Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1444480
MẠNH DẠN TUYÊN XƯNG
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Vậy đừng sợ chúng”: Chữ “vậy” liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
“Bị bại lộ … bị thấu biết”: Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ… Bước đầu của “các điều mới” do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa… thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
“Những kẻ giết được xác”: Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con”: lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
“Ta cũng xưng kẻ ấy ra”: Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: “Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17…). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ”. Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
– Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn … Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng”.
– Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
– Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
– Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
CHÚA NHẬT MÌNH VÀ MÁU CHÚA KITÔ- A
ĐỪNG SỢ- Chú giải của Fiches Dominicales
Được tiếp đón hay bị từ chối như Thầy…
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc là Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng ” Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ – căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ – Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!… Đừng sợ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”. Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi . “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian . . . Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn . . .
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
Im hay nói (G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên “mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN- A
LỜI CHỨNG CỦA CÁC CON (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy mời gọi chúng ta suy niệm những bổn phận mà các sứ giả Thiên Chúa phải chu toàn, dù họ là những ngôn sứ, tông đồ, nhà truyền giáo hay đơn giản là những môn đệ. Không được lặng thinh, hãy làm chứng và đừng bao giờ sợ hãi. Thiên Chúa ở cùng họ.
Gr 20: 10-13
Bài Đọc I trích dẫn “Lời Trần Tình” cuối cùng của Giê-rê-mi-a. Trong cảnh bị bách hại, ngôn sứ Giê-rê-mi-a kêu cầu cùng Thiên Chúa, phó thác cho Ngài nguyên nhân của mình và hát lên niềm vui của mình.
Rm 5: 12-15
Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma. Phần trích dẫn hôm nay gợi lên phản đề của triều đại ân sủng được Đức Giê-su thiết lập, phá hủy sự thống trị của cái chết và tội lỗi kể từ nguyên tổ A-đam.
Mt 10: 26-33
Tin Mừng trích dẫn “diễn từ về sứ vụ” của Đức Giê-su trong đó thánh Mát-thêu tập hợp những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài nhắm đến sứ mạng tương lai của họ: nói công khai và không sợ hãi, luôn luôn tuyên xưng Ngài là Chúa bất chấp những bách hại.
BÀI ĐỌC I (Gr 20: 10-13).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những dung mạo hấp dẫn nhất của trào lưu ngôn sứ. Ông thi hành sứ mạng của mình ở Giê-ru-sa-lem vào cuối thế kỷ VII và đầu thế kỷ VI tCn, nghĩa là vào thời kỳ đặc biệt bi thảm đối với quê hương ông: thời kỳ vương quốc Giu-đa bị họa diệt vong, kinh thành Giê-ru-sa-lem và Đền Thánh bị quân Ba-by-lon tàn phá (598-587 tCn).
Vốn bản tính nhút nhát, một tâm hồn rất đa cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận sứ mạng loan báo những tai họa, công bố những sứ điệp đi ngược lại với những viễn kiến của mọi người, rao giảng ăn năn sám hối cho các vị lãnh đạo và dân chúng, những người nầy cứng lòng tin không chịu nghe ông.
Trong tác phẩm của mình, thỉnh thoảng ông bày tỏ những phàn nàn, những xao xuyến, thậm chí những nghi ngờ nữa. Những lời trần tình tản mạn nầy được các nhà biên soạn tập hợp lại dưới nhan đề : “Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” (11: 18-23; 12: 1-6; 15: 10 và 20; 17: 14-18; 18: 18-23; 20: 7-18). Vào Chúa Nhật nầy, chúng ta đọc Lời Trần Tình sau cùng.
Đơn độc một mình:
Chính vào thời kỳ thế lực Át-sua hoàn toàn suy yếu mà Giê-rê-mi-a loan báo những cuộc tấn công gây tang tóc từ phía một kẻ thù lân bang. Tuy nhiên, những lời loan báo của ông chẳng được ai quan tâm.
