Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 54
Tổng truy cập: 1444472
MÌNH MÁU CHÚA NỐI KẾT CHÚNG TA
Mình Máu Chúa sẽ nối kết chúng ta
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Giáo Hội Viêt Nam là một giáo hội trẻ trung, nhiệt thành và sống động. Đạo Công Giáo mới phát nhập vào đất nước này tử năm 1533, trải qua 300 năm cấm đạo trong đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và đảng Văn Thân. Mới được hơn 200 năm phát triển mà đạo Chúa đã tràn lan khắp đất nước. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã tôn phong 117 vị anh hùnh trong số 300 ngàn vị tử đạo lên hàng hiển thánh. Ngài cũng đã thành lập một hàng Giám Mục với khoảng 30 Giám Mục bản xứ, 25 Giáo Phận, trên 2 triệu giáo dân và có Hai Đức Hồng Y cai quản.
Các Giáo xứ tuy nghèo nàn, nhưng rất là nhiệt thành sống đạo. Ngay cả những người sống trong chế độ cộng sản vô thần, cấm cách đủ thứ, thế mà từ giáo xứ đến giáo dân vẫn một lòng trung kiên với thư thách. Có một giáo xứ nọ thuộc miền quê, nhà thờ 5 gian lợp lá, tường bằng vách đất. Họ đã tạo nên một dàn chuông bằng 3 cái vành bánh xe hơi bằng sắt han dỉ, treo ngay mấy gốc cây bên cạnh nhà thờ. Nó không phải là tiếng chuông hay nhất trần gian, nhưng nó là tiếng kẻng inh tai để kêu gọi người giáo hữu đi phụng sự Chúa mỗi buổi chiều trong ngày. Chỉ vài phút sau là cả trăm người kéo nhau tụ họp lại để đọc kinh, chầu Chúa, dâng thánh lễ...... làm việc thờ phượng Chúa. Đó mới là một xứ đạo, một dấu chỉ của đức tin đang phát triển tại Việt Nam.
Ơn kêu gọi tu sĩ, Linh Mục của họ cũng không phải là thiếu. Tại chủng viện Ninh Cường cũng có trên 300 chủng sinh trẻ tuổi đang theo đuổi học tập. Tôi đi dự buổi chầu lượt tại một giáo xứ. Giáo dân khắp vùng lân cận đều đi bộ đến từ sáng sớm. Nhà thờ đặt Mình Thánh Chúa chầu theo phiên (2 giờ) một giáo xứ, giáo dân thì xếp hàng một dẫy dài để xưng tội. Có người đưa được cơm nắm đi mà ăn, nếu cùng lắm là “bắt phèo” cho đến xong phiên chầu lượt. Phiên rước Mình Thánh Chúa qua các trạm vào buổi chiều thì đông đảo một dẫy các thầy chủng sinh áo chùng thâm , áo “chếp ly” tươm tất, chứng tỏ họ rất nhiệt thành với việc biểu dương sống đạo.
Chúng ta suy nghĩ về trường hợp của mọi người tham dự, ngày ngày họ không thiếu cơm bánh ở nhà nhưng họ thiếu tinh thần Chúa mà phải đi dự đọc kinh, cầu nguyện, thánh lễ. Cũng vậy, ngày chầu lượt không phải là phút vui chơi, nhưng là biểu dương tinh thần sống đạo, biểu dương một đức tin. Thánh Phaolô viết: “Cùng một tấm bánh, một chén rượu mà chúng ta thông phần với Chúa Kitô.” Tất cả chúng ta khi thông hiệp với Chúa Kitô trong sự uống cùng một chén, ăn cùng một tấm bánh là chúng ta muốn trở nên một với Chúa Kitô “Ai ăn mình và uống máu Ta thì Ta ở trong kẻ ấy” (Gn. 6:56). Vậy bí tích Mình Máu Chúa sẽ nối kết chúng ta trong một Thiên Chúa hằng sống để được sống đời đời với Ngài (Gn. 6:54).
Mình Máu Thánh Chúa Kitô mời gọi chúng ta tự vấn xem việc chúng ta rước lễ có ý nghĩa gì không? Chung ta còn tôn trọng việc ấy nhiều như khi chúng ta rước lễ lần đầu không? Hãy cố gắng suy niệm Mình Máu Chúa mỗi ngày, mỗi lần rước lễ.
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa giầu lòng yêu thương mới có thể ban cho chúng con món quà khôn sánh như thế.
62. Suy niệm Phúc Âm lễ Kính Mình Máu Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn)
Là người Việt Nam lớn tuổi, ai cũng còn nhớ tai họa chết đói của dân Miền Bắc năm 1945 khiến hai triệu đồng bào ta đã chết đói vì hậu quả quân Nhật bắt dân miền bắc phải trông đay thay vì trồng lúa để có gạo ăn.
Đó là cách quân Nhật ngăn chặn sự chống đối ách cai trị của họ bằng cách cắt nguồn lương thực khiến dân đói và không còn sức để kháng chiến nữa. Đọc lại tài liệu cũ ai cũng phải bùi ngùi xúc động khi biết mỗi sáng ở Hanội, chính quyền thành phố đã phải cho xe đi lượm xác người chết đói nằm rải rác ngoài đường phố.
Khi ấy tôi còn nhỏ nên không biết gì về nạn chết đói ghê sợ này. Nhưng trong chuyến vượt biên đi tìm tự do năm 1983, tôi cũng đã phải trải qua ít ngày đói khát trên biển vì hết lương thực và nước uống, trước khi được vớt vào bờ. Tôi không bao giờ có thể quên được Kinh nghiệm đói khát này, dù chỉ có trong vài ngày.
Đó cũng là kinh nghiệm của dân Do Thái xưa khi họ phải sống trong hoang địa suốt 40 năm, sau khi ông Mô Sê dẫn họ vượt qua biển đỏ từ Ai Cập trở về quê hương an toàn. Họ phải sống trong hoang địa để được thử thách về lòng tin yêu Thiên Chúa của họ trước khi họ được vào Đất Hứa tràn đầy sữa và mật ong.
Vì sống trong hoang địa, nên họ không có gì để ăn và nước để uống. Trước cơn đói khát của họ, Thiên Chúa đã cảm thông và cho tuôn đổ từ trời xuống một thức ăn đặc biết gọi là bánh manna để nuôi sống họ.(Xh 16: 4-5)
Và để có nước cho họ uống, Thiên Chúa cũng sai ông Mô -sê lấy gậy đập vào đá tảng để có nước chảy ra cho dân và súc vật uống (Ds 20: 7-8)
Như thế, là con người, ai ai cũng phải cần đến lương thực nuôi thân xác bao lâu còn sống trên trần gian và trong thân xác có ngày sẽ phải chết đi này.
Nhưng của ăn của uống phần xác- dù hảo hạng đến đâu- thì cũng chỉ giúp con người khỏi phải chết đói hay chết khát mà thôi, chứ không giúp gì cho sự sống vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời mai sau,
Thật vậy, là người có niềm tin Thiên Chúa và tin có sự sống đời đời, sau khi phải chết trong thân xác này, chúng ta không chỉ lo cho có của ăn phần xác thôi mà quan trọng hơn nữa là phải lo cho sự sống của linh hồn, là thực thể sẽ được sống mãi hay phải hư mất sau khi chết trong thân xác, và linh hồn phải ra trước tòa Chúa để chịu phán xét,
Chính vì tầm quan trọng này về sự sống của linh hồn, nên trước hết, chúng ta cần đọc lại lời Chúa Giê su nói với tên quỉ đến cám dỗ Chúa khi người ăn chay trong rừng vắng. Qủi cám dỗ Chúa biến đá ra bánh mà ăn khi biết Chúa đang đói sau 40 ngày chay tịnh. Chúa đã trả lời tên quỉ như sau:
Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh mà còn nhờ mọi lời từ miêng Thiên Chúa phán ra. (Lc 4:4; Đnl 8:3)
Nghĩa là cho sự sống của linh hồn, người có niềm tin Thên Chúa phải cần đến lương thực trường sinh là lời Chúa, tức lời hằng sống mà Phê rô đã tuyên xưng một ngày kia như sau:
“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.” (Ga 6:68)
Lời ban sự sống đó là lời Chúa Giêsu đã nói với dân Do Thái xưa như sau:
“Anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa, còn các thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Lc12:31) Các thứ kia là những của nuôi thân xác, quần áo, xe cộ,nhà ở và công việc làm để có tiền lo cho bản thân và gia đình.
Hơn thế nữa, Lời ban sự sống cũng là lời Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ và dân chúng đến nghe Người giảng dạy xưa kia về sự cần thiết phải lo cho phần rỗi của mình hơn là chỉ lo làm giầu và được danh vọng ở đời này:
Chúa nói: Nguời nào được cả thế giới mà phải mất linh hồn-(tức là mất sự sống trong linh hồn) - thì được ích lợi gì? (Lc 9:25)
Thử hỏi: có mấy ai được lợi lãi cả thế giới này đâu?. Nhưng cho dù có được hết mọi sự trên trần gian này, mà mất linh hồn thì những lợi lãi kia có bù đắp được không? Đó là câu hỏi mà chúng ta, những người có niềm tin vào sự sống đời đời, phải nghiêm khắc suy nghĩ và tự trả lời.
Vì thế, Cho mục đích tìm của ăn nuôi linh hồn, nuôi sự sống đời đời, Phúc Âm Chúa Nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niêm sâu xa về lời Chúa Giê su đã nói vơi dân Do Thái xưa như sau:
“Tổ tiên các ông đã ăn man na trong sa mạc, nhưng đã chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời, vì bánh tôi sẽ ban tặng là chính thịt tôi đây để cho thế gian được sống: Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6: 51-54)
Như thế, đủ cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã ban chính thịt máu mình làm của ăn của uống để nuội sống linh hồn chúng ta trong cuộc lữ hành về quê trời với hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
Đó là lý do vì sao Chúa Kitô đã lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng với 12 Tông Đồ, trước khi Người bị trao nộp cho kẻ dữ bắt bớ, hành hung và bị treo trên thập giá cho đến chết. Trong bữa ăn lịch sử nói trên Chúa đã biến bánh và rượu nho thành Mình, Máu Người và trao cho các tông đồ hiện diện ăn uống lần đầu tiên.
Chúa đã nói với các ông như sau: Đây là Mình Thầy anh em hãy lãnh nhận mà ăn”
Người cũng trao chén rượu cho các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận mà uống. Đây là máu Thầy, máu giao ước đổ ra cho anh em và cho nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. (Mt 26: 26-28; Lc 22: 19-20; 1 Cor 11: 23- 25)
Tuân lời Chúa dạy, Từ đó đến nay, Giáo Hội tiếp tục cử hành Thánh lễ Tạ ơn để diễn lại bữa tiệc cuối cùng của Chúa và hy tế thập giá sau đó để đền tội thay cho nhân loại ngày nay cùng thể thức và mục đích của Hy Tế thập giá xưa trên Núi Sọ.
Như thế, mỗi lần chúng ta tham dự Thánh Lễ, là tham dự bữa ăn của Chúa.
Và khi rước Minh Máu Chúa cách xứng đáng, thực sự hiện diện dưới hai hình bánh và rượu nho, chúng ta được ăn chính thịt và uống máu Chúa Kitô như các Tông Đồ đã được ăn và uống lần đầu tiên trong bữa ăn sau hết với Chúa trước khi Người thọ nạn thập giá để đền tội thay cho mọi người chúng ta.
Mình Máu Chúa Kitô thực sự là của ăn của uống cho ta được sống đời đời với Chúa, sau khi kết thúc hành trình đức tin trên trần thế này. Thực phẩm quí giá này không thể mua được bằng vàng bạc kim cương hay bất cứ loại tiền tệ nào có trên trần gian này, mà chỉ có Chúa Kitô ban phát miễn phí cho chúng ta hưởng dùng mà thôi.
