Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1441795

MÙA CHAY TRỜ VỀ

MÙA CHAY TRỜ VỀ- Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC

Thưa anh chị em…..,

Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta bước vào hành trình “chiến đấu thiêng liêng”, bằng việc canh tân cải thiện đời sống, để chúng ta cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa yêu thương. Đây là thời gian hết sức đặc biệt, Thiên Chúa dang rộng đôi tay chờ đón chúng ta trở về, trở về để được Chúa yêu thương, trở về để được Ngài tha thứ. Cuộc hành trình nào ra đi cũng có ngày trở về:

Người Do thái, sau bao nhiêu năm đi lưu đầy nơi đất khách quê người bên Aicập, rồi Chúa cũng dẫn đưa họ trở về miền đất Hứa.

Chúa Giêsu từ trời cao xuống đất thấp để cứu độ nhân loại, rồi sau khi hoàn tất chương trình cứu độ Ngài cũng trở về cùng Thiên Chúa Cha.

Người con hoang đàng sau khi bỏ nhà ra đi ăn chơi phung phí hết tiền của rồi cũng trở về nhà cha mình.

Nếu như ngày tết bao người đi xa cũng trở về với gia đình với ông bà cha mẹ, để bày tỏ lòng hiếu thảo và biết ơn, thì Mùa chay cũng là mùa mời gọi chúng ta trở về với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa không mong đợi quà tết, không mong lời chúc tết của con người, nhưng Ngài mong đợi tấm lòng sám hối chân thành của một người con thưa lên với Chúa: “Lạy Cha, tin lòng Cha bao la, luôn thứ tha vạn lần ngã sa. Lạy Cha! Tin lòng Cha thương con, con chỉ mong gặp lại tình thương”.

Bởi lẽ, không có cha mẹ nào bỏ quên con mình, thì Thiên Chúa Ngài cũng không thể nào bỏ quên chúng ta. Khi chúng ta thật lòng sám hối trở về với Ngài.

Nếu như ngày tết là ngày đoàn tụ gia đình, anh chị em gặp gỡ nhau, dễ dàng bỏ qua cho nhau những hiểu lầm trong năm cũ. Đồng thời ta sống tình gia đình, cùng chia vui với nhau một bữa cơm ngày tết, cùng dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp, và nhắc lại những kỷ niệm đẹp.

Tương tự như thế, Mùa chay là dịp thuận tiện để chúng ta quay về làm hòa với Chúa, nhưng còn là cơ hội để chúng ta gặp gỡ làm hòa với anh chị em mình nữa.

Trong năm qua, do bận công việc, do thái độ sống dửng dưng vô cảm, mà vô tình chúng ta quên đi sự hiện diện, hay làm tổn thương tình nghĩa anh chị em mình, thì Mùa chay là dịp để chúng ta nói lời xin lỗi nhau, bỏ qua những gì không hay không vui cho nhau.

Nếu như cành mai, cành đào chịu cắt tỉa đi những cành, những lá trong đau đớn, để kết nụ đơm hoa đẹp cho đất trời thế nào, thì sống tinh thần sám hối của Mùa chay, chúng ta cũng phải can đảm cắt tỉa đi những cành, những lá, đó là những tính hư tật xấu, để sau những ngày Mùa chay, tâm hồn chúng ta bung nở ra những nụ hoa bác ái, yêu thương, những lộc tốt lành, đạo đức, lúc bấy giờ tâm hồn chúng ta đón chào mùa xuân mới, tâm hồn mới mà ơn Chúa Phục sinh sẽ đem lại cho chúng ta.

Tin mừng hôm nay thánh sử Máccô kể lại, trước khi bước vào đời sống công khai rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đi vào trong hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Trong thời gian này, ma quỷ hiện ra cám dỗ, nhưng Chúa Giêsu đã cương quyết chống lại ma quỷ, Ngài dứt khoát đứng về phía Thiên Chúa.

 Anh chị em thân mến,

Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu năm xưa cũng là ba cơn cám dỗ mà ngày nay chúng ta thường mắc phải. Là người tín hữu, chúng ta có thể chiến thắng mưu chước quỉ dữ, nếu chúng ta biết sống theo gương chiến đấu của Chúa Giêsu, là chọn Chúa ưu tiên trong cuộc sống.

 Trong Mùa Chay thánh, chúng ta không thể đi vào hoang địa như Chúa Giêsu năm xưa, nhưng chúng ta cần dành nhiều thời giờ trong cầu nguyện, và giảm bớt những thú vui không lành mạnh, giảm bớt những chi tiêu không cần thiết, giảm bớt sáng sỉn chiều say, giảm bớt nói hành nói xấu người khác… thay vào đó nói những lời xây dựng yêu thương, rồi dành thời giờ đi nghe tĩnh tâm, dọn mình xưng tội và đi thăm viếng những người bệnh tật đau yếu. Đó là những tâm tình căn bản sống tinh thần Mùa chay.

