 2. Cái mất là cái quý

Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.

Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.

Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)

Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói: "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".

Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?

Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.

Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.

Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.

* 3. Những con người bị mất

Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.

Những con người bị mất ấy là ai?

Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.

Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.

Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.

Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.

Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.

Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.

Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.

* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương (Lc 15,1-12)

Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:

- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.

Ngài ôn tồn bảo:

- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.

Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.

***

Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.

Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.

Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.

Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.

Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.

Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.

Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.

Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".

***

Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.

Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (Thiên Phúc)

5. Chuyện minh họa

a/ Sự tha thứ của Chúa

Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.

- Ông biết đây là gì không?

- Nó giống như cát.

- Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?

- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.

- Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?

- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.

b/ Không cần đếm

Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? " Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. "

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:

1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.

2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.

3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.

4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.

VII. Giải tán

Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.

 

10. Hòa giải là từ ngữ mới của tha thứ – An Phong

Chủ đề Tin mừng Chúa Nhật 24 Thường Niên C là lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với những người Pharisêu 3 dụ ngôn: dụ ngôn một con chiên lạc mất trong số 100 con chiên; dụ ngôn một đồng bạc bị mất trong số 10 đồng; và dụ ngôn người con hoang đàng (một trong hai anh em). Mức độ càng tăng từ cấp độ thứ nhất đến cấp độ thứ ba cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với người tội lỗi thật lớn lao. Một trên một trăm( 1/100) và một trên mười (1/10) không đáng giá bằng một trên hai (1/2). Lòng thương xót của Thiên Chúa được thể hiện qua cung cách của người cha già luôn sẵn sàng mở rộng vòng tay đón người con hoang đàng trở về, tha thứ cho hắn trước khi hắn mở miệng xin lỗi Cha. Thiên Chúa luôn chờ đón mọi người chúng ta quay trở về trong vòng tay yêu thương của Người.

Khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giêsu đã long trọng tuyên bố trước mặt mọi người:

"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi,

bởi Người đã xức dầu cho tôi

sai tôi đem Tin mừng cho người nghèo khó

ban bố ân xá cho kẻ tù đày

cho người đui mù được thấy

cho kẻ bị áp bức được giải oan

loan báo năm hồng ân của Chúa"

Niềm vui và hạnh phúc đến với những ai tội lỗi khi đã gặp được Đức Giêsu: - Với người bất toại: "Tội lỗi của anh đã được tha"; Với Lêvi, người thu thuế: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà là kẻ tội lỗi"; Với Giakêô: "Con Người đến để tìm kiếm những gì đã hư mất".

Những người đau khổ, bé mọn cảm thấy mình được yêu thương nâng đỡ khi tìm gặp Đức Giêsu: Với người phung hủi: "Tôi muốn anh được sạch"; Với người nghèo: "Phúc cho những người nghèo"; Với các trẻ nhỏ: "Hãy để trẻ nhỏ đến cùng tôi, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những người giống như chúng". Với người phụ nữ băng huyết: "Lòng tin của chị đã chữa chị, hãy đi bình an".

+ Người không để người góa bụa cô thế cô thân ra về mà không một lời an ủi.

+ Người trả lại sự sống cho đứa con duy nhất của bà góa thành Naim.

+ Người ngợi khen bà góa bỏ hai đồng xu vào hòm tiền dâng cúng.

Cao điểm khuôn mặt dịu hiền của Đức Giêsu bộc lộ khi Người hấp hối trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".

Kitô hữu là người đứng bên bờ vực thẳm, nhích lên một milimét nữa là rớt xuống vực thẳm như: Vực thẳm của nạn ghiền ma túy; Vực thẳm của rượu chè, cờ bạc; Vực thẳm của nạn mại dâm.

Đó là vực thẳm mà NGƯỜI CON THỨ rơi vào.

Vực thẳm nguy hiểm hơn, khó nhận thấy hơn, là vực thẳm của NGƯỜI ANH CẢ: Khi cho rằng chu toàn lề luật là đủ; khi cho rằng mình phục vụ nhiều, nào đi học, dạy giáo lý, tập hát... cho mình quyền đòi hỏi. Đó là một điều ích kỷ khi phục vụ. Khi tưởng rằng mình thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra là chỉ thờ một bức tượng khô cứng, bụi bậm. Và vì thế họ dễ phê phán người khác.

Lạy Chúa,

Ngài kêu gọi chúng con phải tha thứ cho nhau luôn mãi.

Mỗi ngày nhiều biến cố xảy ra,

nhiều sự hiểu lầm to và nhỏ khiến chúng con phiền lòng,

mỗi ngày vang lên tiếng kêu mời hãy tha thứ cho nhau.

Nhưng, lạy Chúa, con lại không muốn tha thứ,

vì con thấy phải hạ mình để tha thứ.

Thế rồi con nhìn Chúa trên thập giá,

Chúa đã phải can đảm lắm và yêu mến nhiều

thì mới có thể thốt lên lời "Lạy Cha, xin tha cho chúng...".

Xin cho chúng con sức mạnh để tha thứ luôn mãi.

 

home Mục lục Lưu trữ