Vậy, ta phải hoan hỉ mỗi khi tham dự Thánh Lễ để được ăn và uống Mình Máu Chúa Kitô, là bánh hằng sống từ trời xuống để nuôi sống linh hồn chúng ta ngay từ bây giờ trước khi chúng ta được thực sự chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa trên Thiên Đàng.
Nhưng cho được xứng đáng ăn thịt và uống máu Chúa Kitô, hay nói khác đi, là được rước Chúa vào lòng cách xứng hợp mỗi khi tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn, chúng cần nhớ lại giáo lý của Giáo Hội về điều kiện để được rước Chúa cách xứng đáng: Đó là ta phải sạch tội trọng, vì ai đang có tội trọng thì không được làm lễ (đối với linh mục) và rước Lễ (đối với giáo dân) (x. giáo luật số 916, SGLGHCG số 1415)
Phải sạch tội trọng vì tội này cắt đứt tình thân giữa con người và Thiên Chúa. Do đó, ai mắc tội này phải mau kíp đi xưng tội để được giao hòa lại với Thiên Chúa trước khi rước Chúa Kitô vào lòng. Ai rước Chúa đang khi còn tội trọng trong linh hồn là phạm sự thánh.
Chúng ta vô cùng cảm tạ Chúa Kitô vì ơn cứu độ Chúa đã mang lại cho chúng ta qua khổ hình thập giá, chết, sống lại và lên trời. Chúng ta cảm tạ Chúa đặc biệt trong Chúa Nhật kinh Mình Máu Chúa hôm nay, vì Chúa đã ban chính thịt máu Người làm của ăn của uống cho linh hồn ta được sống sau khi phải chết trong thân xác yếu hèn này.
Xin Mẹ Maria, Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu-Kitô, tức là người đầu tiên được rước Chúa vào cung lòng vẹn sạch của Mẹ, giúp chúng ta thêm yêu mến phép Thánh Thể, siêng năng rước Mình Máu Chúa Kitô khi tham dự Thánh lễ để được bổ sức thiêng liêng cho hành trình tiến về quê Trời và nhất là có hy vọng được sống lại sau khi phải chết trong thân xác như Chúa đã hứa trên đây.
63. Bánh ban sự sống vĩnh cửu - Lm. Minh Vận, CRM
Trong sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô đã quả quyết: "Ta là Bánh Hằng Sống từ trời xuống; ai ăn Bánh này thì khỏi phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Jn 6:51-52)
I. BÁNH NUÔI SỐNG THÂN XÁC CON NGƯỜI
Trên đường trốn vua Acap đang lùng sát hại, tiên tri Elia đã hầu nản chí thất vọng, nên ngài đã cầu xin với Chúa: "Lạy Chúa đã đủ rồi! Xin cất mạng sống tôi đi!" Sứ Thần Chúa sai đến với ông 2 lần, đánh thức ông và bảo: "Hãy dậy mà ăn vì đường ngươi đi còn dài". Ông chỗi dậy ăn bánh và uống nước, ông phục hồi được sức mạnh và ý chí thêm dũng cảm, rồi ra đi bốn mươi ngày đêm nữa mới tới núi Horeb, núi của Thiên Chúa nhờ lương thực đó bồi dưỡng (xem I Rg 19:7).
Dân Do Thái, trên đường trốn vua Pharaon và quân đội Ai Cập, suốt 40 năm trong sa mạc, mỏi mệt, thiếu thốn, đói khổ, Chúa cũng đã ban cho họ Manna làm lương thực nuôi sống, để họ có thể đủ sức đi tới Xứ Sở mà Chúa đã hứa ban cho họ làm gia nghiệp, như lời Người đã giao ước với tổ phụ họ.
Đây chỉ là thứ bánh phép lạ, là Manna Chúa ban nuôi sống dân Do Thái, để họ nhận biết Ngài là Thiên Chúa chân thật, là Thiên Chúa uy quyền và đầy tình thương, đã thực hiện những việc lạ lùng, để giúp họ được trong lúc cơ cực thiếu thốn.
II. BÁNH THÔNG BAN SỨC SỐNG TRƯỜNG SINH
Bánh phép lạ Chúa dùng để nuôi tiên tri Elia, Manna Chúa thực hiện để nuôi dân Do Thái, cũng chỉ là thứ bánh nuôi thân xác con người cho được sống, cũng chỉ là một hình bóng tiên báo một thứ bánh cao quí và siêu việt lạ lùng hơn bội phần, Chúa đã ban để nuôi sống linh hồn chúng ta. Đó là Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Chính Chúa đã quả quyết với chúng ta: "Ta là Bánh Hằng sống từ trời xuống, ai ăn Bánh này sẽ không phải chết, nhưng được đời đời hằng sống. Vì Bánh Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được Sống" (Jn 6:51-52).
Chúa đã làm nhiều phép lạ để tỏ uy quyền toàn năng của Chúa, làm chứng sự hiện diện thực tại của Ngài nơi Nhiệm Tích Thánh Thể. Đọc hạnh tích các Thánh và nhiều vị được đặc tuyển, chúng ta thấy có nhiều vị chỉ vì chút Bánh Thánh Thể lãnh nhận lúc tham dự Thánh Lễ, mà đã sống trong nhiều năm trường. Chẳng hạn, Nữ Chân Phúc Angela Foliguo 12 năm, Thánh Nữ Catharina 8 năm, Chân Phúc Elizabeth Reutte 15 năm, Thánh Nữ Ledwina 18 năm, Nữ Chân Phúc Catharina Raconnigi 10 năm, bà Rosa Andriani 28, bà Louis Leteau 14 năm.
Trên đường lữ hành trần gian tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu là nơi Chúa ân thưởng chúng ta, con cái dấu yêu của Chúa, Chúa đã thiết lập Nhiệm Tích Thánh thể làm Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Chúa ngự nơi Thánh Thể để nên nguồn an ủi khi chúng ta sầu phiều; nên sự nâng đỡ khi chúng ta yếu nhược; nên niềm hy vọng khi chúng ta nản chí thất vọng; nên sức mạnh giúp chỗi dậy khi chúng ta sa ngã; nên thầy thuốc chữa bệnh tật linh hồn chúng ta; nên Bạn Tâm Phúc, nên Nguồn Hạnh Phúc cho cuộc đời chúng ta. Chúa luôn hằng chờ đợi chúng ta nơi Thánh Thể; kêu mời chúng ta đến với Người, đón rước Người vào tâm hồn chúng ta, để Người trở nên mọi sự cho chúng ta, hầu biến cuộc sống lữ hành đau khổ này trở nên cuộc sống hạnh phúc, biến thung lũng nước mắt này trở nên Thiên Đàng cho con cái Chúa hằng yêu thương.
III. ĐỂ ĐÁP LẠI TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Chúng ta phải làm gì để đáp lại tình Chúa yêu thương? Chúng ta hãy năng đến viếng thăm, thờ lạy Chúa, đền bồi phạt tạ những tội lỗi loài người đã xúc phạm đến Chúa đang ngự thật trong Nhiệm Tích Thánh Thể; nhất là chúng ta hãy năng tham dự Thánh Lễ Misa và đón rước Chúa ngự vào tâm hồn chúng ta cách sốt sắng với tâm hồn trong sạch thánh thiện đầy lửa mến Chúa, kết hợp nên một với Người. Nếu không thể đón rước Chúa ngự vào linh hồn cách thực sự được, thì chúng ta hãy làm như các Thánh là ước ao rước Chúa ngự vào linh hồn chúng ta cách thiêng liêng, với lòng khát khao nóng hổi. Chúa rất được hài lòng trào đổ muôn phúc lành xuống trên chúng ta, như chính Người đã làm để ân thưởng những tâm hồn thánh phúc, hằng có lòng khát khao đến viếng thăm, đón rước Người ngự vào linh hồn.
Người ta kể: Một hôm, Thánh Antôn đang lâm bệnh nặng không thể tới Thánh Đường được, nhưng ngài cháy lửa khát khao được tham dự Thánh Lễ và rước Chúa ngự vào linh hồn. Đang lúc nằm trong phòng bệnh, ngài nghe thấy tiếng chuông rung báo hiệu khi Chủ Tế dâng Thánh Thể Chúa lên cho Giáo Dân tôn thờ, bỗng ngài đủ sức mạnh chồm dậy, nhảy xuống khỏi giường, sấp mình xuống đất thờ lạy Chúa, bỗng nhiên bức tường Thánh Đường rẽ ra một khoảng lớn, để ngài thấy rõ Chủ Tế dâng Thánh Thể như lòng ngài khát khao mong mỏi.
Người ta cũng kể: Có một thường dân nọ, rất khao khát rước Chúa Giêsu Thánh Thể hằng ngày, nhưng vì thời đó chưa được phép rước Chúa hằng ngày, nên ông đã thực hành việc rước Chúa thiêng liêng. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ, lúc Chủ Tế rước Chúa, ông mở miệng đưa lưỡi ra với lòng tha thiết được rước Chúa. Cứ mỗi lần lam như vặy, ông cảm thấy như thực sự có Bánh Thánh ở trên lưỡi ông, linh hồn ông cảm nghiệm được sự êm ái ngọt ngào thần linh. Rồi một buổi sáng kia, đang khi rước Chúa thiêng liêng như mọi khi, ông đánh bạo thò ngón tay vào miệng, để trắc nghiệm xem thực hư thế nào, thì quả thật ông đã lấy ra một Bánh Thánh Thể, rồi ông cung kính lại bỏ vào miệng và nuốt đi. Đó là phép lạ chính Chúa đã thực hiện để ân thưởng ông và đáp lại lòng khát khao mong ước của con yêu dấu của Người.
Kết Luận
Ôi Maria, Mẹ yêu dấu của chúng con, chúng con cảm tạ Mẹ, vì Mẹ đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Thánh Thể là Quả Phúc của lòng Mẹ. Người là Hạnh Phúc của chúng con trên trần gian này.
Xin Mẹ ban cho chúng con được lòng yêu mến Chúa nồng nàn thiết tha như Mẹ, để Chúa được hài lòng ngự vào linh hồn chúng con, như khi Chúa được sung sướng ngự vào cung lòng Mẹ xưa. Xin Mẹ cũng ban cho chúng con lòng hăng say làm việc tông đồ truyền bá lòng tôn sùng Chúa Giêsu Thánh Thể, kêu gọi mọi người năng đến kính viếng, tôn thờ, đền tạ, phụng sự và yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng là Tình Yêu đang ẩn thân trong Nhiệm Tích Cực Thánh này, vì yêu thương nhân loại, đang chờ đợi họ, để Chúa nên nguồn an vui Hạnh Phúc cho họ, nên Thiên Đàng của họ nơi trần gian này.
64. Định lượng tình yêu Chúa - G. Tuấn Anh
Suy niệm về Mình và Máu Chúa, là bí tích Thánh Thể mà chúng ta thường đón nhận trong mỗi thánh lễ, bất ngờ tôi tự hỏi "Khi rước Mình và Máu Thánh Chúa-Ngài đã biến đổi gì trong tôi?". Câu hỏi này được bật ra lại khởi sự cho câu hỏi tiếp: Tại cùng một thời điểm trong cuộc sống, rất nhiều khi chúng ta phải lựa chọn giữa những cái thiệp: dự tiệc Chiên Thiên Chúa mà Ngôi Lời mời gọi và những cuộc chào đón rất đời khác: sinh nhật, đám cưới. Và chúng ta đã nghiêng về ai?
Trả lời những câu hỏi có tính đối kháng cao, chúng ta dễ định lượng lòng mến của bản thân với Chúa Kitô.