Cầu chúc quý ông bà anh chị em tràn đầy phúc lành của Chúa trong năm mới, đồng thời tích cực sống tinh thần Mùa chay thánh với lòng sám hối chân thành, quyết tâm làm mới lại mối tương quan với Chúa và với anh chị em mình. Amen.

 CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- B

ĐỨC GIÊSU TRONG HOANG ĐỊA- Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.

Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).

Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.

Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.

Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.

Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.

Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.

Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…

Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).

Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.

Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.

Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.

Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.

Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.

“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

 CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- B

ĐỨC GIÊSU CHIA SẺ THÂN PHẬN CON NGƯỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ

Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.

*I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu

Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?

Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?

Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.

Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác…

Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.

Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.

Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. “Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor.12, 8-9).

Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: “cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt.7,7).

Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.

*II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới

Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.

Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.

Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.

Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

*III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa

Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?

Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.

Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.

Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.

Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.

Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, “Ngài là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia “chức thầy” của Đức Giêsu.

Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY- B

HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY- Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Cuộc sống muôn mặt. Có buồn. Có vui. Niềm vui không thiếu trong cuộc đời. Nhưng niềm vui thường chỉ đến với những người giàu có, thông thái, quyền thế. Hôm nay, Đức Giêsu công bố Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Nước Trời đã tìm thấy trụ sở nơi những tâm hồn đơn sơ, tầm thường.Vì chính Đức Giêsu cũng phát xuất từ hoàn cảnh khó nghèo đó.

Hơn nữa qua cơn thử thách trong hoang địa, Đức Giêsu mới cảm thấy thấm thía cơn đói khát của nhân loại trên đường tìm về hạnh phúc đích thực. Hôm nay hạnh phúc đã xuất hiện trong tầm tay, vì “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15). Chúng ta có nhận ra những dấu chỉ và thời điểm Thiên Chúa đến viếng thăm hay không?

Cuộc đọ sức

Đức Giêsu được Thánh Linh dẫn vào hoang địa để đương đầu với đối thủ lợi hại nhất của Thiên Chúa là Xatan. Tại đây sẽ xác định cuộc thắng bại, quyết định tất cả sứ mệnh cao cả của Người. Thánh Marcô thuật lại rất vắn tắt, nhưng cũng cho thấy sau khi “chịu Xatan cám dỗ”, Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1:13). Sau cơn cám dỗ rất lớn lao đó, Thiên Chúa đã trả lại cho Đức Giêsu cảnh hòa hợp giữa đất trời. Cảnh hòa bình đó chỉ kiếm thấy trong thời Mêsia (x. Is 11:6-9). Cuộc chiến thắng Xatan vô cùng cần thiết để chấm dứt cảnh lộng hành của đầu mục thế gian và mở ra một thời đại mới chan chứa tình người và hồng ân cứu độ. Đức Giêsu sẽ là thủ lãnh qui tụ muôn dân trong cảnh hòa bình và hạnh phúc.

Để rao giảng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã phải chuẩn bị bằng một cuộc chiến thắng những ồn ào của bao cơn cám dỗ. Người đã lên tiếng giữa một cảnh thanh bình, giữa cảnh hòa hợp và tương liên giữa mọi thụ tạo, giữa thiên thần và các muông thú (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B 1999:5]). Con người cảm thấy liên đới với muôn thụ tạo trong ơn cứu độ do Thiên Chúa đã giao ước. “Con người không còn là một kẻ ngoại cuộc hay kẻ thống trị thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng mình là một thành phần của chính thiên nhiên. Vũ trụ hôm nay không phải là một miền đất lưu đầy cũng không phải chỉ là nguồn khai thác của con người. Nhưng vũ trụ cũng được Thiên Chúa yêu thương như chúng ta. Tất cả đều lệ thuộc vào luật của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta, luật liên kết tất cả “các thụ tạo có xác” vào một giao ước” (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B 1999:7]). Quả thế, “muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày cũng sẽ được giải thoát, cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8:19-21).

Sau khi chiến thắng Xatan, Đức Giêsu cảm thấy có một sức mạnh phi thường. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Khi nghe tin “ông Gioan bị nộp” vì đã làm chứng cho công lý, “Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa” (Mc 1:14), một Tin Mừng “cống hiến cho nhân loại sự tự do, công chính và niềm hi vọng” (Life Application Study Bible 1991:1727). Nghĩa là Người vẫn không sợ xiềng xích gông cùm, nhưng can đảm rao giảng “Triều Đại Thiên Chúa” (Mc 1:15), một Triều Đại được xây dựng trên lẽ công chính, trái tai bạo chúa Hêrôđê và đẩy ông Gioan vào chỗ chết. Cũng chính vì lẽ công chính đó, Đức Giêsu đã bị bách hại. Nhưng cũng chính nhờ đó, uy quyền Thiên Chúa bao trùm toàn thể vũ tru,# và nhân loại mới biết thời đại cánh chung đã đến.

Đã đến phút chót, mọi lời Thiên Chúa hứa phải được thực hiện. Chính nơi con người Đức Giêsu những lời hứa đó sẽ hiện thực từng nét. Cũng chính nơi Người, người ta nhận biết và cảm nghiệm “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1:15). Muốn thừa hưởng lời hứa và sống trong “Triều Đại Thiên Chúa”, “anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Đó là điều kiện duy nhất cho những ai muốn sống với niềm vui Nước Trời. Không thay đổi não trạng, không chuyển hướng sống, không thể cảm thấy niềm vui của những người “quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới” (Kinh Thánh Tân Ước 1995:184), một cuộc sống được biến đổi toàn diện nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

Khi sám hối, chúng ta trải qua một cuộc lột xác, giống như “thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần khí Người đã được phục sinh” (1 Pr 3:18). Chính Thần Khí sẽ tạo nên cả hai cuộc biến đổi kỳ diệu đó. Thần Khí sẽ gìm toàn thân chúng ta vào máu của Đức Giêsu và sẽ nâng chúng ta lên “cùng Thiên Chúa” (1 Pr 3:18), dưới sự lãnh đạo của Đức Giêsu Kitô. Nhờ cuộc toàn thắng đó, Đức Giêsu đã giựt thoát nhân loại khỏi nanh vuốt ma quỉ, tội lỗi và sự chết. Nhờ đó, Đức Giêsu trở thành hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu vô điều kiện đối với các thụ tạo của Người.

“Sám hối là quay hướng về, đáp trả lại tiếng mời gọi” (Fuellenbach 1995:590) của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tạo mọi điều kiện mang lại cho chúng ta niềm vui, nhất là niềm vui của người con hoang đàng trong ngày vui họp mặt với cha già khả kính. Bởi đó “sám hối là một dịp vui, chứ không phải một việc phán xét hay lên án” (Fuellenbach 1995:590). Vui vì “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Vui vì mọi người sẽ đón nhận hồng ân cứu độ và được qui tụ về nhà Cha để cùng nhận ra nhau là anh em.

Gặp gỡ 

Niềm vui đó chỉ tìm nơi Đức Giêsu Kitô. Lý do vì nơi Người, chúng ta tìm được tất cả “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17). Cuộc gặp gỡ Người không dừng lại nơi lý thuyết hay các nghi lễ, nhưng tận thâm tâm, bản ngã con người. Chỉ có thể cảm nghiệm, hiểu biết và tưởng tượng được Nước Trời là gì khi bản thân tôi gặp gỡ “Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2:20). Trong cảm nghiệm sâu xa đó, Đức Giêsu sẽ trở thành “trung tâm của cả cuộc đời chúng ta” (Fuellenbach 1995:590). Tất cả đều tùy thuộc và quy hướng về Người. Đức Giêsu chính là cầu vồng nối đất với Trời. Sức sống vươn cao, vì ơn cứu thoát đến đúng lúc. Thiên Chúa đã có sáng kiến trước, đã làm tất cả cho con người. Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi xem con người phản ứng thế nào trước những sáng kiến diệu kỳ của Người. Chính vì yêu thương, Người đã không ngần ngại đi bước trước. Đáp lại sáng kiến đầy tình yêu thương đó, tức là sám hối (Fuellenbach 1995:590). Nói khác, con đường trở về với Thiên Chúa trải bằng những cánh hoa hồng tình yêu. Nhưng chỉ những tâm hồn khiêm cung mới thực sự hiểu được chỗ đứng của mình trong một trần gian đã được kết giao trong máu Đức Kitô và mới có thể tìm được con đường dẫn đến hoà bình nối kết bằng những tràng chuỗi Mân Côi ngọc ngà.

Chính vì thế, trong giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mới lên tiếng : “trên hết, chúng ta hãy khẩn xin Thiên Chúa cho mọi người cải hoá nội tâm và mở rộng tầm nhìn khi đưa ra những quyết định công bình giải quyết những tranh chấp cản trở cuộc hành trình trần gian hôm nay bằng những phương tiện tương xứng và hoà bình. Trong mỗi đền thánh dâng kính Mẹ Maria, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên trời cao những chuỗi Mân Côi cầu xin cho hoà bình. Tôi xác tín rằng các giáo xứ và gia đình cũng đọc kinh Mân Côi cho công cuộc quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn lao đó.” (Zenit 23/02/03) Chỉ kinh Mân Côi mới mạc khải cho chúng ta biết “không bao giờ chúng ta có thể sống hạnh phúc nếu chúng ta kình chống nhau ; tương lai nhân loại không thể bị nhận chìm cùng với chủ thuyết khủng bố và logic chiến tranh. Đặc biệt các Kitô hữu chúng ta được kêu gọi trở thành những người bảo vệ hoà bình ở những nơi chúng ta đang sinh sống và làm việc. Nghĩa là chúng ta cần tỉnh thức, để tiếng lương tâm không khuất phục trước cám dỗ đầy ích kỷ, sai lầm và bạo động.” (Zenit 23/02/03)

home Mục lục Lưu trữ