Khi Giê-ru-sa-lem bị vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-no-so xâm chiếm vào 598 tCn, và một phần dân cư bị dẫn đi lưu đày, vị ngôn sứ tiên báo rằng cuộc lưu đày sẽ dài lâu, nhưng đó sẽ là cuộc thử thách có lợi, phong phú về phương diện tinh thần. Người ta gán cho ông có tinh thần chủ bại.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn tiên báo những tàn phá mới càng trầm trọng hơn. Vua Giê-hô-gia-kim xé những sấm ngôn của vị ngôn sứ ra thành từng miếng và ném vào lò lửa. Ngôn sứ Giê-rê-mi đập vỡ chiếc bình gốm để cảnh tỉnh đồng bào ông rằng đó sẽ là số phận của Giê-ru-sa-lem. Ông trở nên trò cười cho mọi người. Một ngày kia, trong Đền Thờ, ông công bố rằng những tàn phá sẽ sớm xảy đến. Người ta bắt ông, đánh đòn ông, xích ông lại. Một lần khác, người ta ném ông vào một cái giếng cạn đầy bùn.
Đám đông chán ngấy vị ngôn sứ loan báo tai họa nầy: “Kìa lão “Tứ phía kinh hoàng !, hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi !”. Gia đình của ông, bạn bè của ông, những người đồng hương của ông đều âm mưu hãm hại ông.
Ở Giê-ru-sa-lem, có những ngôn sứ khác đồng thời với ông tuyên sấm bình an, nhưng họ không được Đức Chúa ủy quyền. Giê-rê-mi-a biết rằng những lời của ông thì chân thật vì chúng phát xuất từ Thiên Chúa. Ông sống trước những biến cố khủng khiếp mà ông tiên báo và ông cảm thấy một nỗi phiền muộn mênh mông.
Thiên Chúa sẽ báo oán cho những phận hèn.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a chỉ nương tựa vào một mình Đức Chúa. Vốn là một con người cầu nguyện và nội tâm, ngôn sứ không ngừng đối thoại với Thiên Chúa; ông phó thác công việc của ông cho Ngài, vì biết rằng Đức Chúa là Đấng bênh vực những người đơn côi cô thế và phận hèn. Vị ngôn sứ mong ước được thấy đối thủ của ông phải hổ ngươi bẽ mặt: “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là nỗi ô nhục không thể nào quên”.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a diễn tả nhiều lần niềm ước mong nầy. Nhưng ông không bao giờ có ý định trả thù đối với bất kỳ cá nhân nào. Ông hoàn toàn phó thác vào duy chỉ một mình Thiên Chúa. Thỉnh thoảng ông thôi phàn nàn để cầu bầu cho những kẻ thù của ông.
Niềm hoan hỉ:
“Lời Trần Tình của Giê-rê-mi-a” kết thúc với một tiếng reo vui, tràn đầy niềm tín thác, vì ông tin chắc rằng lời nguyện xin của ông sẽ được nhậm lời: “Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo”.
Khi thành thánh Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lon đánh chiếm trong cảnh hỗn loạn vào năm 587 tCn, ngôn sứ Giê-rê-mi-a được nể trọng và không phải bị dẫn đi lưu đày. Trước cảnh tang thương lớn lao của dân tộc ông, ông trở thành ngôn sứ loan báo niềm hy vọng. Ông khẳng định rằng không có gì bị mất đi, Thiên Chúa sẽ thiết lập một Giao Ước mới, Giao Ước sẽ được ghi khắc không phải trên bia đá mà trong lòng dạ của con người. Ông tiên cảm một tôn giáo mang chiều kích nội tâm hơn bằng chính cuộc sống của mình.
Sau khi ông qua đời, ảnh hưởng của ông thật lớn lao và ngay tức khắc. Không một tác phẩm ngôn sứ nào được những người lưu đầy ở Ba-by-lon đọc đi đọc lại nhiều như tác phẩm của Giê-rê-mi-a. Việc báo ứng mà ông đã từng khẩn nguyện với Thiên Chúa thuộc trật tự tâm linh.
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-15)
Trong chương năm thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô thiết lập tiền đề về ơn cứu độ phổ quát của Đức Giê-su. Ngài là Đấng cứu độ của muôn dân: không ai có thể được cứu mà không qua Ngài. Mọi người là những tội nhân, vì thế, tất yếu đều phải qua Ngài để được công chính hóa. Thánh nhân ca ngợi Đức Giê-su đích thật là Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát. Trên cõi thế nầy, không ai có thể nên công chính nếu Đức Giê-su đã không hành động ở nơi người ấy.