Lịch sử bí tích Tình yêu
Nhận thức của con người về thế giới quanh mình thường theo qui tắc: từ tổng quan đến chi tiết, từ đơn giản đến phức tạp. Cũng theo thể thức này và giống như bao Mầu nhiệm khác, nhằm mặc khải về Mầu nhiệm rất đặc biệt này, Thiên Chúa đã lập trình theo tuần tự từ rất xưa. Thời của ông Môsê đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập, giữa sa mạc Sinai chỉ có nắng và cát, Ngài đã cho Mana từ Trời xuống như là một thứ lương thực hàng ngày nuôi sống dân Người. Một thứ lương thực được ban cho nhằm nuôi dưỡng phần xác, để con người nhận thấy lòng thương yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho con cái Người.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu lại lập lại phép lạ này 2 lần (Mt 14, 13 và 15, 32) - phép lạ hóa bánh ra nhiều. Nhưng đây vẫn là một phép lạ để phục vụ phần hữu hình và qua đó Chúa muốn bày tỏ một thứ Mầu nhiệm khác bao la, siêu nhiên hơn. Có một chi tiết đáng chú ý, trước lúc làm 2 phép lạ này, Chúa "cầm lấy bánh ngước mắt lên Trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra rồi trao cho các tông đồ". So với nhiều phép lạ khác, cử chỉ "ngước mắt lên Trời, dâng lời chúc tụng" là khá đặc biệt. Hành động này được thấy duy nhất ở một lần khác khi Ngài cho Ladarô đã chết 4 ngày rồi sống lại (Ga 11, 1), nhưng với lời đối thoại khác "lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời con". Đây là 2 phép lạ mà Chúa Giêsu viện dẫn tới Chúa Cha trước khi quyết định, điều này nói lên ý nghĩa cực kì đặc biệt về tính chất của 2 phép lạ trên.
Trước ngày chịu nạn, khi Chúa Con chuẩn bị về lại với Chúa Cha, Ngài đã lập bí tích Thánh Thể. Và lần này, hàm ý sâu xa được tỏ ra. Đây là một phép lạ vô hình, hay còn gọi là một Mầu nhiệm. Phép lạ này tạo ra thứ bánh không phải như phép lạ hóa bánh ra nhiều mà tạo ra nguồn mạch nuôi dưỡng sự sống thần linh- phần hồn. Đón nhận Thánh thể nghĩa là Kitô hữu trở thành đồng huyết nhục, đồng thân thể với Đức Kitô như cành nho kết liền với cây nho. Và nhờ thế chúng ta có thế nói Chúa Giêsu sống trong tôi và tôi được đồng hành cùng Ngài trong lời nói và hành động. Và hệ quả là, những nhành nho sẽ sinh nhiều hoa trái.
Con người là một thực thể được cấu thành từ 2 phần xác-hồn. Nếu chúng ta xác tín rằng phần hồn là quan trọng hơn phần xác và nếu một ngày chúng ta cần 2 bữa ăn cho phần xác thì chí ít chúng ta cũng cần một bữa ăn cho phần hồn, là một khẳng định.
Tôi là ai?
Nhà thờ nơi tôi đang sinh sống có khoảng 1000 giáo dân. Thánh lễ ngày thường sáng chiều ước chừng 100 giáo dân dự, trong số đó khoảng 60 người rước lễ. Phụ nữ đông hơn đàn ông, người già nhiều hơn trung niên. Thanh niên ít nhất. Tỉ lệ rước lễ hàng ngày tại đây 6%. Các nơi khác có thể lên tới 20%. Trong 6% này, họ suy nghĩ về điều gì khi rước Chúa vào lòng là một câu hỏi lớn? và "Chúa đã biến đổi họ như thế nào qua bí tích này?", chắc lại là bất ngờ. Tôi đã từng nát óc đôi lần bởi đoạn Tin Mừng sau:
"Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây, Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi" Mc 12, 28-34. Chúng ta cần tìm hiểu từ "hết" ở đoạn trên trong Anh ngữ.
(Jesus replied, 'This is the first: Listen, Israel, the Lord our God is the one, only Lord,
and you must love the Lord your God with all your heart, with all your soul, with all your mind and with all your strength.)
Nếu ta yêu mến Chúa, chưa cần dùng đến những từ "hết" (all) hay chỉ cần dùng một trong bốn cái hết trong đoạn Tin Mừng trên, theo lẽ thường của tình yêu chúng ta phải mong muốn thấy hàng ngày, mong nói chuỵên, ước ao ngự vào lòng Người Yêu. Và nếu như thế không đâu bằng nhà Tạm, không đâu bằng bí tích Thánh Thể. Vì Ngài bảo "Này là mình Ta, phải thí ban vì các ngươi; hãy làm sự này mà nhớ đến Ta. Và chén sau bữa ăn, cũng như vậy mà rằng: Chén này là giao ước mới trong máu Ta, phải đổ ra vì các ngươi" (Lc 22, 19). Vậy nếu tôi, 365 ngày chỉ đón Chúa với số lượng tối thiểu 52. Con số này tố cáo tình yêu của tôi với Chúa 14% còn 86% cho thứ khác. Một ngày ngoài giờ làm, ăn, ngủ nghỉ còn 12 giờ, nếu chỉ dành 15 phút cho giờ kinh tối sáng, nghĩa là tôi chỉ nhớ đến Ngài 0.21% trong một ngày. Vậy tôi là ai trong mấy hạt giống mà Ngài đã từng gieo? Tôi như "kẻ được gieo vào bụi gai, biết nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, bả vinh hoa phú quí khiến Lời không sinh hoa kết quả." Mt 13, 18.
Hãy dùng trí khôn của Thần Khí để khám phá mầu nhiệm của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng (Mc 12, 28) với thứ tự của 4 cụm từ: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực là một gợi ý tinh tế.
Cái hay của cụm từ "yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn" sẽ giúp bạn tiến tới "yêu Chúa hết trí khôn". Cái tuyệt của hành động "yêu Chúa hết trí khôn" sẽ giúp bạn tiệm tiến tới "yêu Chuá hết sức lực".
Kinh nghiệm của đức tin Công giáo xuất phát từ lòng mến chứ không phải bởi tư duy là vậy.
Phát lộ bí mật tình yêu
Lúc bé, khi nghe đọc Tin Mừng các đoạn Chúa Giêsu làm phép lạ là lúc tôi rất thích thú, bởi vì lòng tự hào về một Sư Phụ quyền năng. Khi lớn hơn, cuộc sống đã có những va đập lớn nhỏ. Những lúc cơ thể rã rời, trí lực cạn kiệt, tưởng chừng bỏ cuộc, tôi muốn kêu lên "Lạy Thầy xin cứu con" như thánh Phêrô đã từng kêu cứu (Mt 14, 22), nhưng nghĩ rằng mình không may mắn để có Ngài ngồi cùng thuyền như thánh thời ấy. Có những khi cơ thể đau đớn vì bệnh tật, tôi mong ước được chạm vào vạt áo Ngài để các bệnh tật biến mất như Ngài đã từng làm cho người đàn bà bị bệnh băng huyết (Mc 5, 25). Nhưng lại nghĩ Ngài đã ẩn mình gần 2000 năm. Và những khi ấy, tôi ao ước được sống cùng thời với thánh Phêrô, được ngồi trên con đường mà Chúa đã từng đi qua để chữa bệnh cho người phụ nữ may mắn ấy.
Có những lúc ngồi suy tư về Ngài, một Thiên Chúa làm chủ cả không gian và thời gian. Ngài đâu phải chỉ hiện diện 33 năm sau Công nguyên tại đất nước Do thái xa tít, Ngài tồn tại mọi nơi, mọi lúc. Ngài là Thiên Chúa của sự công bằng. Vậy Ngài đang ở đâu?
Những cảm giác thích thú, những ước mơ, những thử thách, những suy tư theo thời gian cứ chồng chất lúc mơ hồ, khi rõ ràng, lúc rời rạc, khi liên tục. Tôi đã trả lời được những dằn vặt của chính mình suốt nhiều năm qua trong một thánh lễ. Câu hỏi Ngài đang ở đâu đã có đáp án. Ngài luôn luôn bên cạnh ta, Ngài ẩn mình trong chính bí tích Thánh Thể.
Phát hiện ra mầu nhiệm này, tôi gọi đây là tuyệt đỉnh của tình yêu. Ngài đã hiến chính mạng sống mình để lập nên bí tích cao siêu, để vượt cả không gian, bất chấp thời gian để ở cạnh ta mãi mãi. Chỉ một điều còn lại, ta có nhìn thấy Ngài hằng hữu trong chiếc bánh nhỏ bé ấy hay không. Thật đúng, Ngài là Đấng hiện hữu (Xuất hành 3, 14). Câu nói mà Thiên Chúa đã từng nói với Môsê.
Nếu chúng ta xác tín tuyệt đối, Chúa đang ngự trong phép Thánh Thể, vậy khi rước lễ là ta đã được Ngài ở trong lòng-Đấng là vua vũ trụ- thế thì không có điều gì trên trần gian có thể làm chúng ta không bình an, là một khẳng định. Không làm được điều này, chúng ta khó trở thành một nhân chứng của Tin Mừng. Khi máu thịt Ngài hòa quyện vào thân thể của chúng ta nghĩa là con người trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa (Sáng thế 1, 26).
Thiên Chúa phán sẽ ban miền đất hứa, nhưng dân Do Thái phải trải qua 40 năm thử thách, cực khổ trong sa mạc để sở hữu nó, cũng như ông Abraham khi nhận lệnh đem con sát tế, ông Gióp chịu nhiều bệnh tật, Chúa Giêsu phải ăn chay 40 ngày và chịu cám dỗ ma quỷ. Tất cả những thử thách này là cần thiết để bổi đắp đức tin và khai sáng nhãn quan. Mầu nhiệm Thánh Thể dù đã hé lộ bí mật tình yêu của Thiên Chúa với chúng ta nhưng không phải ai cũng nhận ra trong con mắt đời thường. Các mầu nhiệm ấy không thể nhìn qua con mắt thế tục nhưng cần phải ngắm bởi một lòng mến nội tâm vô song, cần một thời gian đủ dài để chiêm nghiệm và một vài thử thách mà Ngài dùng để tinh luyện thị giác đức tin của mỗi chúng ta.
65. Từ thế giới này đến thế giới vĩnh cửu!
Một trong những cuốn sách nổi tiếng và bán chạy nhất là cuốn "On Death và Dying" (Hấp Hối và Chết). Tác giả cuốn sách này diễn tả sự chết qua 5 giai đoạn sau đây: 1) Giai đoạn từ chối và không chấp nhận cái chết (denial), 2) Giai đoạn tức giận (anger): "Tại sao tôi lại chết?" 3) Giai đoạn mặc cả (bargaining) để tìm một lúc khác thuận lợi hơn, 4) Giai đoạn chán nản ngã lòng (depress), 5) Giai đoạn cuối cùng là chấp nhận (acceptance).
Tất cả mọi người chúng ta cho dù ở giai đoạn cuối của những cơn bệnh nạn hiểm nghèo hay ở bất cứ lúc nào, tùy theo mỗi người, thì ai cũng phải đối diện với sự chết. Từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ là chúng ta bắt đầu cuộc hành trình tiến đến sự chết.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta thêm một giai đoạn thứ 6 mà tác giả ở trên đã không nhắc tới. Giai đoạn này là câu hỏi mà nhiều người phải đương đầu đó là "Chúng ta sẽ đi đâu sau khi chết?"
Đã có rất nhiều thuyết về sự sống đời sau mà con người đã vẽ lên bằng trí tưởng tượng trong phạm vi của loài người. Mỗi một dân tộc đều có những nét đặc điểm của họ. Đối với người Hy Lạp ngày xưa, họ cho rằng cuộc sống đời sau như là một nơi cực lạc chan chứa niềm hạnh phúc và không có bất cứ một thay đổi gì về vấn đề thời tiết. Đối với người Ái Nhĩ Lan, sự sống đời sau giống như một hòn đảo của những người được chúc phúc (Island of the Blest). Trên hòn đảo này đầy những cây ngon vật lạ, mọi người đều vui mừng không ngớt, không có đêm hay ngày gì cả, và cũng không có tiếng khóc hay than van.
Tân Ước thì không cho chúng ta hình ảnh về thế giới đời sau theo tính cách của loài người. Tân Ước cũng không nói cho chúng ta biết kỹ lưỡng về những thiết kế của Nước Trời. Tân Ước cho chúng ta một vài hình ảnh như: Thành thánh Giêrusalem mới, kho tàng châu báu, căn nhà với nhiều chỗ ở, quốc gia mà Chúa Kitô làm Vua.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một bài học rất quan trọng đó là linh hồn bất tử và sự sống đời sau. Ngài trao ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Ta sẽ ban tặng, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống" (Ga 6:51).
Chúa Giêsu chính là Bánh ban sự Sống. Ngài chính là sự hoàn thiện của chúng ta. Ngài chính là đích điểm mà chúng ta phải đi tới. Ngài đã trả lời cho câu hỏi mà nhiều người vẫn còn thắc mắc, "Sự sống đời đời là cái gì?" Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Con quyền trên mọi phàm nhân là để Con ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Con. Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô" (Ga 17:1-3).
Sự sống đời đời là nhận biết Cha, Đấng đã sai Con Một Ngài xuống thế gian để ban cho chúng ta Bánh Hằng Sống. Sự sống đời đời là đón nhận Chúa Giêsu, Bánh Hằng Sống từ trời xuống.
66. Sự sống phát xuất từ việc trao ban sự sống
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”, ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi vòng bắt đầu bằng mộtcâu nói của Đức Giêsu và mộtvấn nạn của người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ mộtcâu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến mộtmạc khải mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài (6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx), nhất là khi mà từ sôma đã trở thành từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc 14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24). Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này, cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma đã được chọn, ngoại trừ mộtvài bản văn sau thời các tông đồ, được viết dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx (vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên khởi, đã có mộttừ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram mộtý nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng khác, trong Ga, sôma được dùng để gọi mộtxác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và “hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra mộttrật cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn... uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Động từ menein (remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu. Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là mộtđặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người. Tuy nhiên, TM IV còn dùng mộtcông thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha, Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con (14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này. Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai, Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do Thái (52)
Người Do Thái bị vấp phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận. Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x. 2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6; 16,16-19).
* Triển khai đề tài (53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein) để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu, Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và máu này là mộtbằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người, cũng là hiệp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa, Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. 15,1-17).
* Nền tảng của đề tài (57-58)
Chúa Cha chính là nguồn phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha; Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian” (4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt để thết đãi loài người. Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là “bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể, là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng mộtbàn tiệc Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
67. Chú giải của Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH RA NHIỀU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
Tác giả Tin Mừng nói rõ, chúng ta ở vào thời kỳ "ít lâu trước lễ vượt qua, một đại lễ của người Do Thái”(6,4). Tác giả đưa biến cố được sống thời Đức Giêsu (bánh hoá nhiều, bài giảng ở Capharnaum) về với thời của Israel (Manna thời xuất hành với sự hướng dẫn của Môsê) để các độc giả thấy rõ hơn tính thời sự trong thời của Giáo Hội (sau khi Đức Giêsu phục sinh, trong việc chia sẻ Lời Chúa và bánh của bí tích Thánh Thể). Vì lòng thương xót đám đông đã theo Ngài, Đức Giêsu đã nuôi họ bằng "năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá" (6,9), như thế Ngài cho thấy rõ phần nào căn tính đích thực của Ngài. Bởi thế các chứng nhân đã không lầm, họ đồng hoá Ngài với vị đại ngôn sứ, Đấng đã được ông Môsê loan báo trong sách Đệ Nhị Luật (18,15): "Giữa các ngươi, trong số anh em các ngươi, Chúa là Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi”. Thật vậy, trước những dấu lạ mà Đức Giêsu đã thực hiện, người ta nói “chính Ngài là vị đại ngôn sứ phải đến trong thế gian”. Nhưng, thánh Gioan viết, hiểu lầm sứ mạng của Ngài, họ "toan bắt ép Ngài làm vua của họ" (6,14-15). Vì thế để tránh họ, Đức Giêsu rút lui một mình lên núi trước khi đi qua bờ bên kia cách kín đáo với các môn đệ của Ngài.
Chính "ở trong hội đường Capharnaum" (6.59) đám đông đi tìm và gặp Ngài, Đức Giêsu giảng cho họ một bài về bánh ban sự sống", trong đó Ngài đào sâu ý nghĩa của bánh, ý nghĩa đã hiện hữu trong dấu chỉ, và dạy họ rằng, đối với họ. Đấng đã hoá bánh ra nhiều cũng chính là bánh của nhân loại. Câu 51 đến 58. đã được ghi trong sách bài đọc năm A này, và đã làm thành đoạn cuối của bài giảng, không thể tách rời khỏi các câu trên, với sự song song rất rõ ràng giữa phần đầu và phần cuối của bài giảng tại Capharnaum.
Cũng lời mở đầu: “Ta là bánh sự sống" (câu 35) và "Ta là Bánh hằng sống” (câu 51). Cũng lời cuối về sự sống vĩnh cửu: “Ai tin Ta sẽ có sự sống đời đời" (câu 58).
Cùng lời quảng diễn về những xì xầm (đối chiếu với những "xì xầm" trong sách Xuất Hành, và những chống đối của người Do Thái) làm sao ông ta có thể nói: “Ta từ trời xuống" (câu 42), và làm sao con người ấy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn" (câu 52).
Nhưng trong lúc phần đầu của bài giảng trình bày "bánh sự sống" trong Đức Kitô với tư cách là Đấng mặc khải của Chúa Cha Lời Thiên Chúa từ trời xuống, thì phần hai lại quy chiếu cách rõ nét về bí tích Thánh Thể.
ĐỨC GIÊSU BÁNH HẰNG SỐNG TỪ TRỜI XUỐNG.
Ở phần đầu của bài đọc của sách này, khi quảng diễn Đệ Nhị Luật 8,3 Đức Giêsu tự giới thiệu mình trước hết như là "Bánh sự sống" cho những ai tiếp nhận sứ điệp của ngài bánh hằng sống từ trời xuống, đó là mặc khải cuối cùng cho loài người. Đức Giêsu đã mặc khải bằng lời nói và việc làm của Ngài, bằng mầu nhiệm trọn vẹn của Ngài, bằng chính con người của Ngài vì Ngài là "Ngôi Lời trở thành xác phàm" (Ga 1,14). Ngài có thể áp dụng cho chính mình những gì mà Cựu ước đã nói về Lời của Thiên Chúa hay sự khôn ngoan thần linh, là của ăn duy nhất có thể làm dịu cơn đói khát của con người: "Ta là bánh sự sống, ai đến với Ta, sẽ không bao giờ đói nữa, ai tin Ta sẽ không hề khát bao giờ" (cf. Pro. 9,5,- Sir. 24,21).
Một giai đoạn mới đã vượt qua với phần hai của bài giảng.
Ở đây sự gợi lại cái chết của Đức Giêsu, như nguồn sống, được làm rõ nét hơn "bánh mà Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, ban cho thế gian được sống. Và chữ "THỊT" làm nhớ lại lời mở đầu của thánh Gioan 1,14: “Ngôi Lời đã hoá thành xác phàm. A. Marchadour quảng diễn: chính Đấng nhập thể hiện diện. Nhưng ở đây lời lẽ thích đáng được diễn đạt: cái chết của Đức Giêsu như nguồn sống cho nhân loại. "Ngôi Lời trở thành xác phàm" (1,14). Thịt trở thành bánh (6,51). Giữa việc nhập thể, cái chết trên thập giá và bí tích Thánh Thể có một sự liên tục mật thiết. (Phúc âm thánh Gioan "Centurion", 1992, trang 108).
Và nếu, cho đến bây giờ cái tiếng chính là "TIN", “ĐẾN VỚI TÔI" thì bây giờ chúng ta lại thấy những từ: "BAN", "ĂN và UỐNG". A. Marchadour viết tiếp: "Trong phần cuối của bài giảng của Đức Giêsu, những từ về Thánh Thể (eucharistiques) chiếm chỗ quan trọng với tính hiện thực mà người ta chỉ có thể hiểu vào thời đại của Giáo Hội. Giữa các câu 53, 54-56, thay vì từ "ĂN" truyền thống, Gioan dùng một từ có vẻ sống động hơn: "nhai, cắn" điều đó còn nhấn mạnh hơn đến sở hữu và nghĩa nội tâm hoá cần thiết. Trong trường hợp này, phần bài giảng này có thể chịu ảnh hưởng những cuộc tranh cãi trong cộng đồng Kitô giáo của Gioan trên tính hiện thực của Thánh Thể (Phúc âm thánh Gioan "Centurion", p.109) Đức Giêsu cũng là bánh từ trời xuống vì trong bí tích, cái mà Ngài ban làm của ăn chính là "thịt" Ngài hiến dâng cho sự sống của thế gian, ăn thịt (động từ lặp lại 8 lần trong một ít câu) và "uống" máu Ngài, là nhận lấy sự sống của Ngài, là thông hiệp với mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài: chúng ta ở vào thời "ít lâu trước lễ Vượt qua, thịt của Đức Giêsu được ban để cho thế gian được sống" (câu 51). Giờ Giuđa nộp Thầy mình đã gần đến, Gioan lưu ý (câu 64 và 70-71). Đến phiên mình, nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài, Ngài chấp nhận liều mình trở nên "tấm bánh bẻ ra cho thế giới mới". (Đại hội Thánh Thể Lộ Đức, 1981).
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Ngày nay cũng thế, khi thông hiệp với Đức Kitô trong đức tin, người Kitô hữu ở trong Ngài và nhận được sự sống đời đời (A. March, "Dossier biblique số 41, trang 13-14).
Khi giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu đã không thể nói rõ cách trực tiếp về Thánh Thể, điều người ta không thể hiểu nổi trước bữa tiệc ly, trước cái chết và sự sống lại của Ngài. Cụm từ "bánh sự sống" trước hết là một cách nói về Đức Giêsu như Đấng mặc khải từ trời đến và lời Ngài là của ăn và của uống (Hãy đến mà ăn bánh của Ta hãy uống rượu nho mà Ta đã dọn sẵn cho các con: Prov. 9,5). Tất cả bài giảng trước hết gợi lên lòng tin vào Đức Giêsu Đấng mặc khải, nhưng việc thực hiện Thánh Thể cũng lộ ra trong thuật ngữ Kitô giáo: "ăn, uống, có sự sống". Tuy nhiên phần cuối thì trực tiếp chỉ về "Thánh Thể" chúng ta hãy quan sát. Thật vậy, từ câu 51, Đức Giêsu gợi lên cái chết của Ngài như là nguồn sự sống: bánh mà tôi sẽ ban cho, chính là thịt tôi để cho thế gian được sống. Từ "thịt" làm nhớ đến lời mở đầu: Lời trở nên xác phàm (1,14). Chính việc nhập thể (incarnation) được diễn tả ở đây, trong giai đoạn kết thúc: cái chết của Đức Giêsu, Ngôi Lời trở nên thịt (xác phàm), thịt làm thành của ăn. Giữa việc nhập thể, cái chết và Thánh Thể có một sự liên tục. Ngày nay Đức Giêsu vắng mặt trong thân thể Người, sự mặc khải của Ngài vẫn còn đó và Thánh Thể là trọng tâm mà loài người được mời gọi, cùng với cơ may cũng như rủi ro bị từ chối như vào thời Đức Giêsu vậy: Lời này chói tai quá, ai mà nghe được! (6,60). Ở câu 53-56, thay vì động từ "ăn", Gioan dùng một từ rất mạnh: "nhai, cắn". Có lẽ là để nhấn mạnh đến tính hiên thực của Thánh Thể: Thật vậy, một số Kitô hữu, những người thuộc phái ngộ đạo, từ chối sự trung gian thể chất của các bí tích để kết hiệp với Đức Giêsu, cũng như họ từ chối không tin sự hiện hữu của nhân loại tỉnh trong Đức Giêsu, đến trong xác thịt (1Ga 4,2). Nhưng vì thế, để sự trung gian của bánh không phải là ma thuật: chính tinh thần làm cho sống, xác thịt có ích chi (Ga 6,56). Thánh Thể, Mình Máu thông ban cho tín hữu ơn mà những người đồng thời với Đức Giêsu tìm kiếm: sự sống vĩnh cửu từ bây giờ và mãi mãi, ở với Đức Giêsu. Hôm nay cũng vậy, người Kitô hữu thông hiệp với Đức Giêsu trong đức tin, ở với Ngài và có sự sống đời đời.
2) “Cao quý thay mầu nhiệm đức tin” (Mgr. L.Daloz trong "Chúng ta đã thấy vinh quang Ngài" Desclée de Brouwer, trang 87-88).
Đức Kitô phải mời gọi chúng ta đặt mình vào đỉnh cao của đức tin để mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm đức tin. Chúa nhắc lại lời khẳng định đã đưa đến những lời "xì xầm": "Ta là bánh ban sự sống”. Ngài bác lại lời bắt bẻ về manna mà người ta nại ra để chống lại Ngài: "Trong sa mạc, cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết, cho nên chưa phải là thứ bánh ban sự sống. Trái lại ai ăn bánh bởi trời sẽ không hề chết bao giờ: ai tin và ăn bánh này sẽ sống muôn đời". Và đây là lời tuyên bố gây vấp phạm… bánh mà Ta ban, chính là thịt Ta để cho thế gian được sống… Tuy nhiên trước sự chống đối, Chúa Giêsu chẳng những không dịu giọng mà trái lại còn nhấn mạnh bằng bốn câu rất rõ ràng và thực tế: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài… ai ăn thịt Ta, và uống máu Ta... thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của sống… ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy...". Không có lối thoát nào cả, không có cách nào khác để có sự sống, có sự phục sinh để ở trong Ngài. Không thể rõ ràng hơn được nữa. Hòn đá, vật chướng ngại, chính là hòn đá gốc để các môn đệ được sống, hòn đá thử thách của sự thật về đức tin. Như thế, Thánh Thể cắm sâu vào trung tâm của hiện hữu Kitô giáo. Trong bóng tối của mầu nhiệm, những ai muốn có sự sống phải hướng về đó, vì đó là của ăn để sống: bánh bởi trời là như thế: rất khác với thứ bánh mà cha ông các ngươi đã ăn, họ đã hết, nhưng ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Không một lời diễn giảng, thánh sử kết thúc đơn sơ: Đó là những lời dạy của Đức Giêsu trong hội đường Capharnaum. Đó là cách bánh hằng sống và chén cứu độ được dặt vào tay chúng ta không một lời giải thích nào. "Cao cả thay nhầu nhiệm đức tin".
3) “Hai bàn Tiệc" (J.Perron, trong "Đọc Kinh Thánh" số 52, trang 139-140).
Nếu tách rời những câu trước với đoạn văn này, sẽ đi đến nguy hiểm là làm nghèo nàn đi, hơn nữa làm sai nghĩa về lời dạy về Thánh Thể của Gioan. Những gì nói về bí tích phải để mở ra một nhân quan rộng hơn nhiều hơn những gì nói trong bài thuyết giảng. Nếu Đức Giêsu là bánh ban sự sống trong Thánh Thể, là bởi trước hết Ngài là bánh cho những ai tiếp nhận lời Ngài và chứng của Ngài, và vì thế phần đầu chỉ nói đến người "tin vào", phần hai nói đến người “tin hiệp-thông", nhưng hai phần, phần nào cũng không thể thiếu, bởi lẽ không thể nói đến "người hiệp thông" mà trước hết người ấy không phải là kẻ tin, nếu không có sự khẳng định ở câu 47 thì câu khẳng định 54 chẳng có nghĩa gì hay là dẫn đến tình trạng làm cho Thánh Thể chỉ là một nghi lê ma thuật. Thánh Tôma Aquinô nhắc nhở rằng mọi bí tích đều là "bí tích đức tin" (sacra men ta fidei). Cuối cùng nếu đức tin có thể bỏ qua bí tích (không nói đến rước lễ thiêng liêng hay rửa tội bằng lòng muốn) thì bí tích không thể có nếu không có đức tin. Đức tin là sự kết hiệp đầu tiên với Đức Kitô, phải đi trước nghi lễ bí tích và hướng về đó" (A.Feuillet). Sự tình bày về Thánh Thể này cũng mời gọi chúng ta, như các cải tổ Công đồng đã làm, tìm lại chỗ đứng của phụng vụ Lời Chúa đi trước và chuẩn bị cho nghi lễ bẻ bánh trong các cử hành của chúng ta - cả hai phải kết hợp với nhau cách sâu xa như hai đoạn của bài giảng thuyết của Gioan. Các tác giả Kitô giáo xưa đã hiểu như thế khi họ nói đến "hai bàn tiện trong Giáo Hội: "Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc thánh". Có lẽ vì thế mà sinh ra những hậu quả đáng giận của phong trào cải cách: sự chia cắt mà người ta có thể diễn tả một cách hài hước: người Tin lành thì ra khỏi cửa với cuốn Kinh Thánh trong túi và người Công giáo đi ra mang theo Mình Thánh Chúa. Lời dí dỏm, trên đây, nếu có thể nói lên một cái gì về thực tế của sự kiện, thì phải nói rằng cả hai cộng đồng, mỗi bên chỉ giữ cho mình một nữa mầu nhiệm Thánh Thể, một phần của bài giảng thuyết trên chủ đề "bánh ban sự sống".
68. Chú giải của Noel Quesson
MÌNH VÀ MÁU ĐỨC KITÔ
Khác với ba Tin Mừng nhất lãm, thánh Gioan không thuật lại việc thiết lập Thánh Thể, chiều ngày thứ năm Tuần Thánh. Nhưng sau khi hoá bánh ra nhiều lúc Đức Giêsu phân phát lương thực trần gian cho những người đói khổ, thánh sử đã đặt vào miệng Đức Giêsu một bài giảng dài về “bánh hằng sống, bánh ban sự sống muôn đời”…
Theo một văn phong điểm hình của thánh Gioan, trang Tin Mừng ngắn mà chúng ta đọc hôm nay chứa đựng năm từ –chìa khoá: ăn (8 lần); uống (4 lần); thịt (5 lần); máu (4 lần); sống (9 lần); phải để mình cuốn hút vào giọng nói có nhiệu điệu ấy và dám vượt ra ngoài ngôn ngữ và ý tưởng trong sáng. Sự gặp gỡ với mầu nhiệm Thiên Chúa không bao giờ ban cho người nào gắn chặt và bám víu vào cái tri giác được, vào nhân tính và sự duy lý.
"Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống"
Bánh? Dẫu sao cũng là một vật rất đơn giản và rất con người. Đối Với toàn bộ vùng duyên hải của biển Địa trung hải, "bánh" (bánh mì) là lương thực căn bản, như khoai mì đối với châu Phi và lúa gạo đối với châu A. Bánh cũng là biểu tượng cho sự sống. Ai không ăn chẳng bao lâu sẽ chết và ai không ngon sẽ phải đến bác sĩ, vì đó là dấu hiệu có cái gì không ổn cho sức khoẻ của mình.
Nhưng sau đó chúng ta được phóng lên trên những từ ngữ của Đức Giêsu nói người là bánh lương thực nuôi sống. Hơn thế nữa Người còn khẳng định rằng lương thực ấy thiêng liêng, từ trời xuống. Và đó là bánh hằng sống! Vậy thì đó là một thứ bánh tra hỏi chúng ta về bản chất cái đói của chúng ta. Đối với tôi sống có nghĩa là gì? Nếu tôi không muốn ăn Thánh Thể, chứng bệnh thiếu máu nào rình chờ tôi? Tôi nuôi sống mình bằng gì? Phải chăng bằng tài sản? Bằng lạc thú? Bằng tiêu thụ? Bằng lao động? Những sở thích tự phát và sơ đẳng của tôi là gì?
“Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời".
Có nhiều trình độ sống khác nhau. Pascal đã nói đến ba cấp độ của sự cao cả. Những sự cao cả của xác phàm, những sự cao cả của tinh thần và sau cùng sự cao cả của thánh thiện; “gom tất cả thân thể lại, người ta không thể làm ra một tư tưởng nhỏ; điều đó không thể làm được và tư tưởng thuộc về một trật tự khác. Gom tất cả thân thể và tinh thần lại người ta không thể rút ra một vận động của bác ái chân thật, điều đó không thể làm được và bác ái thuộc về một trật tự khác: trật tự siêu nhiên”. (Tư tưởng 585). Dĩ nhiên là có sự sống của thân thể, thuộc sinh học, đúng theo bản chất của nó là đẹp và mong manh. Một nhãn hiệu quần dài vừa qua đã treo một biểu ngữ quảng cáo với lý tưởng đó: "Bạn hãy để cho thân thể bạn phát biểu, người ta thấy mình đang ở trình độ nào! nhưng đời sống thật của con người là đời sống trí thức: chính tư tưởng phân biệt con người với thú vật. Và chúng ta còn có một đời sống tâm linh: điều quan trọng lúc đó là yêu thương chân thật.
Đức Giêsu không ngừng nghĩ đến “đời sống thánh thiêng, đời sống muôn đời" như Người nói.
“Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống".
Những thánh sử khác dùng một từ khác: "Này là mình Thầy”. Còn Gioan đã nói về sự nhập Thể đã sử dụng chữ “thịt” được dịch ra tiếng Việt là ‘người phàm’. “Và Ngôi Lời đã trở thành người phàm" (Ga 1,14). "Đức Kitô đã đến và trở nên người phàm” (1 Ga 4,2). Gioan nhấn mạnh nhiều trên tính hiện thực của Đức Giêsu: điều chúng tôi đã thấy tận mắt và tay chúng tôi đã chạm đến (1 Ga 1,1).
Người phàm theo nghĩa Kinh Thánh, trước tiên không phải là bản chất thể lý mà chúng ta còn Gọi là thịt, xác thịt; mà là toàn bộ "hữu thể sống", là ngôi Vị trọn vẹn "Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là tôi, tất cả sự sống tôi”. Khi nói về "thịt tôi đây", như trong câu này, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Người. Khái niệm này rất quan trọng: Đức Giêsu phải đi qua cái chết để chúng ta được nuôi sống bởi Người. Người phải đi qua cái chết chúng ta được sống.
Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?”
Không phải chỉ ngày nay Thánh Thể bị từ chối. Ngay từ ngày đầu tiên, người ta đã gào lên "điên rồ!" Ai bám víu vào sự lĩnh hội ngay lập tức của các từ ngữ sẽ không thể đạt đến điều Đức Giêsu muốn nói:
Đức Giêsu nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình".
Không nao núng. Đức Giêsu còn nói thêm! Người không tìm cách để tránh gây thương tổn. Cho đến lúc này, Người chỉ nói "ăn" thịt Người. Người nhấn mạnh thêm khi nói rằng phải "uống" máu Người. Sự ám chỉ thịt và máu nhắc nhớ đến nghi thức hiến tế chiên vượt qua nơi những người Do Thái. Đối với tâm thức của người Do Thái, uống máu là một điều cấm kỵ, một sự cấm kỵ thiêng liêng; không chỉ không được phép mà còn ghê tởm, phạm thánh. Ngay cả thịt các động vật phải để cho nhỏ hết máu trước khi được ăn bởi vì máu là sự sống (Lv 17,11-14; Đnl 12,23).
Nhưng thực tại văn hóa ấy, mà từ “máu” chuyển tải trong tư tưởng Thánh Kinh cho thấy rõ ràng không chỉ là thứ chất lỏng gồm các hồng cầu và bạch cầu. Máu mà Đức Giêsu nói đến, chính là sự mới sẽ đến từ cái chết của Người. Chúng ta chớ bao giờ quên rằng thực tại mầu nhiệm của Mình và Máu mà chúng ta tiếp nhận chính là "thân thể vinh quang và thiêng liêng của Đức Giêsu đã Chết và đã sống lại. Về vấn đề này, phải đọc lại sự khai triển của Thánh Phaolô: "Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên nhưng là một hạt trơ trụi, như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý người muốn: Giống nào hình thể nấy... Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát. mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí..." (l Cô-rin-tô 15,37-42).
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết".
Sự vượt qua phi thường của các từ ngữ mà chúng ta được mời gọi trong đức tin, không nên làm cho chúng ta đi đến một ý nghĩa chỉ thuốn là ẩn dụ hoặc làm dịu đi. Ở đây Gioan thình lình thay thế từ "phagein", "ăn" mà ngài đã dùng cho đến lúc này... bằng từ "trôgei” mang tính hiện thực nhiều hơn và có nghĩa là "nhai"! Mọi bản dịch đều ngần ngại đi theo thánh sử tới đó! Tuy nhiên, ở đây chúng ta có một ghi nhận văn hóa quan trọng: trong bữa vượt qua, con cái Israel được khuyên bảo phải nhai kỹ thức ăn như để hấp thụ thức ăn ấy tốt hơn. Chính Đức Giêsu ám chỉ đến tập tục đó. Và trong điều đó, không có gì là ma thuật; nhưng là một sự tượng trưng sâu xa rất hiện thực và rất có ý nghĩa bởi vì đời sống thiêng liêng của chúng ta được nuôi dưỡng và diễn tả bằng thân thể.
“Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống".
Từ "thật" được lặp lại hai lần. Đức Giêsu, nhất là trong Tin Mừng của Gioan không ngừng đi từ một thực tại hữu hình đến một thực tại khác sâu la hơn. Con người khát vọng sự viên mãn. Điều mà con người đã có kinh nghiệm về niệm vui tình yêu, sự sống làm cho con người ước mơ niềm vui sau cùng, không phức tạp, một tình yêu hoàn toàn làm thỏa mãn, môt đời sống không có sự chết. Lịch sử nhân loại là một lịch sự dài của những ước mơ bị tước đoạt những khát vọng thất bại. Đức Giêsu dám đề nghị sự sống thật, lương thực thật.
"Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy”.
Ở đây có một từ mà thánh Gioan hay dùng: ở lại! Đề tài này sẽ còn được phát triển dài vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, trong bài văn phúng dụ về cây nho:..Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
Một trong những lời tự phụ nhất mà một con người bình thường không bao giờ phát biểu. Lời gây vấp ngã, nếu đó không phải là lời của Thiên Chúa.
"Nhai thịt”; “uống máu"; khi Gioan viết những lời nàỵ các Kitô hữu đã cử hành bữa ăn mầu nhiệm Thánh Thể, tức thánh lễ. Thật vậy trong thánh lễ có hai dấu chỉ phân biệt: bánh, chất rắn phải ăn; rượu nho, chất lỏng phải uống. Và có hai lời phân biệt: "Này là Mình Thầy bị nộp" “Này là Máu Thầy đổ ra"
Thịt... Máu... Làm thế nào mà không nghĩ đến cách cụ thể mà Đức Giêsu đã chết trên thập giá! Thánh lễ đưa chúng ta về Gôn-gô-tha nghĩa là hy tế đổ máu của Đấng đã ban cho tất cả một cách tự do. Hiệp thông với Đức Giêsu, không thể chỉ là một phần của phút trong đó chúng ta hiệp nhất với Người. Điều đó cũng phải là toàn bộ thời gian và bề dày của đời sống chúng ta mỗi ngày được hiến dâng tình yêu.
Và đó là “ở lại” trong Đức Giêsu.
Và đó là "sự sống" theo Đức Giêsu: sự sống thật.
Sự hiệp lễ Thánh Thể chỉ có ý nghĩa khi nó biểu lộ và nuôi dưỡng sự hiệp thông trong cuộc sống. Và một cách cụ thể của mỗi người chúng ta biết rất rõ trong cuộc sống hàng ngày điều đó có ý nghĩa là gì.
"Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy".
Đây là một trong những công thức cô đọng nhất của tất cả Tin Mừng. Rõ ràng có vấn đề thần thánh hóa con người! Hình ảnh đồng hóa lương thực nói lên nhiều điều!trong mọi chu kỳ của tự nhiên, luôn luôn hữu thể lớp trên đồng hóa thân hữu thể của lớp dưới: thảo mộc biến đổi thành vật chất vô cơ; thú vật biến đổi thành các thảo mộc mà nó ăn và con người là đỉnh cao thấy rõ của sự biến đổi ấy mỗi ngày một hoàn thiện của sự sống. Tại sao sự biến đổi lại dừng lại ở đó? Tại sao Thiên Chúa lại không đồng hóa chúng ta với Người?
"Đây là bánh từ trời xuống không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
Sống! Sống dồi dào! Sống thánh thiêng. Chỉ thế thôi Bạn có muốn như thế không? Bạn hãy đến với ngày lễ của sự sống đời đời. Thánh Thể chiếm vị trí nào trong đời bạn? Bạn có đói khát Thiên Chúa không? Người ta không ăn Thánh Thể như những người Do Thái ăn bánh man-na đi làm dịu cơn đói của thể xác. Đây là một cơn đói thiêng liêng, xuyên qua một dấu chỉ của thể xác.
69. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
''Chóp đỉnh và Nguồn mạch'' của Giáo Hội là Bí tích Thánh Thể
Nếu chiều thứ năm Tuần Thánh, Giáo Hội cử hành thánh lễ Tiệc Ly, kỷ niệm việc Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với loài người mọi ngày cho đến tận thế, thì hôm nay, Giáo Hội long trọng cử hành thánh lễ kính Mình và Máu Chúa Giêsu nơi Bí Tích Thánh Thể. Khi cử hành như thế, Giáo Hội cảm nghiệm và xác tín rằng: Bí tích Thánh Thể chính là trung tâm trong lịch sử của nhân loại, là "nguồn mạch" và “chóp đỉnh” của mọi sinh hoạt trong phụng vụ của Giáo Hội, bởi vì Thánh Thể là lương thực cần thiết cho sự sống và sứ mạng của Giáo Hội.
Thật là ý nghĩa và tốt đẹp biết bao khi các tín hữu trong ngày Lễ này, quy tụ với nhau chung quanh Thánh Thể, để tôn thờ Người hiện diện trong Bí tích cao trọng qua các hình thức đạo đức như chầu và rước kiệu Thánh Thể để diễn tả lòng đạo đức, sốt sắng tham dự Thánh lễ và rước Mình và Máu Thánh Chúa xách xứng đáng, để thể hiện niềm tin vào Chúa Giêsu hằng sống và nói lên niềm vui vì sự hiện diện của Ngài trong nhân loại và trên cuộc đời.
1. Sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể
Trong Giáo Hội có bẩy Bí tích, nơi các Bí tích này đều có sự liên hệ mật thiết với nhau làm nên tính toàn thể trong mầu nhiệm cứu chuộc của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Bí tích cao trọng nhất và vĩ đại nhất vẫn là Bí tích Thánh Thể. Vì thế, Bí tích này được gọi là: “Bí tích của các Bí tích”: Thật vậy: “Tất cả các Bí tích khác đều quy hướng về Bí tích Thánh Thể như về cùng đích” (GLHTCG số 1211), và đời sống đức tin của chúng ta nơi Bí tích Thánh Thể như là cứu cánh của mình.
Vì thế, không có kinh nào, nghi thức nào và tổ chức nào cao trọng, quý mến cho bằng Thánh lễ, bởi vì trong Thánh lễ sẽ diễn ra một cuộc trao đổi kỳ diệu dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, làm cho bánh và rượu trở nên Thịt và Máu Chúa Giêsu qua lời truyền phép của linh mục. Bí tích Thánh Thể nói lên sự hiện diện thực sự và trọn vẹn của Chúa Giêsu. Cũng qua Thánh lễ, cùng với của lễ tuyệt hảo là Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, dâng lên Thiên Chúa Cha lời chúc tụng, tạ ơn và cầu xin.
Nơi Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả tình yêu trọn vẹn khi trao hiến Thịt và Máu của mình làm của ăn, của uống cho nhân loại. Qua Bí tích Cực Thánh này, Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh, hình rượu để trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được lớn mạnh không ngừng.
Chính vì thế, Bí tích Thánh Thể là "Nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống kitô hữu" (x. LG 11). "Hy lễ Thánh Thể, tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa, tiếp diễn mãi mãi Hy Lễ Thánh Giá, là tuyệt đỉnh và nguồn suối của tất cả phụng tự và đời sống Kitô giáo. Nhờ Hy Lễ Thánh Thể, sự hiệp nhất của dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất. Bởi đấy, các Bí Tích khác và mọi hoạt động tông đồ của Giáo Hội đều quy hướng về và liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thánh Thể" (Giáo Luật, số 897). Thật vậy, mỗi lần Hy tế Thập giá được cử hành trên bàn thờ, nhờ đó “Chúa Kitô, Chiên vượt qua của chúng ta chịu hiến tế (x. 1 Cr 5,7), thì công cuộc cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (x. LG, số 3).
Như thế, tham dự và cử hành Bí tích Thánh Thể trong khuôn khổ Thánh lễ Tạ Ơn là việc vô cùng quan trọng trong đời sống của Giáo Hội và của mọi người tín hữu Chúa Kitô, vì đây chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (x. LG, số 11) như Giáo Hội dạy.
Mỗi khi chúng ta cử hành Bí tích Thánh Thể hay tôn sùng Bí tích cao trọng này cách xứng đáng, ấy là lúc chúng ta tin nhận Bí tích Thánh Thể là “nguồn mạch và tột đỉnh” của đời sống kitô hữu. Nói cách khác, toàn thể đời sống tâm linh của kitô hữu cũng như mọi cử hành phụng vụ của Giáo Hội được bắt nguồn từ Bí Tích Thánh Thể.
Khi xác tín như thế, chúng ta cùng nhau hướng mục đích của cuộc đời mình về Chúa Giêsu như một sự quy chiếu đến cùng đích tối hậu của cuộc sống nơi mình. Đồng thời, mỗi khi cử hành và tôn sùng Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội mời gọi con cái mình trở nên giống Chúa Giêsu ngày càng mật thiết hơn và sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống hằng ngày.
Như thế, đời sống tâm linh của chúng ta phải là con đường hai chiều. Con đường này khởi đi từ Bí tích Thánh Thể, rồi sau đó lại đưa dẫn chúng ta trở về với Thiên Chúa trong Bí tích này. Mối liên hệ trên được diễn ra trong tình yêu. Chính nhờ tình yêu, mà chúng ta cũng kết hợp với toàn thể Giáo Hội, là Nhiệm Thể Đức Kitô. Để rồi nhờ hồng ân Bí tích Thánh Thể, chúng ta thương yêu tha nhân như chính mình vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa.
2. Sống mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống người kitô hữu
Đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Mane Nobiscum Domine – lạy Chúa, xin ở lại với chúng con” đã nhấn mạnh khi viết: “Mỗi lần ta dự phần vào Mình và Máu Người, chúng ta đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình niềm hân hoan mình đã cảm nghiệm. Việc gặp gỡ riêng tư với Chúa Kitô cách thường xuyên được tăng triển và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể khơi lên trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu một lời mời gọi khẩn thiết cho việc làm chứng và rao giảng Tin Mừng” (Gioan Phaolô II, Mane Nobiscum Domine, số 24).
Người kitô hữu chúng ta không thể sống khác đi được. Nếu đi ngược lại, chúng ta đánh mất chính mình vì đã mâu thuẫn nội tại.
Vì thế, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, nhất là rước Mình và Máu Chúa vào trong linh hồn chúng ta, hẳn là hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi để trở nên thánh thiện, trong sạch hầu xứng đáng với Mầu Nhiệm ta đã lãnh nhận.
Thông hiệp vào Mầu Nhiệm Cực Thánh này, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để đi vào tận sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa để cảm nghiệm được tình yêu tự hiến nơi Chúa Giêsu, Đấng đã “đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, để qua đó, mời gọi chúng ta noi gương Ngài, phục vụ anh chị em mình với sự khiêm nhường trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin Chúa ban cho chúng con thêm lòng yêu mến Chúa và siêng năng tham dự Thánh lễ, rước Mình và Máu Chúa cách xứng đáng; đồng thời luôn xác tín Bí tích Thánh Thể chính là “nguồn mạch và chóp đỉnh” của đời sống Giáo Hội và nơi mỗi người chúng con. Amen.
70. Hy Lễ Cứu Độ – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
1. Đất, nước, đá
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã dùng đất nắn nên hình hài (St 2,7).Từ đó Tổ Tông loài người mang tên Đất (St 4,25; 5,1-3). Ađam, tiếng Do thái nghĩa là đất.
Để cứu Dân Ngài thoát khỏi nô lệ Ai cập, vượt qua Biển Đỏ khô chân, lập giao ước Sinai với dân, Thiên Chúa đã dùng Môsê. Môsê, tiếng Do Thái nghĩa là nước (Xh 2,10)
Khi xây dựng Giáo Hội, Thiên Chúa lại dùng một con người đánh cá tầm thường, khi thì hùng hổ tuốt gươm bảo vệ Thầy Giêsu (Lc 22,50), khi thì sợ hãi chối quanh trước một đầy tớ gái (Lc 22,56-57). Người ấy Chúa Giêsu đặt tên là Đá (Mt 16,18). Kêpha, tiếng Do Thái nghĩa là đá.
Như vậy, lịch sử sáng tạo,lịch sử cứu độ quyện đan với những cái tên gọi tầm thường: Đất, Nước, Đá.
2. Bánh và rượu
Chúa Giêsu đã dùng bánh rượu làm nên Mình và Máu Thánh của Người. Bông lúa và trái nho là những sản phẩm thông thường và cần thiết nhất mà ruộng đất cống hiến cho con người. Bánh và rượu có thể tầm thường nhưng lại là những gì gần gũi và cần thiết nhất cho cuộc sống hàng ngày của con người. Chính Chúa Kitô đã muốn trở nên gần gũi và cần thiết đó. Người muốn bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người để nuôi sống chúng ta hàng ngày.
Tình yêu Chúa Kitô làm nên sáng kiến tuyệt vời. Vì yêu thương hết mọi người, Chúa đã muốn trở nên bé nhỏ tầm thường trong thân phận một người thợ mộc ở Nazareth để có thể ở giữa mọi người, từ kẻ hèn cho đến người sang trọng, từ người thánh thiện cho đến kẻ tội lỗi, từ người Do thái cũng như dân ngoại. Để trở thành của ăn nuôi mọi người,Chúa đã muốn trở thành tấm bánh ly rượu. Chỉ khiêm tốn và giản dị thế thôi để mọi người có thể ăn, chứ không phải là một bữa ăn đắt giá dành cho bậc quyền quý sang giàu.
Khi sinh ra đời, Chúa đã chọn cái chuồng bò. Khi sống ở Nazareth Chúa đã muốn làm một người thợ giữa những người lao động khác. Khi bắt đầu rao giảng tin mừng, Chúa đã chọn những người tầm thường trong xã hội làm bạn đồng hành, làm bạn tâm phúc thừa kế sự nghiệp. Trong giờ sau hết, Chúa đã chọn tấm bánh ly rượu, chọn khung cảnh một bàn ăn giữa bạn bè, chọn một tư gia để Tạ Ơn, trong đó người vừa là chủ tế vừa là của lễ. Và Chúa muốn Giáo Hội tiếp tục lễ Tạ Ơn theo cách thức của Người bằng những phương tiện đơn sơ là tấm bánh ly rượu.
Chỉ cần một bông lúa, một chùm nho đủ làm nên tấm bánh ly rượu. Không cần cái gì cao sang đắt giá, to lớn như con bò, con bê, con cừu mà đạo Do thái vẫn tế lễ trong đền thờ. Với tấm bánh ly rượu, Chúa Giêsu còn muốn cho của lễ Tạ Ơn phải chính là sản phẩm hoa màu ruộng đất, lao công con người, của ăn thức uống căn bản và phổ biến nhất của con người.
Chúa Giêsu là bông lúa, là chùm nho mọc lên từ ruộng đất thế gian, nơi Người nhập thể làm người. Người đã biến đổi trong thân thể Người là Con Thiên Chúa và cũng là con loài người tất cả tinh hoa của ruộng đất, trở thành bông lúa chùm nho. Từ bông lúa bị nghiền nát, từ chùm nho bị ép, nghĩa là từ cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã trở thành tấm bánh, thành ly rượu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại. Chối từ cám dỗ của Satan hoá đá thành bánh, nhưng Chúa Giêsu đã tự ý biến đổi đời mình thánh Tấm Bánh để nuôi dưỡng con người.
“Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống”. Chắc hẳn không ai hiểu câu nói này theo kiểu các yêu tinh muốn ăn thịt Đường Tăng, trong truyện Tôn Ngộ Không. Yêu tinh quyết tâm bắt cho được Đường Tam Tạng để ăn thịt. Nó tin rằng ăn thịt vị cao tăng này thì sẽ được trường sinh bất tử.Tôi nghĩ rằng giả như có ai giết Chúa Giêsu để ăn thịt Người (theo kiểu các yêu tinh ăn thịt Đường Tăng) thì người ấy vẫn chết như thường,và về mặt tâm linh thì cũng chẳng được ích lợi gì. Vì câu nói“Thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” của Chúa Giêsu không thể hiểu theo nghĩa vật chất. “Thịt và Máu” ở đây không phải là thịt và máu huyết vật chất. “Của ăn và của uống” ở đây cũng không phải là của ăn và của uống vật chất. Những từ đó phải hiểu theo nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu chính là lương thực đem lại sự sống và sự phát triển tâm linh thật sự.
3. Hy lễ cứu độ
Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là một hy lễ dâng lên Chúa Cha. Trong hy lễ này, Người vừa là tư tế vừa là lễ vật. Trên Thập giá, Chúa Giêsu đã đổ máu ra. Bằng cái chết cứu độ, Người đã thiết lập giao ước mới. Tự nguyện làm “Con Chiên Vượt Qua” bị sát tế, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh thể để lễ vật bị sát tế ấy trở nên của ăn tâm linh nuôi dưỡng con người.
Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.
Thánh thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước, Máu của Đấng Cứu Thế đổ ra trên thập giá. Bởi đó Thánh thể và Thánh giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh giá, Thánh thể không có ý nghĩa. Không có Thánh thể, Thánh giá chỉ là thất bại.
Thánh thể và Thánh giá Chúa Kitô là hai cớ vấp phạm cho trí tuệ con người hơn 20 thế kỷ qua. Thánh giá Đức Kitô là sự điên rồ đối với người Hy lạp đi tìm sự khôn ngoan, là dại dột đối với người Do thái tìm dấu lạ và mãi mãi là mầu nhiệm thẳm sâu với lý trí.
Thánh thể, bánh rượu nên Mình và Máu Chúa Kitô. Sự hiện đích thực của Con Thiên Chúa, làm lương thực vĩnh cửu là mầu nhiệm khó hiểu đối với đầu óc con người không có niềm tin. Khi nghe lời tuyên bố của Chúa Giêsu: “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống cho sự sống muôn đời”, người Do thái phản ứng rất mạnh: “Làm sao ông có thể lấy thịt máu của ông cho chúng tôi ăn được?” (Ga 6,52); ”Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42). Trước phản ứng dữ dội của họ, Chúa Giêsu không rút lời, không cải chính, nhưng còn giải thích và khẳng định thêm “Ai ăn thịt và uống máu Tôi,thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54); sâu xa hơn là con người được đi vào sự kết hiệp mật thiết với Người: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở lại trong Tôi và Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56). Trước mạc khải này, nhiều môn đệ liền nói: “Lời này chướng tai qua, ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Từ lúc đó, “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa” (Ga 6,66).
Như thế, người ta chỉ nhìn nhận Chúa Giêsu về phương diện con người, phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu cho dân chúng và các môn đệ thấy rõ mầu nhiệm Phục sinh trong Bánh Hằng Sống “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống.Thần khí mới làm cho sống,chứ xác thịt có ích gì” (Ga 6,63). Quả thật, chúng ta chỉ có thể hiểu được Bí tích Thánh thể qua mầu nhiệm Nhập Thể, Tử Nạn, Phục Sinh mà thôi.
Vậy có thể nói, cả mầu nhiệm Đức Kitô đều hội tụ trong Bí tích Thánh thể. Từ công cuộc nhập thể làm người, rao giảng tin mừng, đến khổ hình thập giá, sống lại vinh quang; Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha và ban lương thực thần thiêng đều hàm chứa trong Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh thể gói trọn cuộc đời Chúa Kitô và không có gì thuộc về Người mà không hội tụ trong Bí Tích Thánh Thể.
Từ Thánh giá đến Thánh thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh giá đến tình yêu Thánh thể. Bí tích Thánh thể là một sáng kiến của tình thương Thiên Chúa. Của ăn vật chất chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng, bảo tồn sự sống hữu hạn của con người. Để sống đời đời, con người được mời gọi ăn và uống Thịt Máu Chúa, nguồn ơn cứu độ nhân loại.
Đất nước đá cũng như bánh và rượu là những thực tại tầm thường trong cuộc sống, nhưng một khi đã gắn với lịch sử cứu độ là nó trở nên những điều kỳ diệu.
Cuộc sống chúng ta với Thiên Chúa cũng thế. Sống đời sống thiêng liêng, siêu nhiên một cách tự nhiên. Sống đời sống tự nhiên một cách thiêng liêng, siêu nhiên.
Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa đã cho con hàng ngày được ăn một miếng Bánh đơn sơ, nhỏ bé để con được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa Vô Cùng. Xin cho cho tâm hồn con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.
71. Bàn tiệc Nước Trời – Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Có nhiều biến ngữ bởi vì những con người, chúng ta nhìn lại giá trị của bàn tiệc mà Chúa Giêsu mời gọi và từ đó nhận ra việc cử hành bữa tiệc:
Bàn tiệc Giao hòa:
"Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giêsu dùng bữa với mình. Đức Giêsu đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên." (Lc 7, 36 - 38)
Có phải chăng bàn ăn là để mua chuộc sự tha lỗi, chúng ta có thể thường suy nghĩ như vậy và hành sự như thế. Để tiến tới một bàn tiệc giao hòa, trước tiên hối nhân cần nhìn ra mình là người tội lỗi, như trường hợp của Gia Kêu, như trường hợp của những người biệt phái, thu thuế, Pha - ri - sêu, những người tội lỗi:
Đức Giêsu đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. (Lc 11, 37)
Một ngày sa-bát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa (Lc 14, 1)
Khi Đức Giêsu đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. (Mt 9, 10)
Những kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: "Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi! " (Mc 2, 16).
Bàn tiệc giao hòa cũng là bàn tiệc Thánh Thể, trong bàn tiệc này, đối với những người không mắc tội trọng, họ cần được đón nhận để chữa lành các tội nhẹ và tăng sinh lực chống trả những cám dỗ của lỗi nặng. Đón nhận Chúa trong bí tich Thánh Thể, bởi vì Chúa muốn đến nơi ngôi nhà tâm hồn của người đón nhận. Dù sao đi nữa đón nhận Chúa vào cư ngụ trong ngôi nhà tâm hồn con người chẳng bao giờ con người dám nói là xứng đang nhưng chỉ xin Chúa và lòng thương xót của Người đến cư ngụ.
Thứ đến việc giao hòa và sự thành tâm trở về:
"Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! " Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! " Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất." (Lc 19, 5 - 10)
Bàn tiệc giao hòa chủ đích là biểu lộ niềm vui của con người được cứu độ:
"Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9, 13)
Tiệc đãi khỏan mừng không theo cách của người đời, Chúa Giêsu đến dự tiệc để chung vui với niềm vui của con người khi được hóan cải. Việc hóan cải không ngừng cũng là lời mời gọi đối với người đón nhận Bí Tích Thánh Thể, Ngài hiện diện cách thực sự cả hồn lẫn xác với thân thể Phục Sinh, Ngài đến nhà chúng ta như xưa đã đến nhà ông Giakêu, Matthêu, những người tội lỗi. Ngài đến để chữa lành, để kêu gọi những người tội lỗi. Chính vì thế, đón nhận Chúa là hóan cải không ngừng, được đổi mới không ngừng.
Bữa tiệc của những tấm lòng khiêm cung:
Trước long nhan, đừng lên mặt kiêu kỳ, chớ đứng vào chỗ của hàng vị vọng. Thà được người ta bảo: "Xin mời ông lên trên!"còn hơn bị hạ xuống trước mặt người quyền cao chức trọng. (Cn 25, 6-7).
"Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên." (Lc 14, 7 - 11)
Người ta thường quan trọng chỗ ngồi trong bữa ăn, chỗ ngồi quan trọng vì người ngồi hay người ngồi vì chỗ quan trọng. Đôi khi, phân biệt cũng làm ra những tách biệt, đánh mất giá trị của sự hiện diện, ý nghĩa của bữa tiệc: "Chúa Giêsu đồng bàn với những kẻ tội lỗi" (Mt 9, 11). Sự phân biệt đã tạo ra sự tách biệt nên thường xảy ra những tranh giành "Một miếng giữa làng hơn cả sàng xó bếp", bữa tiệc trở thành nơi đua nhau vào chỗ danh giá, bàn tiệc trở thành nơi quảng bá sự giàu có của chủ nhân "giàu sang sinh lễ nghĩa", đánh mất nội dung của những bữa tiệc tình thân nối kết với nhau.
Bữa tiệc khiêm cung Chúa Giêsu muốn làm gương cho mọi người "Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em" (1 Ga 3, 16). Mỗi người tự chết nơi mình một ít khi đến với nhau mời có thể làm nên một bữa tiệc hiệp thông. Đó là nơi chia sẻ tình thân chứ không là nơi để hơn thua với nhau như đã từng làm, từng xảy ra.
Tiệc cưới:
"Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình" (Mt 22, 1).
"Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!" (Lc 12, 15)
Nước Trời được sánh ví như tiệc cưới, trong đó con người được dự vào bàn tiệc "Chiên con" và nhờ đó "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7, 14).
Như vậy, bữa tiệc Nước Trời mà con người được mời gọi tham dự là tham dự vào sự chết - sự sống của Đức Giêsu Kitô - đồng hình đồng dạng với Ngài - Từ bỏ chính mình và vác thập giá mình theo Chúa. Từ bàn tiệc cưới Nước Trời thiên quốc con người được mời gọi hưởng nếm bàn tiệc Thánh Thể trong Giáo Hội lữ hành để vững bước tiến về thiên quốc.
Bàn tiệc bác ái:
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại." (Lc 14, 12 - 14).
Trong những lời nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta, Mẹ đãnói: "Khi bạn chiêm ngưỡng Thánh Giá, bạn cảm nghiệm Thiên Chúa đã yêu thương bạn dường bao. Khi bạnchiêm ngưỡng Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, bạn cảm nghiệm Thiến Chúa đang yêu bạn dường nào". Thực tại, của bàn tiệc Thánh Thể và chiêm ngưỡng Thánh Thể là diễn tiến trong thì hiện tại. Ở bên Chúa, chiêm ngưỡng Chúa hiệndiện trong Bí tích thánh Thể, ước muốn mãnh liệt nhất là được Chúa lôi cuốn trong hiện tại, mọi sự đã qua, Chúa đã quên mất, mọi vịêc tương lai sắp tới, tùy tuộc vào Ngài, chỉ có hiện tại, con người đáng được Chúa yêu thương. Chính những giây phút hiện tại này mà mẹ Têrêsa đã gặp Chúa trong những người tội lỗi, nơi những con người bị bỏ rơi trong những thân phận thấp hèn. Hiện tại là những thực tại đau thương, quên mất những quá khứ lầm lỗi, chỉ thấy hiện tại cần trợ giúp để tương lai của họ thuộc về Chúa.
Bí tích Thánh Thể mở ra cho con người chiêm ngắm sự cao cả của Thiên Chúa, để con người cũng sống với nhau bằng tình yêu phó nộp ấy.
"Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. (Lc 6, 28 - 35).
Bàn tiệc Lazaro. (Lc 16, 20 - 31)
"Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm! Ông Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
"Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này! Ông Áp-ra-ham đáp: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."
Sự kiện của người giàu có bởi vì không phải tội giàu của ông, nhưng giàu có để chia sẻ cho người khác, chứ không thu tích cho mình và rồi trở nên án phạt.
Bí tích Thánh Thể là được diễn tả sự phong nhiêu như cách Gioan trình bày, phép lạ bánh ra nhiều. Cần có để cho chứ không để tích trữ riêng cho mình. Có nhiều như trong phép lạ bánh ra nhiều lại khởi sự từ cái ít. Vài chiếc bánh, vài con cá, nhưng có tấm lòng, người có tấm lòng trao ban những gì mình có cho người khác là bắt đầu để cho Chúa thực hiện những phép lạ.
Thực ra, khi tham dự cử hành Bí Tích Thánh Thể, chúng ta có thể nghiệm ra nhiều điều trong sự sống phong nhiêu, bắt nguồn từ hành vi cơ bản và đơn giản. Đó hành vi cử hành. Cử hành là một cách làm việc mới với tâm tình hiến dâng, người ta có thể hiến dâng rất nhiều từ những lao tác thường ngày như chất liệu từ bao giọt mồ hôi làm nên tấm bánh miến, từ bao lao công làm nên chén rượu để được biến đổi. Chúng ta đừng làm việc như công việc phải làm, hãy hòan thành công việc như đang cử hành, không có những bàn thờ tại cơ xưởng, nơi làm việc trong gia đình, sẽ không có bàn tiệc dâng trên bàn thánh. Chúng ta sẽ nhận ra rõ ràng dấu chỉ của bí tích mà chúng ta tuyên xưng: "đây là mầu nhiệm đức tin", đó là một thực tại đang được biến đổi, nếu chúng ta sống tất cả như việc cử hành.
72. Bí Tích Thánh Thể
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầm bánh trong tay và nói trước mặt các môn đệ: "Đây là Mình Thầy", lập tức mọi người hiểu rằng tấm bánh kia là thân thể Chúa, nghĩa là tấm bánh kia, bên ngoài có hình thù, mầu sắc, hương vị của bánh nhưng bản thể của bánh đã biến sang bản thể của Thiên Chúa. Làm sao có thể như thế được? Đối với Thiên Chúa thì không thành vấn đề, bởi vì Thiên Chúa đã từng làm cho có man-na đầy tràn ở trong hoang địa, và nước trở thành rượu ngon ở tiệc cưới Ca-na, thì việc biến bánh ra Mình Chúa đối với Chúa là chuyện dễ dàng, dễ dàng đến độ Ngài chỉ cần một lời nói "Đây là Mình Thầy". Có ai trong chúng ta dám nói tôi là thế này tôi là thế nọ không? thí dụ: "Tôi là ánh sáng". Chúng ta chỉ có thể nói: "Tôi có ánh sáng" hay "tôi chế ra ánh sáng La-de", chứ không ai có thể nói: "Tôi là ánh sáng". Chỉ có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng ra ánh sáng, mới có nền tảng mà tuyên bố "Tôi là ánh sáng". Cho nên, khi Chúa nói: "Đây là Mình Thầy" là một câu nói quả quyết, một câu nói quả quyết sự đồng nhất.
Một số người chối bí tích Thánh Thể đã cho rằng: câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" chỉ có ý nghĩa tượng trưng, ám chỉ một việc khác. Chúng ta có thể trả lời như sau: Để có ý nghĩa tượng trưng, phải có một trong bốn ý sau đây: Thứ nhất, một cái gì tượng trưng rõ ràng, chẳng hạn khi chúng ta chỉ vào pho tượng thánh Giuse mà nói: "Đây là thánh Giuse". Thứ hai, một kiểu nói dụ ngôn, chẳng hạn như hạt giống gieo là lời Chúa. Thứ ba, một ý nghĩa tượng trưng tự nó, chẳng hạn như tre trúc trượng trưng cho lòng ngay thẳng, bông huệ tượng trưng cho sự trinh khiết. Thứ tư, một bản văn ám chỉ tới một chuyện khác, chẳng hạn I-sa-ác ám chỉ Chúa Giêsu. Lời truyền phép của Chúa Giêsu không ở trong bốn trường hợp đó. Tự bản chất và công dụng của bánh không bao giờ ám chỉ đến thân thể. Chúa cũng không cắt nghĩa gì thêm, vì quá rõ ràng, đến nỗi người Do Thái lấy làm chướng tai, không nghe được và bỏ đi. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước không bao giờ dùng tấm bánh để ám chỉ về người ta, cho nên, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" phải hiểu là một chân lý quyền năng của Chúa.
Như vậy, câu Chúa nói "Đây là Mình Thầy" là Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đây là điều chắn chắn, là chân lý tuyệt đối, nhắc nhở chúng ta những điều quan trọng sau đây:
Thứ nhất, Chúa Kitô hiện diện thật sự trong phép Thánh Thể. Chúa Kitô ở trong phép Thánh Thể là Chúa Kitô vinh hiển, nhân tính Ngài hiện diện trong bí tích đó không còn đau khổ, buồn phiền, cô đơn nữa. Những kiểu nói Ngài cô đơn, vắng lặng trong nhà tạm chỉ là để nhắc nhở thái độ dễ vô ơn, thờ ơ và xa vắng của chúng ta đối với Chúa.
Thứ hai, Chúa Kitô hiện diện trong phép Thánh Thể là trạng thái hết sức khiêm hạ vì thương yêu loài người. Chúa âm thầm tự trở nên một tù nhân giữa loài người. Phải có một tình yêu cao độ chúng ta mới hiểu được sự ở lại trong khiêm hạ này. Cũng trong sự khiêm hạ âm thầm này mà có biết bao phạm thượng, lộng ngôn xúc phạm đến Chúa qua bao thế hệ. Đó cũng là lý do nữa nhắc nhở chúng ta thêm lòng kính mến, tôn thờ bí tích Tình yêu tột đỉnh này.
Thứ ba, Chúa Kitô với hai bản tính đều ở trong bánh và rượu. Ở mỗi hình thái đều có đủ Chúa Kitô thật. Nhưng chúng ta nên nhớ: Chúa Kitô ở trong hình thái bánh rượu không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian hay trương độ, trọng lượng như xác thịt người phàm nữa. Ngài ngự trong hình bánh rượu, Ngài nghe, biết, thấy chúng ta cầu nguyện, không bằng con mắt xác thịt như chúng ta mà bằng thần tính của Thiên Chúa. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng đến cầu nguyện với Chúa trong Thánh Thể.
Chúng ta hãy nhớ và thực hành hai điều sau: Thứ nhất, mỗi khi tham dự thánh lễ, chúng ta hãy cố gắng rước lễ, bởi vì chả lẽ đi dự tiệc mà lại không ăn tiệc? Chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để rước lễ. Nhưng cũng đừng vì một đôi khuyết điểm hay yếu đuối nhỏ mà chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng rước Chúa. Thật ra khi rước lễ, tình yêu chúng ta dành cho Chúa Giêsu đủ để Ngài tha thứ những tội nhẹ và khuyết điểm của chúng ta.Thứ hai, ngoài thánh lễ, Chúa vẫn ở với chúng ta trong nhà tạm Vì thế, mỗi khi vào nhà thờ chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa, chúng ta cúi đầu hay bái gối với một lòng biết ơn và kính trọng, rồi chúng ta bắt đầu cầu nguyện với một lòng tin sâu xa: Chúa Kitô đang hiện diện thực sự trước chúng ta, đang lắng nghe chúng ta, đang muốn ban ơn cho chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam