Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 53

Tổng truy cập: 1450452

NGÔI SAO

Ngôi sao

Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm đến Bé Giêsu, người Việt công giáo chúng ta thường treo lồng đèn ngôi sao mỗi độ Giáng Sinh về. Người công giáo Mỹ thì không làm lồng đèn, nhưng lại đính ngôi sao lên chóp cây Noel, như ánh sáng trên chóp đỉnh cây sự sống. Lồng đèn Việt, hay ngôi sao trên chóp cây thông Mỹ nhắc chúng ta nhớ đến Bé Giêsu là ánh sáng muôn dân: Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngươi. Và các vua hướng về ánh bình minh rạng ngời trên Ngươi.

Là Nhiệm Thể của Đức Kitô, Giáo Hội trở nên ánh sáng của muôn dân. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức Kitô, không phải chúng ta sống nữa, nhưng là chính Chúa Giêsu sống trong ta (Gl 2,20). Chúng ta có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho con em, học trò, bạn bè của chúng ta. Chúng ta không thể sung sướng, thỏa mãn, an vui ôm lấy ngôi sao, chỉ đính lên chóp cây thông trong nhà mình, chỉ nhà mình hưởng, nhưng phải là lồng đèn chiếu sáng, đem treo ngoài ngõ, cho người khác chung hưởng nguồn vui của ơn cứu sống Thiên Chúa đã ban qua Con của Người: Chính anh chị em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng ụp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người. Cũng vậy, ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh chị em làm, mà tôn vinh Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời (Mt 5,14-16). Chúng ta đã trở nên ngôi sao, và chúng ta phải sống cho xứng là ngôi sao lạ dẫn lối cho lương dân đến cùng Bé Giêsu: Con em, học sinh, bạn bè sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Chúa Kitô. Và họ sẽ hướng về ánh bình minh rạng ngời trên chúng ta.

Cũng như ngôi sao lạ trong chuyện ba vua, lắm khi ngôi sao của chúng ta cũng biến mất, tịt luôn. Là thân phận con người, ai mà không quên sót, phạm tội, hay ngã lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tin nhờ con người yêu đuối chúng ta. Chúng ta chỉ cần trông cậy vào ơn thánh, rồi gắng xuất đầu lộ diện trở lại, như ngôi sao lạ đã hiện ra lại cho các nhà hiền sĩ trong Tin Mừng: Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

Nếu bạn đã tạm ngưng làm tông đồ, làm giáo lý viên… thì nay xin mời bạn tái xuất giang hồ nhe. Hãy dấn thân trở lại. Hãy là ngôi sao lạ cho người chung quanh. Trông thấy bạn trở lại, họ sẽ mừng rỡ vô cùng. Bạn và tôi, chúng ta được mời gọi làm ngôi sao lạ, không phải để cho con em, học trò, bạn bè chiêm ngắm mình, rồi trầm trồ ca ngợi, nhưng là để dẫn con em, học sinh, bạn bè đến NHÀ HÀI NHI. Và một khi các nhà hiền sĩ đã vào NHÀ BÉ GIÊSU đã gặp Ngài, gặp Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, thì không còn ai nhắc đến ngôi sao nữa. Đời tông đồ của chúng ta cũng thế: phải quy về Kitô, và chỉ quy về Kitô. Ơn giáo dục của chúng ta chỉ là sứ mạng dẫn trẻ đến cùng Chúa Giêsu. Nếu chúng ta cứ đứng chình ình ra đó, thu hút trẻ đến với mình, thì cũng có thể chúng ta thành công trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng ta sẽ như những sao xẹt. Trái lại, nếu chúng ta biết lui vào quên lãng sau khi dẫn trẻ vào Nhà của Chúa Giêsu, thì chúng ta sẽ được Ngài biến thành sao lạ, cho sáng chói giữa muôn vì sao:Những ai giảng dạy đường công chính cho nhiều người sẽ muôn đời sáng chói như tinh sao. Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa là cùng đích, chỉ có Chúa là nguồn gốc mọi ơn tông đồ.

 

112. Ánh sao dẫn đường – Dã Quỳ

Cuộc sống của chúng ta bình thường hằng ngày, ít nhiều cũng có những cuộc hành trình. Có những lần ta lên đường để thực hiện một cuộc thăm viếng người thân, hay có những khi ta đi xa để lo một công việc… Nhưng cũng có những chuyến đi quan trọng để tìm kiếm chân lý hay tìm về với đời sống tâm linh… Hành trình nào cũng khiến chúng ta cần có sự chuẩn bị và đích đến rõ ràng. Nếu như chưa biết đường, ta rất cần tấm bản đồ hay sự hướng dẫn… Hôm nay, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hành trình của các nhà chiêm tinh, một hành trình dài, gian khó và có mục đích, đó là “Hành trình tìm đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu- Đấng Kitô mới sinh”.

Ba nhà chiêm tinh là những người ở phương Đông, rất xa, đã lên đường tìm kiếm Hài Nhi Giêsu. Nhờ ánh sao lạ dẫn lối, các ngài đã tìm đến được hang đá nơi Đức Maria, thánh Giuse và Hài Nhi Giêsu đang trú ngụ “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người.”( Mt 2, 11) Họ phủ phục trước con trẻ mà trong Người, họ nhận ra là Vua dân Do Thái, là Con Thiên Chúa mới sinh. Họ dâng tiến Người những lễ vật xứng hợp với lễ vật dâng lên cho Vua là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã yêu thương tỏ mình ra cho những tấm lòng chân thành và khao khát tìm Người.

Giờ đây, các nhà chiêm tinh phải trở về quê hương xứ sở của họ. Họ đã bàn tính, dự định quay trở lại báo cho Hêrôđê và cũng trở về bằng con đường cũ họ đã đi đến. Thế nhưng, trong giấc mơ họ được báo rằng sự sống của họ đã bị nguy hiểm từ khi gặp Hêrôđê-người mong họ trở lại. Và vì thế,”họ đã đi lối khác mà về xứ sở mình.”(Mt 2,12)

Như vậy, phải chăng không có cùng một con đường cho tất cả mọi người để khám phá ra sự hiện hữu của Chúa Kitô, và quyết định bước đi theo Người một cách chắc chắn? Cũng là con đường ấy, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến nơi, triều bái Đấng Kitô. Nhưng Hêrôđê và các thượng tế, các kinh sư dù am tường Kinh Thánh và biết rõ địa chỉ nơi Hài Nhi Giêsu sinh ra, thế mà họ đã không lên đường đến thờ lạy Người. Trái lại, vì lòng kiêu căng ích kỷ, họ tìm kiếm chỉ để sát hại Người. Ba nhà chiêm tinh khi đã gặp Hài Nhi Giêsu, họ thay đổi lối đi, rời bỏ những con đường quen thuộc để bước đi trên con đường mới và chắc hẳn là con đường không biết trước. Họ cần phải chú ý nhiều hơn, điều chỉnh lại phương cách của họ, suy nghĩ của họ, sự nhận định và cách xử thế của họ. Bây giờ họ khởi hành trong tâm tình mới, với trạng thái bình an vì có Ngôi Sao Sáng là chính Đức Kitô ở trong họ.

Con đường đưa tới hạnh phúc và dẫn đến Nước Trời được Chúa Giêsu loan báo không phải là con đường mà tất cả mọi người chọn đi theo một cách tự nhiên. Người đã công bố “Cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.”(Mt 7,14) Trên con đường này, chính Chúa là ánh sao chỉ đường dẫn lối và đồng hành cùng ta. Những người cùng đi bên cạnh ta là anh em, là con cùng một cha. Những người ấy cần được đón tiếp, không bị xét đoán, được giúp đỡ tận tình, được phục vụ và tha thứ. Những người ấy phải được yêu thương cho đến cùng vì dấu chỉ mà Chúa Giêsu nhắc nhớ ta là “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga13,35)

Mừng Lễ Chúa Hiển Linh, mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi hăng hái bước theo ánh sao Lời Chúa, ánh sao trong các biến cố cuộc đời và nhất là ánh sao Chúa Giêsu Kitô, đến thờ lạy Người, dâng lên Người trọn vẹn tâm hồn và thân xác của ta. Đồng thời nhờ ánh sáng của Chúa hướng dẫn và đổi mới, ta được trở nên ánh sao nhỏ: Ánh sao của  tình yêu thương, ánh sao của niềm hy vọng, ánh sao của lòng tin tưởng, của cảm thông và bác ái…sẽ là những ánh sao thiết thực nhất, chiếu sáng rõ để dẫn lối cho nhiều anh chị em xung quanh nhận ra sự hiện diện của Chúa và tôn thờ Người là Thiên Chúa thật. Đây cũng là sứ mệnh và trách nhiệm của chúng ta- trách nhiệm truyền giáo. Để một ngày, chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc ca lên rằng “Lạy Chúa, muôn dân nước sẽ thờ lạy Người.”

Lạy Chúa Kitô, xin chiếu dãi ánh sáng của Chúa vào tâm hồn chúng con, để chúng con đủ sức vững bước, vượt qua cõi đời tăm tối này và xin dẫn dắt tất cả nhân loại về với Chúa.Amen.

 

113. Mầu nhiệm ánh sáng

(Suy niệm của Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh)

1/ Lễ Hiển Linh là lễ Ánh Sáng. Mầu nhiệm Ánh Sáng của lễ Hiển Linh được tỏ hiện qua ngôi sao hướng dẫn các Đạo Sĩ từ Đông Phương đến thờ lạy Chúa Hài Nhi: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người”. (Mt 2.31)

Ngôi sao Đông Phương hướng dẫn các Đạo Sĩ đến thờ lạy Chúa, đó là biểu tượng nói lên Hài Nhi Giêsu chính là Anh Sáng đã đến thế gian, như lời Tiên tri Isaia trong bài đọc một đã tiên báo:”Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.”(Is 60.1) Nhưng Chúa Giêsu còn là Anh Sáng soi chiếu cho hết mọi dân tộc như lời cụ Simêon đã nói về hài nhi Giêsu “là Anh Sáng soi đường cho dân ngoaị, là vinh quang của Israel dân Người “.(Lc 12.32)

2/ Nhưng thử hỏi: Chúa Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian, vậy tất cả những người thời bấy giờ có tiếp nhận Ngài không? Ta chỉ thấy ngoài Mẹ Maria, Thánh Giuse, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ là những người đại diện cho dân tộc Israel và cho các dân trên mọi nước tiếp nhận Đức Giêsu. Còn hầu hết thì còn chưa tiếp nhận Ngài hay không nhìn nhận Chúa Cứu Thế là Anh Sáng. Vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:” Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng đón nhận”,(Ga 1. 11) vì ” người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc làm của họ xấu xa”. (Ga3.19) Một khi con người khước từ Đức Giêsu thì con người sẽ chìm đắm trong đêm tối. Vì Chúa nói:”Ta là ánh sáng trần gian, để bất cứ ai tin vào Ta, thì không ở lại trong bóng tối.”(Ga12.46)

3/ Khi con người đang sống trong một Thế giới đang vươn tới đỉnh cao của sự phát triển: phát triển trí tuệ; phát triển kinh tế; phát triển mối tương quan đại đồng giữa các quốc gia với nhau; phát triển những lối sống văn minh hiện đại….. Vậy nhìn vào thế giới hiện tại hôm nay, ai dám nghĩ rằng đó là một thế giới hoàn hảo? Chắc hẳn là không. Vì sau những vẻ hào nhoáng của Thế giới mau qua này, thì lại xuất hiện mảng bóng đêm tăm tối đang lan tràn vào thế giới như: sự thù hận và tìm cách hạ bệ lẫn nhau giữa người với người mỗi ngày thêm gia tăng; sự chia rẽ trong hôn nhân được báo động tới mức trầm trọng; nạn phá thai càng ngày càng nghiêm trọng và khủng khiếp; mại dâm ma tuý bị coi như đó là chuyện bình thường, tệ nạn này đang lan tràn đến những miền quê và nông thôn; đời sống công bằng và bác ái càng ngày càng mất dần trong cộng đoàn, xem đồng tiền, xem của cải hơn là phẩm giá của một con người. Nói chung, Thế giới hôm nay đang đạt tới tầm vóc của sự phát triển, thì đời sống tâm linh và nhân bản của rất nhiều người cũng bị rơi vào tình trạng đen tối và bị huỷ hoại. Một khi sự sống của con người đang bị chết dần bởi hành vi đen tối của họ, thì đó cũng là lúc vinh quang của Thiên Chúa đang bị mọi người chà đạp và loại trừ ra khỏi đời sống họ. Vì “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.(Irênê) Mà một khi đánh mất vinh quang của Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình, thì cuộc sống của con người sẽ là bộ xương khô, cuộc sống sẽ giả tạo. Sống giả tạo thì đời sống làm gì có ý nghiã, làm sao họ có thể đạt được mục đích cuối cùng của kiếp người.

4/ Vì thế, trong khung cảnh của ngày lễ Hiển Linh, lễ Anh Sáng, là người Công Giáo chúng ta hãy ý thức lại sứ mạng của mình. Sứ mạng của chúng ta là phải trở nên” Anh sánh cho trần gian”,(Mt 5.14) và Anh Sáng của chúng ta phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp của chúng ta làm, mà tôn vinh Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời.(x,Mt 5.16) Vậy việc làm tốt đẹp của chúng ta đó là việc gì? Trước hết, chúng ta “hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thịên”.(Mt 5.48) Sống hoàn thiện như Thiên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải trở nên sứ giả gieo rắc “nền văn minh tình thương”, “nền văn minh sự sống” trong môi trường chúng ta đang sống. Đây là lời mời gọi mang tính tổng quát, nhưng khi chúng ta khám phá và sống một trong những điều tổng quát này, thì đời sống chúng ta sẽ trở thành ngọn đèn soi sáng cho những ai đang lần bước trong đêm tối.

Xin Mẹ Maria là Ngôi Sao Mai, giúp cho đời sống chúng con cũng trở thành ánh sao sáng trong việc sống đạo hôm nay. Amen.

 

114. Tỏ mình

Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.

Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.

Mặc dầu tên gọi ba vua vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.

Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.

Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi: Tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước cửa. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói: “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.

Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc… thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.

Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.

 

115. Ngôi sao hy vọng

Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.

Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với Đức cha Peters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời”.

Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.

Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.

“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.

Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.

Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.

Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.

Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.

Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.

Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.

Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu, mới có thể mang lại”.

“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.

 

116. Món quà trao tặng

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?

Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.

Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.

Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.

Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.

Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.

Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.

Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.

Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.

 

117. Hành trình đức tin

Truyện kể trong một khu rừng kia có con cáo mù bị lạc đường. Đamg lúc lo âu sốt ruột, đột nhiên nghe tiếng bước xa xa đến gần, con cáo vội vàng hỏi trong vui sướng:

– Chào anh bạn, xin hỏi đường về nhà tôi đi bằng cách nào?

– Anh không thấy đường sao?

– Thấy thì còn hỏi anh làm gì.

Đối phương lần chần một chút rồi trả lời:

– Được rồi, anh đi với tôi. Con cáo đi sau lưng anh bạn ấy, bảo sao nghe vậy. Đi không bao lâu, hai đứa tập tễnh tiến vào ngõ cụt, đi mãi mà không ra khỏi đó, cuối cùng con cáo chịu không nổi phải thốt lên.

– Anh dẫn đường nhưng rốt cuộc anh dẫn như thế nào đấy chứ?

Hồi lâu, chỉ nghe đối phương biết lỗi nói: Xin lỗi bởi vì tôi cũng mù như anh vậy. (Hàn Lâm Tử)

Câu chuyện trên cho ta thấy con cáo mù rất muốn tìm đường về nhà, chắc chắn là nó rất lo lắng bối rối và sợ lắm. Khi gặp được người bạn dẫn đường thì cáo mừng lắm, nhưng cuối cùng thì cả hai đều bị đi vào ngõ cụt vì không có ai thấy ánh sáng thấy đường để mà đi. Trong cuốc sống rất có thể chúng ta đang là một con cáo mù, vì không biết mở mắt ra để đón lấy ánh sáng. Chúng ta không khác gì dân thành Giêrusalem xưa, trong cùng một cảnh ngộ mà các nhà đạo sĩ từ phương xa lại nhìn thấy ánh sáng để đi tìm Đấng Cứu Thế. Còn họ thì lo mãi mê yêu đời, sống cuộc sống hưởng thụ, vui chơi với tất cả tiện nghi, một cuộc sống không thiếu thốn sự gì. Ngày nay với nên khoa học tiên tiến, đưa con người đến ánh sáng hiện đại nhưng lại đẩy họ vào ánh sáng tội lỗi; biết những nơi ăn chơi thác loạn mà không bao giờ tìm tới nhà thờ, ham thích nhảy múa ca hát mà không bao giờ biết dùng lời kinh cầu nguyện dâng lên Chúa. Các đại gia dám bỏ ra hàng triệu dollar để ăn chơi trác táng, mà không dám bỏ ra 500 đồng để làm việc bác ái… rất nhiều, còn rất nhiều việc làm của chúng ta đang ở trong bóng tối, ngôi sao sáng của Chúa vẫn đang sẵn sàng chiếu tỏa ánh sáng, chỉ cần chúng ta đừng vô tình, đừng dửng dưng nữa mà hãy quyết tâm bằng cả thiện chí đứng lên và bước ra khỏi đời sống tầm thường đó, cùng đi với các đạo sĩ theo ánh sao lạ dẫn đường tìm Đấng Cứu Thế.

Con cáo mù không về nhà được vì người bạn dẫn đường cũng bị mù. Nhiệm vụ truyền giáo là công việc của tất cả những người Kitô hữu, đó là dẫn mọi người “bị mù” tìm gặp ánh sáng Chúa Kitô. Con đường truyền giáo hoàn toàn không dễ như ta tưởng, nếu không khéo ta cũng giống như người bạn của con cáo mù, không những đưa bạn về không được mà cả mình cũng không thể về. Điều cần thiết là mỗi người chúng ta phải là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và trong tâm hồn những người thiện chí vì như Chúa Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng trần gian” ( Mt 5, 14). Khi nghe câu nói đó, tôi nhận ra ngay một điều là Thiên Chúa muốn gởi đến cho chúng ta một thông điệp truyền giáo và ngay lúc này chúng ta phải là muối là ánh sáng.

Ánh sáng Tin Mừng đã được rao giảng hơn 2000 năm, nhưng cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la bát ngát. Đặc biệt là trong cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam , còn rất nhiều người đang mò mẫm tìm đường đi. Do đó, chúng ta phải là ngôi sao dẫn đường cho anh chị em lương dân, ở giữa họ với một con tim cởi mở và yêu thương. Nhất là qua đời sống hàng ngày họ sẽ tìm gặp được Hài Nhi trong hành động của chúng ta.

Chúng ta cũng rất dễ rơi vào thái độ dửng dưng với lời kêu gọi của Giáo hội, cứ nghĩ nếu ta không làm thì vẫn còn người khác làm. Nếu ai cũng nghĩ như ta thì làm gì có các nhà truyền giáo, làm gì có hạt giống Tin Mừng nào được gieo ở Việt Nam và chúng ta vẫn là con cáo mù vẫn chưa tìm được đường về nhà. Nhưng ngược lại, nếu tất cả các tín hữu Việt Nam nghe theo lời mời gọi truyền giáo, và mau mắn đáp trả thì Hội Thánh Chúa đã có những bước tiến rất xa. Vậy ta hãy ý thức mình vẫn là một hạt cát quan trọng trong sa mạc truyền giáo của Chúa.

Lạy Chúa, Xin giúp con trở thành một ánh sao soi đường, dẫn lối cho những người xung quanh trên bước đường tìm gặp Chúa.

 

118. Tìm kiếm

Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết định dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và một viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar, Melchior, và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường đến đó, ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và săn sóc người đó.

Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.

Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1 tuổi. Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân lính đến gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân lính không vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy nhiên, Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim cương duy nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.

Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của Đức Giêsu.

Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái đang chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ lớn, và cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa cho quân lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp vị Vua với hai bàn tay trắng.

Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất rung chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái nhà bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ gặp gỡ được vị Vua.

Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông. Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.

Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự tìm kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của lòng tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ hành động và sống một cách khác hẳn.

 

119. Lễ Hiển Linh – Lm. Munachi Ezeogu

Trong một buổi sáng lạnh lẽo, ba người làm nghề hái dừa đang sưởi ấm quanh đống lửa. Khi ấy, hai người trong bọn họ tranh luận với nhau để so sánh xem đạo của ai là đạo thật. Okoro, người cao tuổi nhất trong bọn chỉ ngồi yên lặng nghe hai người kia tranh luận. Đột nhiên, hai người kia quay sang nói với Okoro rằng: “Quyết định dùm chúng tôi, Okoro. Tôn giáo nào đúng?” Okoro vuốt râu, ngẫm nghĩ và nói: “Các anh nên biết rằng, có ba lối để đi từ đây lên xưởng ép dầu. Anh có thể đi thẳng lên đồi, đấy là lối ngắn nhất nhưng phải leo dốc cao nhất. Anh có thể đi quanh bên phải của ngọn đồi, lối ấy không xa nhưng đường gập ghềnh và nhiều ổ gà lồi lõm. Hoặc là anh có thể đi quanh bên trái của ngọn đồi, đấy là đường xa nhất nhưng lại là lối đi dễ nhất”. Okoro nói thêm rằng: “Các anh nên biết rằng, khi các anh đến nơi, người chủ không hỏi các anh đến bằng cách nào. Ông ta chỉ hỏi hoa quả các anh mang đến có tươi tốt không?”

Trong những câu chuyện kể về Đức Giêsu sinh ra, có hai nhóm người đến kính viếng hài nhi mới sinh, đó là mục đồng và ba vua. Tại sao giáo hội không có lễ kính các mục đồng để tưởng nhớ việc họ đã kính viếng Chúa Hài Đồng, nhưng hôm nay giáo hội lại đặc biệt cử hành lễ Hiển Linh để kính nhớ ngày ba vua kính viếng Hài Nhi Giêsu? Bởi vì sự viếng thăm của ba vua là một bất ngờ. Các mục đồng biết được việc Chúa sinh ra là do các thiên thần trực tiếp hiện đến trong đêm vắng để báo tin. Đấy là sự bày tỏ tự nhiên và hầu hết mọi người trong chúng ta đều lãnh hội được. Về phần ba vua thì khác, họ biết tin Chúa sinh ra là do họ quan sát một ánh sao. Ngôi sao chẳng nói với họ điều gì. Họ đã phải tự tìm hiểu dấu hiệu tự nhiên của ánh sao để biết ý nghĩa và nơi mà ánh sao đã dẫn đưa họ đến. Nếu chúng ta nhớ rằng, ba vua là những người thờ lạy thiên nhiên, sùng bái tạo vật qua việc quan sát sự di chuyển của tinh tú và các thiên thể Chúa tạo dựng, thì chúng ta sẽ thấy rằng việc ba vua chiêm bái Hài Nhi Giêsu là một thách đố cho niềm tin của chúng ta.

Như những người hái dừa, người theo đạo thường tin rằng chỉ có truyền thống tôn giáo của mình mới đúng là đường đến với Chúa. Đây là điều chúng ta thường nghe khi đề cập đến lời của Đức Giêsu: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gioan 14:6). Chúng ta vội vã kết luận rằng con đường của Chúa tương đương với truyền thống tôn giáo của mình. Nhưng sấm ngôn của Chúa cảnh cáo chúng ta về những diễn giải hạn hẹp ấy rằng: “Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Isaia 55:8); đấy là lý do làm cho chúng ta ngỡ ngàng về việc ba vua kính viếng Chuá Hài Đồng, và là câu chuyện lạ thường để cho chúng ta biết rằng Chúa không giới hạn bất kỳ một truyền thống tôn giáo nào.

Nên để ý xem có bao nhiêu truyền thống tôn giáo khác nhau tìm biết Con Thiên Chúa giáng trần. Bọn mục đồng, bị xem là hạng người dơ bẩn không đáng được vào Đền Thờ cầu nguyện nếu không trải qua thời kỳ thanh tẩy; họ đã tìm biết Chúa qua các thiên thần trực tiếp hiện ra báo tin. Ba vua đã tìm biết Chúa bằng sự quan sát ánh sao. Và các kinh sư của vua Hêrôđê thì tìm biết Chúa qua sách ngôn sứ. Thị ứng, ánh sao, sách thánh… Nhiều cách khác nhau nhưng đã đưa đến một chân lý. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là bất cứ truyền thống tôn giáo nào cũng tốt lành như nhau. Thánh Matthêu cho chúng ta biết rằng khi ánh sao dẫn lối đến Giêrusalem thì tắt, và ba vua đã phải nhờ các kinh sư chỉ lối đến Bê-Lem. Tuy rằng đã có ánh sáng tự nhiên của ánh sao, ba vua vẫn cần ánh sáng siêu nhiên của sách thánh, để cuối cùng tìm đến được với Chúa.

Vậy câu hỏi chính của câu chuyện là: “Ai đã thật sự tìm biết Chúa Giêsu?” Vua Hêrôđê và các kinh sư, người có ánh sáng siêu nhiên là kinh thánh nhưng lại không tìm thấy Chúa, nhưng ba vua là những người đi theo ánh sáng tự nhiên của ánh sao đã có thể tìm ra Chúa. Tại sao? Vì giới cầm quyền Do-Thái có được chân lý tỏ ra trong sách thánh nhưng họ đã không tin theo. Họ đã không bước đi trong ánh sáng của thánh kinh. Còn ba vua thì khác, họ chỉ biết ánh sao và bước theo ánh sao dẫn lối. Việc có được chân lý không quan trọng cho bằng làm thế nào để chuẩn bị bước đi trong ánh sáng của chân lý ấy mà chúng ta đang nhận biết. Thà rằng chúng ta có ánh sao mờ dẫn lối, còn hơn là có được ánh sáng siêu nhiên chói chan của thánh kinh mà chúng ta lại sao lãng, hững hờ.

Là Kitô hữu, chúng ta hằng tin rằng chính tôn giáo cho ta có con đường công chính. Nhưng điều ấy có đem lại bổ ích gì nếu chúng ta không bước đi theo con đường công chính ấy. Những người sùng bái thiên nhiên hoặc kẻ không biết Chúa, họ chỉ biết thành tâm quyết chí theo ánh sáng mờ ảo của thiên nhiên; họ có thể đến với Chúa Giêsu trước những Kitô hữu hằng tán tụng Thiên Chúa, nhưng không bước đi trong đức tin. Đấy thật là một thách đố mà chúng ta cần đối diện trong câu chuyện ba vua, những người đã tìm và đã gặp được Chúa.

 

120. Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR)

Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo, một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.

Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau đớn thất bại và bệnh tật…

Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình của Người.

Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng, nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không. Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô. Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.

Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá nào.

Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 

121. Ngôi Sao phương đông

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

“Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem miền Giuđê thời Vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).

Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Họ đã tìm ra Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ hang lừa. Đó chính là vị Cứu tinh mà Israel từ lâu mong đợi. Vị Cứu tinh chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo “Phần ngươi, hỡi Bêlem Epratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel” (Mk 5,1). Các nhà chiêm tinh vui mừng tôn kính dâng lễ vật bái thờ Người.

Ngôi sao xuất hiện ở phương Đông được ông Bilơam tiên báo: “Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24,17). Các nhà chiêm tinh đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của Bilơam. Ngôi sao họ nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền. Ngôi sao nhắc lại lời sấm chúc phúc của Bilơam thuở xưa nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.

Câu chuyện lời chúc phúc của Bilơam rất ly kỳ được kể trong Sách Dân Số chương 22-24.

Trên đường tiến về miền đất hứa, dân của Môsê đã giao tranh với nhiều lân bang. Đoàn dân nhỏ bé ấy lại có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Các nước lân bang đều run sợ. Người Môáp khiếp sợ. Vua người Môáp sai sứ đến với Bilơam thuộc đất dân Ammon để xin ông này nguyền rủa dân Israel “may ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta”. Các sứ giả lên đường tìm gặp Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng hôm sau, Bilơam nói cùng các sứ giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ hai, dưới tác động của Thiên Chúa “cứ chỗi dậy, đi với chúng, nhưng chỉ được làm điều Ta bảo ngươi”, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp. Bilơam đến miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con lừa và bắt nó phải đi trên đường. Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường, con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị cọ sát trầy xước. Tức giận ông lại đánh con lừa cách thậm tệ. Nhưng đến khi đến đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông nổi nóng dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con lừa lên tiếng: “Tôi đã làm gì ông mà ông đã đánh tôi đến ba lần”. Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc. Trong bài diễn văn chúc phúc đó, Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa:”Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17).

Một ngôi sao lạ ở phương Đông xuất hiện trên bầu trời đầy sao.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ. Họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm. Con đường đi của họ dẫn qua sa mạc, bụi bặm, nóng bức và giá lạnh. Đó là một con đường đầy chông gai khó khăn, vất vả và nguy hiểm. Họ luôn nhìn lên ngôi sao dẫn đường và tiến bước.

Khi đến thủ đô Giêrusalem, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng. Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Vua phái các vị ấy đi và dặn “xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi để tôi cùng đến bái lạy Người”. Họ ra đi “Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại”. Họ mừng rỡ vô cùng. Họ gặp Hài Nhi, liền sấp mình bái lạy, với lòng thành họ dâng tiến lễ vật vàng, nhũ hương và mộc dược.

Câu chuyện Phúc âm tuyệt đẹp. Ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng Cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.

Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị Cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân Do thái lại thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế, các kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem. Còn Hêrôđê thì hốt hoảng bối rối, sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trừ với mưu mô cạm bẫy.

Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước, bị tẩy chay, bị giết chết. Chỉ có các nhà chiêm tinh hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng Cứu Tinh. Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.

Phụng vụ đọc câu chuyện tuyệt đẹp này trong ngày Lễ Hiển Linh “Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại”. Các nhà chiêm tinh là dân ngoại, họ đại diện cho mọi dân tộc, họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ. Sau này Chúa Giêsu đã xác định: từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaac, Giacop trong nước trời.

Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh Kinh, họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê, nhưng chỉ là lý thuyết. Họ tìm Đấng Cứu Thế trong sách vở nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, nếu không lên đường, không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại, những tâm hồn đơn sơ, khó nghèo như các mục đồng, hay cởi mở và khao khát chân lý như các nhà chiêm tinh lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm, bước đi theo các dấu chỉ.

Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất, qua từng biến cố lịch sử, qua Lời Người trong Thánh Kinh, qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội, qua các bí tích. Muốn gặp được Thiên Chúa, nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm. Cho dầu có những thử thách, cam go, những hiểm nguy cạm bẫy, vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.

Hôm nay, không có ngôi sao đông phương nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa. Chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.”. Bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ trở nên ngôi sao dẫn đường cho nhiều người tìm đến Thiên Chúa. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).

Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao? Thánh Gioan giải thích: “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Người muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của người Kitô hữu làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy.

Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực. Ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì đủ các loại sao! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao”!

Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng ( Lc 17,10). Thời nay, Mẹ Têrêxa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời.

Ngôi sao đông phương dẫn các nhà chiêm tinh đến gặp Chúa Hài Nhi và tiến dâng lệ vật. Chúng ta nhờ ánh sáng Lời Chúa soi dẫn trên hành trình cuộc đời. Lời Chúa là ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp chúng sáng lên niềm tin. Chính Chúa Giêsu là ngôi sao mai dẫn chúng ta đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến. Người Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.

 

122. Khiêm nhường để nhận biết Chúa.

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)

Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.

Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.

Khi các Mục Đồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.

Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.

Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ

Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.

Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.

Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc (Đức Cha Bùi Tuần).

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri… nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.

Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.

Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Bước vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.

Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.

 

123. Món quà của các Đạo Sĩ – Lm Mark Link

Những tặng phẩm là nhũ hương, mộc dược và vàng ám chỉ thần tính, nhân tính và vương quyền của Đức Giêsu.

William Sydney Porter, một nhà văn Mỹ chuyên viết chuyện ngắn sống vào giữa thế kỷ này. Ông rất nổi tiếng qua bút hiệu O. Henry của ông. Ông được độc giả nhớ đặc biệt là do ông luôn luôn kết thúc các câu chuyện của ông bằng cách gây ngạc nhiên hứng thú. Một trong những câu chuyện nổi tiếng của ông lấy tựa đề từ ý nghĩa của đại lễ hôm nay. Câu chuyện đó nhan đề “Món quà của vị đạo sĩ. Nói về một cặp vợ chồng trẻ tên Jim và Dela. Họ nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau.

Giáng sinh sắp tới, Dela tự hỏi phải làm quà Giáng Sinh cho Jim bằng món gì đây. Nàng muốn tặng chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc của nàng và đem bán để mua cho Jim sợi giây đồng hồ. Hôm áp lễ giáng sinh, nàng từ phố về, trên tay mang một chiếc hộp rất đẹp, trong đó có sợi giây đeo đồng hồ làm bằng vàng, mà nàng vừa đổi bằng mái tóc của nàng. Bỗng nhiên, Dela chợt cảm thấy lo lắng nàng tự hỏi Jim rất yêu quí mái tóc dài của nàng, và nàng tự hỏi không hiểu chàng có buồn phiền vì nàng cắt và bán nó đi không. Chỉ có thời gian mới trả lời nàng thôi.

Dela leo nốt đợt cầu thang cuối cùng dẫn đến căn hộ nhỏ của hai đứa nàng. Nàng mở cửa và thấy Jim đang đợi nàng. Trong tay chàng có một cái hộp gói lại thật đẹp đựng món quà chàng mua cho nàng. Khi Jim nhìn thấy mái tóc ngắn của Dela, chàng bắt đầu rươm rướm nước mắt. Nhưng chàng không nói gì cả. Chàng cố cầm những giọt lệ của mình và tặng nàng chiếc hộp. Khi Dela mở hộp ra, nàng không thể tin vào mắt mình được. Trong hộp có một bộ lược rất đẹp để nàng chải mái tóc thướt tha của nàng. Và khi Jim mở món quà của mình ra, chàng cũng khó mà tin được đôi mắt của chàng. Trong hộp có một sợi giây đồng hồ rất đẹp dùng cho chiếc đồng hồ bằng vàng của chàng. Chỉ lúc đó Dela mới nhận ra rằng Jim đã bán chiếc đồng hồ bằng vàng để mua cho nàng những cái lược để nàng chải tóc.

Có những người nghĩ rằng kết thúc của câu chuyện tuy gây ngạc nhiên nhưng bi thảm quá. Còn đa số cho rằng kết thúc như thế rất đẹp. điều làm cho kết thúc đó đẹp không phải là những món quà mà là tình yêu được những món quà đó biểu tượng và nói lên.

***

Câu chuyện đó dẫn chúng ta trở về với việc mừng kính lễ Hiển Linh hôm nay, cũng gọi là Lễ Ba Vua (tức 3 nhà đạo sĩ). Tôi không hiểu rõ tại sao O. Henry lại đề tựa cho câu chuyện ấy là “Món quà của nhà Đạo Sĩ”. Có lẽ vì những món quà của các đạo sĩ cũng đầy những ý nghĩa thâm sâu như thế. Chúng ta hãy suy nghĩ về ý nghĩa của những món quà ấy.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng mộc dược. Thời xưa, người ta dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi đem đi mai táng. Chẳng hạn, vào sáng sớm ngày đầu tuần, các phụ nữa đã đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì mộc dược có tương quan đến sự chết, nên nó tượng trưng sự yếu đuối, dễ bị thương tổn của con người.

Vì thế món quà bằng mộc dược tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Nó nói với chúng ta rằng Đức Giêsu cũng có những yếu đuối, mỏng giòn, dễ bị thương tổn vì ngài là người. Cũng như chúng ta, Ngài cảm nghiệm được toàn bộ mọi thứ cảm xúc của con người, vui, buồn, sợ hãi, thất vọng, cô đơn.,…Ngài cũng không khác gì chúng ta, ngoại trừ tội lỗi mà thôi.

Bây giờ chúng ta nói về nhũ hương. Ngày xưa, người ta dùng nhũ hương trong việc phụng tự tôn giáo hương thơm và làn khói bay lên trời cao, khiến họ liên tưởng đến các vị thần linh và thần tính của các ngài. Vì thế, món quà bằng nhũ hương tượng trưng cho Thượng Đế tính của Đức Giêsu. Thánh Phaolô đã nói về Thượng Đế tính của Ngài trong thư gởi cho cộng đoàn giáo dân ở Philipphê: “Đức Giêsu vốn bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài…. Đã trở nên giống người phàm, và chấp nhận vâng phục mọi đàng cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài lên địa vị cao cả nhất trên trời” (Pl 2,6-9)

Cuối cùng chúng ta nói tới vàng. Ngày xưa, người ta coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng tượng trưng cho đức vua. Nhà vua là vị thủ lãnh ở bên trên tất cả. Ông vua lý tưởng thì lãnh đạo bằng tình thương. Đối với dân chúng, ông bảo đảm là mình có chính nghĩa. Ông làm cho người khác ủng hộ. cộng tác với ông nhờ chính nghĩa của mình. Đức Giêsu chính là một vị vua như thế. Ngài lãnh đạo bằng tình thương. Ngài bảo đảm có chính nghĩa khi thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian. Và Ngài thôi thúc mọi người cộng tác với Ngài trong công việc ấy. Điều đó dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của ngày lễ Hiển Linh hôm nay.

Hiện nay trong nhiều quốc gia, lễ Hiển Linh được mừng long trọng hơn lễ Giáng sinh. Sở dĩ như thế là vì lễ này mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra với thế giới ngoại giáo. Cũng y như lễ Giáng Sinh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với những người Do Thái, thì lễ Hiển Linh mừng việc Đức Giêsu tự tỏ mình ra đặc biệt với dân ngoại. Vì thế, lễ này là “Lễ của Chư Dân”.

Những gì được Đức Giêsu khởi sự trong thời của Ngài thì cũng phải được chúng ta tiếp tục trong thời của chúng ta. Nếu Đức Giêsu phải được rao giảng cho mọi dân mọi nước, thì việc rao giảng đó phải được thực hiện bằng chính những cố gắng của chúng ta. Chúng ta phải loan báo cho mọi dân tộc trên thế giới biết “Tin Mừng” này là Đức Giêsu Con Thiên Chúa, đã mặc lấy xác thịt và sống giữa chúng ta chúng ta phải nói cho họ biết rằng Đức Giêsu đã đi vào lịch sử không phải chỉ để cứu độ người Do Thái vào thời của Ngài, mà cứu độ tất cả mọi dân tộc, mọi quốc gia trong mọi thời đại nữa.

Đức Giêsu đến để lập Nước Trời tại trần gian, để lập nên một thế giới mới, thế giới mà trong đó không còn đau khổ, buồn phiền nữa, thế giới mà trong đó những người nghèo khổ sẽ tìm được những người bạn chân tình, yêu thương, nơi mà trước đó họ chỉ tìm thấy những người xa lạ lạnh nhạt. đó chính là “Tin Mừng” mà chúng ta phải loan báo cho thế giới. Đó là sứ điệp thực tiễn của lễ Hiển Linh hôm nay. Đó là một sứ điệp kêu gọi mỗi người chúng ta phải hành động.

Tôi xin kết thúc bài giảng hôm nay bằng bài thơ của một thi sĩ vô danh. Bài thơ này tóm tắt sứ điệp của lễ Hiển Linh hôm nay bằng một hình ảnh rất sống động.

“Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt,

khi ngôi sao trên bầu trời đã biến mất,

khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà,

khi các mục đồng cùng đàn súc vật đã trở về,

thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu

“Để tìm lại những gì đã mất,

để hàn gắn những gì đã gẫy đổ,

để người đói được ăn no,

để tù nhân được giải phóng,

để các nước xây dựng lại,

để đem lại hoà bình cho mọi người,

và để hoà nhạc bằng trái tim”.

 

124. Món quà của Artaban – Lm. Mark Link, SJ

Chủ đề: “Món quà to tát nhất dâng lên cho Vua các vua

chính là cuộc sống đầy tình yêu thành tín và phụng sự tha nhân”

Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Wise Man (Một nhà đạo sĩ khác), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.

Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:

“Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà”.

Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình, thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.

Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: “Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta”.

Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: “Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta”.

Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: “Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta”.

Như thế, Lễ Ba Vua nhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện “Một nhà đạo sĩ khác” (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: “Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25: 34-35-40).

Chúng ta hãy kết thúc với lời “nguyện xin lòng quảng đại” của thánh Ignatio de Loyola:

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen”.

 

home Mục lục Lưu trữ