Như trong chương trước đó, thánh Phao-lô đã ra sức thiết lập tiền đề của mình khởi đi từ truyền thống Kinh Thánh. Tổ phụ Áp-ra-ham được cứu nhờ tin. Ở đây cũng vậy, thánh nhân lại viện dẫn Cựu Ước như phản đề. Đức Giê-su là Đấng Cứu độ duy nhất, nhờ chỉ mình Ngài mà ơn cứu độ đã xâm nhập trần gian. A-đam là tội nhân nguyên khởi. Qua ông mà tội đã lan tràn đến hết mọi người. Cựu Ước và Tân Ước đối xứng với nhau thật hoàn hảo. Hình ảnh Cựu Ước loan báo việc ứng nghiệm trong thế giới Kitô giáo. Rõ ràng toàn bộ chương trình cứu độ xuất phát từ chính Thiên Chúa. Tấm màn đen tối của Cựu Ước làm rực sáng lên Đức Kitô trong Tân Ước. Dự định của thánh nhân dễ dàng nhận ra: phải lớn tiếng cao rao ơn cứu độ phổ quát nơi Đức Giê-su Kitô.
Để kết thúc, chúng ta phải ghi nhận rằng thánh Phao-lô thiết lập tiền đề của mình ở Rm 5: 12-21. Các câu 1-11 hình thành nên một loại chuyển tiếp giữa tiền đề thần học đi trước: sự công chính hóa không bởi công nghiệp của Lề Luật nhưng bởi đức tin. Đó là tiền đề mà chúng ta đang tìm hiểu ở đây.
Bản văn mà Phụng Vụ đề xuất cho chúng ta chỉ là một phần của đề tài mà thánh Phao-lô trình bày. Đề tài phải được đọc trên hậu cảnh mà chúng ta vừa mới gợi lên. Sự hiểu biết của đoạn trích nầy tùy thuộc vào hậu cảnh nầy.
Câu 12 bắt đầu một sự đối chiếu vĩ đại nhằm diễn tả tiền đề của thánh Phao-lô, vì thế thống trị toàn bộ bản văn và sẽ được nối tiếp chỉ ở câu 18. Hai thành viên của sự đối chiếu được tách riêng ra bởi một loạt những khảo sát thần học, những khảo sát nầy gặp thấy vài khía cạnh của vấn đề. Tư tưởng của thánh Phao-lô xô đẩy lẫn nhau; cường độ của suy tư vượt lên trên trật tự hợp lý. Trong niềm hưng phấn của cuộc tranh luận, thánh nhân suy nghĩ nhanh hơn là nói.
Để làm sáng tỏ hơn, chúng ta sẽ trình bày sự đối chiếu theo sơ đồ như sau: vì một người duy nhất, tội lỗi xâm nhập thế gian, và từ đó, tội lỗi gây nên cái chết (5: 12); cũng vậy, vì một người duy nhất, sự công chính hóa đã được thực hiện, và từ đó, ơn công chính hóa nầy đem lại sự sống (5: 18).
Do từ sự đối chiếu nầy, bản văn phụng vụ chỉ giữ lại câu 12, vì thế, câu nầy chưa hoàn tất, thậm chí còn rườm rà phức tạp nữa. Vế thứ nhất của câu 12: “Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên cái chết” nối lại lập luận với điều đi trước: tóm lại, vì xuất hiện trong chức năng cứu độ viên mãn của mình, Đức Giê-su đặt mình trong tư thế đối lập với nguyên tổ A-đam. Vì bất tuân, nguyên tổ A-đam đã đem tội lỗi vào thế gian và hậu quả của nó là cái chết đã gây tác hại ngay tức khắc trên thân phận con người.
Cái chết cô động và tóm gọn tất cả sự dữ trong thế gian. Cái chết tinh thần hệ tại nơi sự đoạn tuyệt giữa con người với Thiên Chúa mà cái chết thể lý xem ra là dấu chỉ rõ ràng nhất. Thánh Phao-lô lập luận trong viễn cảnh Cựu Ước, theo đó có một sự liên kết chặt chẽ giữa tội lỗi và mọi hình thức sự dữ trong thế gian. Con người phải chịu trách nhiệm đưa sự dữ vào trong công trình tạo dựng vốn tốt lành. Con người đã làm hỏng công trình của Thiên Chúa. Suy tư nầy dẫn chúng ta trực tiếp vào trọng tâm của giáo thuyết về tội nguyên tổ.
Vế thư hai của câu 12 có thể được hiểu theo hai cách tùy theo cách giải thích của đại từ liên hệ Hy lạp: đại từ nầy có thể quy chiếu đến số nhiều: “mọi người” hay số ít: “người nầy” (A-đam) hoặc “cái chết” của vế đi trước đó. Theo cách hiểu thứ nhất: “Cái chết đã tràn lan đến hết mọi người vì mọi người đều phạm tội”, thánh nhân nhấn mạnh rằng, do tội của chính mình, con người liên đới với tội Ađam. Theo cách hiểu thứ hai: “Cái chết đã lan tràn đến hết mọi người vì A-đam, vì ông mọi người đều phạm tội”, thánh nhân soi sáng mối liên hệ nhân quả giữa tội A-đam và tội của toàn thể nhân loại, tội của toàn thể nhân loại một cách nào đó chuẩn nhận tội nguyên tổ. Ý nghĩa của câu không thay đổi là mấy nếu đại từ liên hệ được quy chiếu không đến nguyên tổ A-đam nhưng đến cái chết: “cái chết đã lan tràn đến hết mọi người vì tình trạng của cái chết (gây ra bởi tội A-đam), mọi người đều phạm tội”. Văn phạm không giúp giải quyết cuộc tranh luận giữa các nhà chú giải. Vả lại, văn phạm không nêu lên vấn đề về ý nghĩa sâu xa của đoạn văn, nó đem đến những dấu nhấn khác nhau trong một sự khẳng định tự căn bản vẫn là như nhau.
Các câu 13-14 nhấn mạnh sự kiện theo đó mọi người đều là tội nhân. Người ta có thể nghĩ rằng những người trước ông Mô-sê đã không bị tội tác hại. Họ đã không biết luật, vì thế họ đã không thể vi phạm luật. Tuy nhiên, phải nhận chân rằng họ cũng chết, cũng bị thống trị và nghiền nát do hậu quả của tội. Vì thế, người ta có thể kết luận rằng chính họ cũng là những tội nhân. Ở phần cuối của câu: “A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới” thánh nhân dẫn đưa chúng ta từ hình bóng của Cựu Ước đến thực tại của nó trong Tân Ước.
Phản đề khởi sự ở câu 12 thật sự được khai triển ở câu 15. Đức Kitô trổi vượt vô cùng tận trên nguyên tổ A-đam. Tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội lỗi của con người. Nếu như tội lỗi của con người có thể hủy hoại tất cả công trình sáng tạo, thì ân sủng của Thiên Chúa phải đổi mới thế gian biết chừng nào! Thánh Phao-lô tiếp tục nhấn mạnh sự siêu vượt của Đức Kitô trong mối liên hệ với nguyên tổ A-đam ở những câu 16-17 và tiếp đó lấy lại sự đối chiếu còn bỏ lững ở câu 12.
TIN MỪNG (Mt 10: 26-33).
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu hôm nay được trích từ diễn từ thứ hai của Đức Giê-su được gọi “diễn từ về sứ vụ” (10: 5-42). Thánh Mát-thêu đã kết tập ở đây những lời khuyên bảo và những huấn thị mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài, nhắm đến sứ mạng tương lai của họ.
Đức Giê-su vừa mới phác họa bức tranh tăm tối về những khó khăn mà các Tông Đồ sẽ phải đối đầu, những thù ghét sẽ nổi lên dữ dội chống lại họ như đã chống lại Thầy họ, những lời vu khống mà người ta sẽ cáo tội họ như người ta cáo tội Thầy họ. Nhưng đừng để nỗi sợ hãi làm mình nao núng.
Sức mạnh của sứ điệp.
Bất chấp thái độ thù địch, các môn đệ đừng sợ, hãy mạnh dạn lớn tiếng công bố giữa thanh thiên bạch nhật sứ điệp mà Ngài đã trao gởi cho họ “lúc đêm vắng, tai kề tai”.
Trong chỗ thân tình, Đức Giê-su giáo huấn chỉ một nhóm nhỏ môn đệ, còn với đám đông Ngài chỉ dạy bằng dụ ngôn, tuy nhiên khi thời gian đến “không có gì che dấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết”. Thánh Lu-ca cũng trích dẫn hai lần câu nói nầy: lần thứ nhất theo cùng một ý nghĩa như thánh Mát-thêu, không ai lấy hũ che ngọn đèn thắp sáng hoặc đặt nó ở dưới gầm giường (Lc 8: 17); còn lần thứ hai, câu nói nầy theo văn mạch có ý nghĩa rất khác: Đức Giê-su tố cáo thói giả nhân giả nghĩa của người Biệt Phái (Lc 12: 2-3). Bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su sẽ đưa Mặc Khải đến hồi viên mãn. Lúc đó, các môn đệ của Ngài, các thừa tác viên của Lời Ngài, những người phục vụ Lời Ngài, sẽ phải thông truyền Lời Ngài cách công khai cho hết mọi người, công bố lớn tiếng Lời Ngài “trên mái nhà”. Mái nhà, theo kiểu xây nhà của người xứ Pa-lét-tin, là một sân thượng, ở đó vào lúc chiều hôm mát mẽ người ta trò chuyện với nhau từ sân thượng nầy sang sân thượng khác. Đức Giê-su đối lập Mặc Khải chưa hoàn tất với Mặc Khải nên trọn, cũng như sự nhát đảm hiện nay của nhóm Mười Hai với lời rao giảng đầy quyền năng của họ sau biến cố Ngũ Tuần.
Những kẻ bách hại không thể giết được linh hồn.
Các môn đệ sẽ kinh qua những nhục hình, đòn vọt, tù đày…, và phần lớn trong số họ được phúc tử đạo. Tuy nhiên, những kẻ bách hại không thể làm gì được trên lương tâm của họ, đức tin của họ, chính trên pháo đài nội tâm nầy mà tâm hồn của mỗi người hình thành nên. Vì thế, Đức Giê-su khuyên các môn đệ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Chính Thiên Chúa mà các môn đệ phải sợ vì chỉ mình Ngài mới có quyền năng xác định số phận đời đời của con người. Như vậy, thánh Lu-ca đối lập sợ hãi con người với sợ hãi Thiên Chúa. Theo nghĩa Kinh Thánh, “sợ hãi Thiên Chúa” hàm chứa một cuộc sống công chính, tránh xa tội lỗi. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô một cách nào đó tóm lược lời nói nầy: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em.” (1Pr 3: 14-15).
Tình phụ tử của Thiên Chúa.
Những lời khuyên bảo của Đức Giê-su được sưu tập và đặt bên cạnh nhau khiến gây nên những trái ngược. Sau Thiên Chúa là Thẩm Phán, lại đến Thiên Chúa là Phụ Tử, Ngài ân cần săn sóc các thụ tạo của Ngài, dù chúng chỉ là những chim sẻ không đáng giá là bao.
Kiểu nói: “Đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi” được mượn ở Cựu Ước: “Không một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành động cùng với Thiên Chúa” (1Sm 14: 45; x. 2Sm 14: 11; 1V 1: 52), có nghĩa ơn quan phòng của Thiên Chúa.
Lời chứng của Chúa Con.
Viễn cảnh của những cuộc bách hại là điểm nhấn của diễn từ về sứ vụ. Giờ đây thánh Mát-thêu gợi lên những nguy cơ chối đạo có thể bất ngờ xảy đến: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”. Theo lối hành văn đối xứng rất được người Do thái ưa chuộng, lời khẳng định nầy hàm chứa lời tuyên bố tương tự theo lối phủ định: “Phàm ai không tuyên bố…, thì Thầy cũng sẽ không…”. Đây là lời hứa của Đức Giê-su vào giờ xét xử thời chung cuộc.
Bản văn Tin Mừng Mát-thêu nầy có một hậu cảnh bi thảm. Nó loan báo một thời kỳ bách hại dữ dội trong lịch sử. Những kẻ bách hại sẽ bất ngờ xuất hiện rất sớm. Vào năm 36, thánh Tê-pha-nô sẽ mở đầu một danh sách dài của những người tử đạo, tiếp đó thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan, vào năm 42. Theo sau những bách đạo của chính quyền Do thái giáo, đến những bách đạo của chính quyền Rô-ma. Bản văn của sách Khải Huyền đã nêu rõ lời bối cảnh này: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi phải chịu: nầy ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử thách các ngươi… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2: 10).
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam