Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Thống kê truy cập
Đang online: 69
Tổng truy cập: 1446031
LẬP TỨC ĐI THEO NGƯỜI
LẬP TỨC ĐI THEO NGƯỜI(*)– Chú giải của Noel Quesson Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đi bị nộp… Chúng ta luôn nghĩ rằng thời đại của chúng ta là một thời đại xáo trộn nhất với những vụ bạo lực, bắt cóc tin, giết người tấn công có vũ trang. Vả lại, Tin Mừng của Matthêu giới thiệu với chúng ta thời đại của Đức Giêsu như một thời đại bi đát. Đúng vào lúc mà chính quyền bắt giam người anh họ của Người, không cho ông giảng dạy nữa, Đức Giêsu quyết định tiếp lục sự giảng dạy đó! Phải có lòng can đảm, Đức Giêsu mới dám lao vào một cuộc phiêu lưu cũng sẽ đưa Người đến cùng một số phận bi thảm. Ở đây Matthêu sử dụng cùng một từ ngữ như trong cuôc khổ nạn: “Nghe tin ông Gioan đã bị nộp”. Trong vài tuần lễ nữa, Đức Giêsu sẽ nói: “Này chúng ta lên Giêrusalem. Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư; họ kết án tử hình Người và nộp Người cho dân ngoại” (Mt 20,18 – 26,2). Đời sống của tôi cũng thế, có lẽ khó sống. Những cuộc xung đột mà tôi phải sống chẳng phải là cơ hội để tôi hiệp thông với Đức Giêsu sao? Người lánh qua miền Galilê… Từ “lánh qua” lui về, là từ đặc biệt của Tin Mừng Matthêu. Thánh sử nhấn mạnh rằng Đức Giêsu (vốn là Thiên Chúa!) là một hạng người bị cấm cách, lưu đày lúc nào cũng phải chạy trốn, và bị những kẻ thù ghét truy nã (Matthêu 12,15 – 14,13 – 15,21). Cũng với những công thức ấy Matthêu đã cho thấy Giuse chạy trốn khỏi miền Giuđê lui về miền Galilê vì Áckêlao nguy hiểm đã kế vị vua cha (Mt 2, 22-23). Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum. Một thành ven biển hồ Galilê. thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali. Đức Giêsu dời chỗ. Người rời bỏ ngôi làng nhỏ nơi Người đã sống thời thơ ấu. Nói đến ở một “thành phố trong thế kỷ cơ động của chúng ta, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu cũng đã phải làm quen với những láng giềng mới, tạo ra các mối quen hệ mới, thay đổi môi trường! Vậy, Đức Giêsu đã chọn thành phố nào để ở như sau này người ta sẽ nói “thành phố của Người” (Matthêu 9,1). Caphácnaum! Đó là thành phố của Simon Phêrô. Nhưng sự khai quật gần đây đã khám phá ra ngôi nhà khiêm tốn của người ngư dân đó, rất gần cảng… Đức Giêsu đã đến cư ngụ trong ngôi nhà đó. Caphácnaum là một thành phố biên giới, nằm trên đường biên giới của hai quốc gia của Hêrôđê và của Philípphê. Thành phố này có một trạm thu thuế, rnột đội quân La mã đồn trú. Khác với Nadarét là một thị trấn nhỏ, nằm ẩn khuất sau những đồi núi, Caphácnaum là nơi qua lại và tụ tập nhiều dân là địa điểm quan trọng trên con đường ven biển nối liền Đamát, cửa vào sa mạc, đến Xêsarê cửa ra biển Địa Trung Hải. Đức Giêsu không dời chỗ mà không có lý do. Sự chọn lựa này có một ý nghĩa. “Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tốt tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. Matthêu khi trích dẫn Isaia, có ý nói rằng Đức Giêsu vâng phục theo ý muốn của Chúa Cha: Người làm điều mà Thiên Chúa đã nói. Đây là sự vâng phục cao cả, to lớn và kỳ diệu được đảm nhận với tự do và tình yêu. Thánh sử cũng nhấn mạnh đến sự liên tục của Đức Giêsu với toàn bộ lịch sử của dân Người: vì thế có sáu mươi sáu lời trích dẫn của Cựu Ước trong Tin Mừng của Matthêu. Nhưng chúng ta có thể thấy ở đây một ý chí có cân nhắc Đức Giêsu: Người đi đến với những người xa Thiên Chúa nhất. Miền đất Galilê là một tỉnh pha trộn nhiều sắc dân, một sứ sở mở rộng cho các đoàn thương nhân. Đức Giêsu đến ở đó! Người không định rao giảng trước tiên cho thành Giêrusalem, và miền đất thánh Giuđê… nhưng trong miền đất phía Bắc, mở ra cho các ảnh hưởng ngoại giáo và do đó bị giới lãnh đạo Do Thái nghi ngờ và khinh bỉ như miền đất lạc giáo không nhiều thì ít. Giáo Hội ngày nay có mang tính chất truyền giáo như Đức Giêsu không? Phần tôi thì sao? Những phản ứng sâu xa của tôi là gì? Có phải tôi chỉ lui tới thân mật với những người suy nghĩ giống tôi? Có phải tôi tránh tiếp xúc với những người ngoại giáo và vô thần? Có phải theo bước Đức Giêsu. Tôi đến chỗ ngã tư đường chỗ giao lưu với dân ngoại? Có phải tôi sẽ mạnh dạn đến xứ sở của “bóng tối và sự chết”, để đưa vào đó một chút “ánh sáng”? Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu rời bỏ ngôi làng nhỏ của người… đến cư ngụ ở Caphácnaum… Từ lúc đó Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, và nói rằng: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Đức Giêsu tiếp tục việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả không thay đổi một lời (Mt 3,2) Và Đức Giêsu đến lượt mình bị giết chết, Phêrô sẽ lặp lại cùng một sứ điệp (Cv 2,38). “Anh em hãy sám hối, hãy thay đổi!”. Chúng ta có xác tín rằng chúng ta một sự đổi hướng phải thực hiện không? Chúng ta không tự phát quay hướng Thiên Chúa, Tha Thể tuyệt đối cũng như về người khác… Theo tính tự nhiên, chúng ta lấy mình làm trung tâm. Nếu chúng ta sáng suốt, chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta có một sự đổi hướng hoàn toàn phải thực hiện… để Thiên Chúa thật sự ngự trị trong lòng chúng ta… để Nước Thiên Chúa được ở đây trong đời tôi. Một cách cụ thể, sự sám hối, hoán cải nào mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi trong lúc này? Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Simon, chúng gọi là Phêrô, và người anh là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Cảnh nầy lầ một cảnh tầm thường và hoàn toàn đơn giản theo thể cách của Matthêu. Không có gì là phi thường, đặc biệt. Theo Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một phép lạ nhưng là một lời kêu gọi. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội, cuộc cách mạng đã thay đổi bộ mặt của trời đất, đã bắt đầu như thế… trong hoàn cảnh tầm thường của các ngư dân làm công việc mỗi ngày của họ. Chúng ta hãy lưu ý tầm quan trọng đó: Đức Giêsu “kêu gọi” các tông đồ của Người không phải trong khuôn khổ một lễ hội tôn giáo hoặc một hoạt động tâm linh… nhưng ở giữa đời sống mỗi ngày của họ, trong lúc họ đang làm công việc nghề nghiệp! Quả Đức Giêsu có sự táo bạo? Chính Người đã khởi xướng, chính Người đã kêu gọi. Xem ra Người hoàn toàn biết rõ Người muốn đi đến đâu! Người lôi kéo người ta đi theo Người. Người điềm nhiên nói rằng mọi người được dựng nên cho Người, phải đi đánh lưới họ, như người ta đi lưới cá. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Ngày nay, có sự thiếu ơn gọi. Tin Mừng ngày hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Chắc chắn, Chúa vẫn tiếp tục gọi. Ai sẽ chấp nhạn sống cuộc phiêu lưu trong hoạt đọng tông đồ như trong thời kỳ đó? Lúc đó, những người được gọi đã đáp lại vô điều kiện… Còn tôi? Đi một quãng nữa: Người thấy hai anh em khác con ông Dêbêđê, là ông Giacôbê và người em là ông Gioan. Hai ông này đang cùng với Cha lã ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông, lập tức các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. Sự đáp lại ơn gọi quả mau lẹ đối với chúng ta xem ra như không có thật. Chúng ta chớ nên quên rằng những người như Gioan và Giacôbê đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị về mặt tâm lý và lịch sử. Vả lại đây không phải là lần đầu tiên họ gặp Đức Giêsu. Họ đã gặp Người ở bờ sông Giođan (Ga 1,35-50). Tuy nhiên, chúng ta không nên giảm nhẹ những yêu sách triệt để của Đức Giêsu: Câu chuyện được xây dựng trên sơ đồ ngôn sứ Êlisa cũng đã đốt cày của ông, nướng bò của ông “để không bao giờ còn quay lại đàng sau. Chúng ta không đơn thuần trong một quan hệ “bình thường” của môn đệ với rápbi hay giáo trưởng của họ. Không phải Giacobê và Gioan, cũng không phải Phêrô và Anrê đã tìm kiếm Đức Giêsu mà chính Đức Giêsu với sự cao cả của Người đã có sáng kiến mời gọi họ. Và nếu đó là Thiên Chúa mời gọi tôi? Tôi sẽ làm gì? Thế rồi Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân. Matthêu tóm lược ở đây mọi hoạt động của Đức Giêsu. Thánh sử nói lại nguyên văn câu này trước lúc Nhóm Mười Hai bắt tay vào việc truyền giáo (Mt 9,35). Tôi phải dành thời gian để chiêm niệm trong thinh lặng và kéo dài về Đức Giêsu. Tôi tưởng tượng Người, đang bước đi trên mọi nẻo đường, từ làng này sang làng khác. Người rao giảng Tin Mừng. Ở đây có từ ngữ “kêrussôn” mà nghĩa theo mặt chữ là cao rao (kêu gào) Tin Mừng. Từ này gợi ý một anh mõ làng (một người rao tin) đến gần để công bố một tin: Nước Thiên Chúa đã đến! Người cũng giáo huấn dạy dỗ. Từ dùng ở đây là “didaskôn” gợi ý một hoạt động được triển khai nhiều hơn và mang tính sư phạm nhiều hơn. Giờ đây chúng ta tưởng tượng Đức Giêsu được vây quanh bởi những kẻ mà người kể cho nghe những dụ ngôn, ví dụ là như thế. Một số nhà chú giải Kinh Thánh nghĩ rằng Đức Giêsu đã sử dụng các phương pháp giảng dạy của các giáo trưởng thời đại Người… tức là bắt họ học thuộc lòng những bản văn mà họ không được quên. Sau cùng, Người chữa lành. Và chúng ta còn ghi nhận từ ngữ Hy Lạp mà người nào biết tiếp Pháp sẽ nhận biết dễ dàng: “thérapeuôn”. Đức Giêsu là một người đầy lòng nhân hậu, Người luôn chạnh lòng thương vì tất cả những đau khổ mà Người gặp trên con đường Người đi qua. Lạy Chúa, xin chữa lành chúng con! Xin cứu chúng con! và làm cho chúng con thành những người cứu độ với Chúa. (*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- A TỨC KHẮC HỌ BỎ THUỀN MÀ THEO NGƯỜI- Chú giải của Fiches Dominicales VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: Từ một thời đại đã chấm dứt đến một thời đại đang bắt đầu. Phần đầu bài Phúc âm Chúa nhật thứ III hôm nay (câu 12-16) được coi như đoạn kết chương nhập đề của Matthêu. Một đoạn kết đã phác hoạ những đề tài sắp khai triển. Bắt đầu là một cuộc tĩnh tâm. Đức Giêsu rời bỏ sông Giođan, lui về ẩn ở miền Galilêa. Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, Matthêu đã giúp ta làm quen với lối “ẩn dật” chiến thuật này khi gặp đe doạ, bắt bớ. Hãy nhớ lại cuộc chạy trốn sang Ai Cập khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát các trẻ vô tội, và khi trở về không về Giuđêa nơi bạo chúa Arkêlaô thống trị, nhưng, để được an toàn, đã về Nadarét, xứ Galilêa. Trong khi Đức Giêsu thi hành sứ vụ, ta sẽ thấy Người “ẩn mình” khi sức ép của địch thù quá căng thẳng, cho đến khi từ nơi ẩn dật Xêsarê Philipphê, Người bắt đầu chuyến đi lên Giêrusalem để đương đầu với đau đớn, khổ nạn. Nguyên nhân của việc rút vào bóng tối này đã được thánh sử nói rõ: đó là việc Gioan Tẩy Giả bị bắt giữ. Đó là dấu hiệu kết thúc một thời đại. Thời của Lề Luật và các tiên tri – Gioan Tẩy Giả qua đi có nghĩa là bắt đầu một thời đại mới, thời đại hoàn tất trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng cách kết thúc tác vụ của Người Tiền hô đã tiên báo chung cuộc dành cho Đấng mà Ngài có trách nhiệm loan báo việc ngự đến! Trốn tránh sự thù địch của Hêrôđê Antipas, môi trường hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu sẽ là Galilêa. Tên Galilêa có nghĩa là: nơi hội tụ các dân tộc đã phiên dịch chính xác tính chất của miền đất biên giới nơi đủ mọi sắc dân chung sống, tràn ngập ảnh hưởng ngoại lai, vùng đất mà Giuđêa và Giêrusalem nghi kỵ nếu không nói là khinh bỉ. Matthêu nhìn thấy ở đó cả một biểu tượng. Có chỗ tên gọi đó là miền đất thuộc Zabulon và Nephtali. Thực vậy; từ lâu không còn ai hài tên này ra nữa. Cl. Tassin giải thích: vì đối với các đôc giả của Matthêu cũng như đối với ta, tên ấy đã lỗi thời, không còn ghi trong sử sách. Việc hài tên chỉ cho thấy rằng: cùng với sự khai mạc tác vụ Đức Giêsu tại Galilêa, lời sấm Isaia loan báo từ thời 2 chi họ ấy bị sát nhập vào Assyrie, 734-732 trước Công nguyên, đã được thực hiện; “Dân đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng” (bài đọc I Chúa nhật này). Tin Mừng mà Đức Giêsu khởi sự rao giảng tại Galilêa, “nơi hội tụ dân ngoại không phải chỉ dành cho 1 dân tộc, nhưng cho tất cả mọi người, không phân chia, không loại trừ. Như một biểu tượng, Người đã hướng về dân ngoại và những kẻ bị loại trừ. Cl. Tassin kết luận: “Ta có thế tóm tắt tư tưởng của Matthêu như sau: Đức Giêsu đã chọn Galilêa vì Galilêa tượng trưng cho thế giới dân ngoại. Quả vậy, trung thành với sứ mệnh clta Emanuel được sai đến với nhà Israel, Ngài vẫn ngỏ lời với dân Do Thái. Nhưng biểu tượng vẫn còn đó. Vào thời của tác giả Phác âm, các tên “Zabulon và Nephtali” nhắc lại cảnh lưu đầy, phân tán, vết thương mở ra niềm hy vọng mãnh liệt về một cuộc tập họp toàn thể dân Thiên Chúa. Ta thấy núi Galilêa nơi tất cả mọi người được mời đến tập họp: dựa trên cơ sở nào, bằng cách nào thì bài giảng trên núi sẽ cho ta biết”. Một lời làm nổi lên một dân tộc mới. Câu 17 mở ra một khía cạnh mới của Phúc âm Matthêu, dành cho việc Đức Giêsu khai mạc nước Trời. Một công thức đặc sắc được dùng để dẫn nhập: “Bắt đầu từ đó Đức Giêsu khởi sự…, một công thức mà ta sẽ gặp lại ở 16,21 khi Đức Giêsu khởi hành lên Giêrusalem “Bắt đầu từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giêrusalem, chịu đau khổ rất nhiều vì những bậc trưởng lão, các thầy cả và các luật sĩ sẽ bị giết, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Có thể nói rằng, ngay từ khi khai mạc, việc loan báo Tin Mừng đã di vào một lộ trình đau khổ. Trước hết Matthêu trình bày một bản đúc kết các lời giảng của Đức Giêsu, lời giảng này đôi khi nhắc lại lời giảng của Gioan Tẩy Giả: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”. + “Nước Trời”: Một kiểu nói của người Do Thái, vì kính trọng, nên tránh hài tên Thiên Chúa ra. Riêng Marco đã dứt khoát nói về Triều đại của Thiên Chúa. Triều đại này không ở xa khuất trên mây xanh, nhưng ở “rất gần”. +”Hãy hoán cải “: hiệu quả của Triều đại Thiên Chúa tuỳ thuộc vào sự đón nhận của loài người. Kế đó, tác giả Phúc âm cho độc giả một cái nhìn bao quát về những hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ Galilêa. Di chuyển không ngừng nghỉ (l3, 21, 23, 24) Đức Giêsu tự đưa mình vào hoạt động Người mời gọi đến với Người, bước theo Người, trở nên môn đệ của Người. + Trước tiên, “Khi người đi trên bờ hồ Galilêa”. Người kêu gọi các anh em: “Simon còn gọi là Phêrô và Mátthêu hữu ý đặt lên hàng đầu những người được gọi và Matthêu trình bày như khuôn mẫu của những người theo Đức Giêsu “và André em ông”, “Jacobê, con Zebede và Gioan em ông”. Ta có 2 tường thuật ngắn về ơn kêu gọi xây trên cùng một_ kiểu mẫu và hiển nhiên cảm hứng từ 1 Các vua 19,19: Êlia kêu gọi Êlisêô. Đức Giêsu thấy có người. Đó là những ngư phủ đánh cá trong hồ. Người bảo họ: Hãy theo Ta. Lập tức họ bỏ thuyền, bỏ lưới mà theo Người. Cấu trúc 2 vế này có ưu điểm là làm nổi bật vừa sáng kiến của Đức Giêsu, Người kêu gọi, vừa câu trả lời nhanh nhẹn không ngần ngại của những người được gọi. Đức Giêsu không chỉ muốn biến những người mà Người gọi đã bỏ nghề nghiệp mà theo Người thành những người ngưỡng mộ đơn sơ hoặc những thính giả thăm chú nghe giáo huấn của Người. Nhưng Người muốn họ trở thành những người cộng tác với người trong việc chinh phục con người: hãy theo Ta, Ta sẽ biến các người thành những kẻ chinh phục con người. Claude Tassin giải thích: “Kiểu nói “chài lưới người ta đã ngầm loan báo sứ mạng Kitô hữu, thánh sử đã nhấn mạnh một điểm: Làm môn đệ chính là làm nhà truyền giáo. Ở đây, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, những người sẽ nghe lời Thầy Chí Thành và sẽ chứng kiến việc Người làm. Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê quả là những tên gọi cao cả đối với Kitô hữu thuộc thế hệ thứ hai. Nhưng, Matthêu, ta kính trọng ký ức của họ ủi họ đã từng là môn đệ, đã được kêu gọi vô điều kiện bởi Đấng khai mạc Nước Trời”. + Sau đó, toàn miền Galilêa trở thành diễn trường cho Đức Giêsu rao giảng. Được cải hoá nhờ Tin Mừng, được chữa lành khỏi bệnh tật, những người trước kia không thể bước đi nay bắt đầu đi lại và tạo thành một “dân tộc “: tại miền “Galilêa, nơi hội lụ dân ngoại’, đã manh nha một dân mới của Thiên Chúa thuộc mọi chủng tộc mọi ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân phát sinh nhờ lời rao giảng Tin Mừng. BÀI ĐỌC THÊM Bình minh của hy vọng (Mgr. L. Daloz, Le Régne de cieux s’est approché). Đức Giêsu vào cuộc có nghĩa là ánh sáng đến với nhân loại. Trích dẫn Isaia không đơn thuần đem lại một chỉ dẫn về địa lý. Đó là một biểu tượng: là lối thoát của dân tộc Do Thái, sinh ở Bêlem, vì là dòng dõi David, trở thành người Galilêa ở Nazareth, Đức Giêsu đến đón rước các dân tộc. Tức thì sứ mệnh của Người mang lấy dáng vóc phổ quát. Tự bản thân chúng ta cũng phải cúi chào tia sáng đầu tiên này loé lên soi cho các dân đang sống trong bóng tối: Đức Giêsu đến gặp gỡ ta, đó là khởi đầu ơn cứu độ của ta, là bình minh của niềm hy vọng. Ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của ánh bình minh này với lòng biết ơn rồi làm sống lại trong ta cảm giác kỳ diệu khám phá ra Đức Kitô, ánh sáng bừng lên soi chiếu vào mắt ta. Vâng, đối với ta vì cả mọi dân tộc, ánh sáng chính là Lời nói lạ lùng mà Phúc âm không cho ta biết đối tượng: Từ lúc ấy, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng: hãy năn sám hối, vì Nước Trời đã gần đến. Lời của Giêsu trên vũ trụ, vượt qua những biên cương của vùng đất hứa cho dân của Giao ước cũ, biến cả thế giới thành vùng đất hứa của Nước trời. Những nỗ lực và lực và toan tính của các vị truyền giáo đều phát xuất từ một lời duy nhất này. Bây giờ đến phiên chúng ta phải chuyển nhữngg từ Phúc âm tạo âm vang cho lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giêsu khi Người đứng trước miền Galilê của các dân tộc, trên bờ sông thế giới. Cuộc phiên lưu vĩ đại khởi đi từ một vùng đất bị khinh khi. Đối với dân thủ đô, Galilêa chỉ là tỉnh lẻ. Đối với ai mộ đạo sùng tín, miền Bắc thực đáng ngờ vực. Đó là rniền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư pha tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng phịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện giễu cợt hằng ngày. Trong khi những tín đồ chính thống ở kinh đô nghiền ngẫm sự khinh khi, chiêm ngưỡng sự siêu việt của mình, chế diễu và tránh xa những người bị loại trừ ở phía Bắc, thì Đức Messia Cứu Chúa, ánh sáng muôn dân, “tới cư ngự’ tại Capharnaum, bên bờ hồ”. Xa khỏi kinh đô vĩnh hằng, khỏi thói ngạo mạn, tự tôn, và sự mù quáng của họ. Gioan Tiền hô, vị ngôn sứ của lòng thống hối, đã trở thành kẻ sách nhiễu, gây rối. Ông bị chém đầu. Từ đó Tin Mừng bị nghi ngờ và sứ giả Tin Mừng bị theo dõi gắt gao…Nhưng Đức Giêsu đã gặp những tâm hồn cởi mở đón tiếp nơi những người hiếu động và bé nhỏ nhất của dân Người. Chính trên bờ hồ chứ không phải trên các bậc cấp của đền thờ, giữa đám ngư phủ bận rộn công việc chứ không phải nơi những vị tư tế chuyên lo phụng tự mà Đức Giêsu sẽ chọn các môn đệ của Người. Đúng là một nước cờ ngược lại mọi lôgic. Chính những người ít khả năng nhất, ít được chuẩn bị nhất lại là những người đầu tiên nhận được ánh sáng và đi theo Đấng là “Đường, và Sự Thật và là Sự Sống”. Ngay tức khắc, thành phần lao động đơn sơ chất phác nhưng có trái tim nhạy bén đã tin tưởng vào ngôn sứ, người rao giảng chẳng có danh nghĩa chính thức, người chạy trốn chính quyền hợp pháp câu nệ thói tục và lối giải thích của họ. Những người tội lỗi bỗng nhiên bị chất vấn, đã cảm thấy ánh sáng mà ngay những kẻ rắc rối khó tính nhất cũng phải nhượng bộ… và họ đã đi theo Người. Cuộc phiêu lưu vĩ đại đã khởi đi từ một miền đất bị nguyền rủa. Thế giới đổi mới đã ăn rễ sâu vào vùng đất nhơ uế, nhưng cởi mở đón tiếp mọi bất ngờ của Thánh Thần, của Thiên Chúa… Hôm nay cũng thế, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục sứ mệnh của Người không theo cách người ta nghĩ. Người tỏ mình ra dạy dỗ, và kêu gọi không theo những chuẩn mực hay lý luận của người phàm chúng ta. Không khác gì vào thời của Đền Thở, Đức Giêsu không chỉ giam mình trong các truyền thống nhân loại, trong các tính toán của các chuyên gia, trong phán quyết của các quyến lực Người không bị giam hãm trong Giáo Hội của Người, Giáo Hội đang bị chia rẽ, nơi người thì tự cho mình là thuộc phe Phaolô và Giacôbê, Anrê, Matthêu như thể kitô đã bị chia cắt và như thể là giáo huấn của người không quan trọng bằng giáo huấn của môn đệ Người. Trong khi con cái trong nhà cãi cọ, xâu xé thân thể mầu nhiệm Đức Kitô và đóng đinh Người, Người chạy đến nơi “hội tụ dân ngoại và tìm được sự tiếp đón nồng hậu, tìm được môn đệ trong đám người bị khai trừ và những người sống ngoài lề xã hội. CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- A LỜI RAO GIẢNG CỦA ĐỨC GIÊSU (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc Aperuit Illis (“Ngài đã mở trí cho họ”) để thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, Đức Cha Vinh Sơn chủ tịch Ủy Ban Kinh Thánh ấn định Chúa Nhật III Thường Niên dành riêng để cử hành, để suy tư và để công bố Lời Chúa. Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu rồi. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Hiến Chế Mặc Khải, số 22). Vì thế, khi thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”) Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A, Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sứ vụ khởi đầu của Đức Giê-su: chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Đức Giê-su chọn để công bố Lời Ngài, trong khi Bài Đọc I ghi lại lời kêu gọi khẩn thiết của thánh Phao-lô về sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu. Is 8: 23; 9: 3 Ngôn sứ I-sai-a tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ. 1Cr 1: 10-13, 17 Trước nạn bè phái, thánh Phao-lô khẩn khoản kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Đó cũng là nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho các Ki-tô hữu trên thế giới được nên một với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Ki-tô. Mt 4: 12-23 Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I) để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ. BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4) Bài Đọc I trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ba sấm ngôn này được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12 của sách I-sai-a, các chương nầy hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en” . Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi nầy, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ. Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại với những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. *1.Cảnh đời tăm tối trong hiện tại: Về phương diện lịch sử, tự ngồn gốc vùng Ga-li-lê được phân chia cho hai chi tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai chi tộc nầy không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, vùng đất Ga-li-lê tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế không thể tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của dân ngoại chung quanh. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê, trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ : “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng nầy. Sấm ngôn I-sai-a ám mô tả số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc miền Bắc (cũng được gọi là “vương quốc Ít-ra-en”) dưới cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Cuối cùng vương quốc miền Bắc hoàn toàn bị diệt vong, thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm, một số lượng lớn dân cư bị lưu đày, những dân ngoại bang thế chỗ. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của Vua Mê-si-a, vùng đất này mới có thể được giải thoát. Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị trên vùng đất này cho đến năm 612 trước Công Nguyên cho đến khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ làm tôi đế quốc Ba-by-lon. Họ chỉ gặp lại cuộc sống thanh bình nhờ sự giải thoát của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải thoát nửa vời nầy không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi đề cập đến những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, diễn ngữ thời gian nầy ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế, niềm phấn khởi của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn nầy, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và sứ mạng của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa. *2.Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai: Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4) cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử nầy, ơn cứu độ, niềm vui, niềm tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh điểm của tiến trình nầy, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12). Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui cứu độ. Niềm vui nầy sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng những hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau công việc đồng án gian lao vất vả và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ. Nguyên do của niềm vui nầy chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn nầy được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nổi chiến công nầy không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa. Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có sứ mạng chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại nầy. Đó chính là điều mà trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Mát-thêu quan tâm bậc nhất trong việc minh chứng con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, chúng ta không thể nào bỏ qua. BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17) Bài Đọc II được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ nầy gặp phải. *1.Nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12): Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô: -Phe theo thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cũng có nhiều ủng hộ viên trong cộng đoàn nầy. -Phe theo ông A-pô-lô: Nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của kiều bào Do thái giáo và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-xô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô Giáo Đoàn non trẻ nầy. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô. Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc nầy anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện “ (1 Cr 16: 12). -Phe theo thánh Phê-rô: Có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Ki-tô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với dân ngoại (x. Gl 2: 1-14). -Phe theo Đức Ki-tô: Có thể đó là những Ki-tô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Ki-tô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào. *2.Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17): Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của Hy Tế Thập Giá, Phép Rửa, và Tin Mừng. -Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất: Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Lời mời gọi dứt khoát, nồng nàn và khẩn thiết nầy được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải “một lòng một ý” với nhau. Chính “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Ki-tô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Ki-tô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28). -Tính bất khả phân của Đức Ki-tô: Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học nầy, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe nầy hay phe kia (x. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô. Đức tin không là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng tận hiến bản thân mình cho Đức Ki-tô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là người loan báo Đức Ki-tô, vì thế người môn đệ là môn đệ của Đức Ki-tô, chứ không là môn đệ của bất kỳ Tông Đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Ki-tô, chứ không cuộc sống của bất kỳ Tông Đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô chứ không nhờ cái chết của bất cứ Tông Đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Ki-tô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân). Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh Phao-lô được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng nầy hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Ki-tô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin. Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không cốt nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo Hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập Giá là sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân. TIN MỪNG (Mt 4: 12-23) Tin Mừng Mát-thêu được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A gồm bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 23). *1.Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16): Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm đặc biệt trong đoạn văn nầy, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác. Sau khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn trải qua những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài bắt tay vào sứ vụ: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy Giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy Giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh Mát-thêu muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy Giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su. Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3). Thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14). Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật nầy: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn I-sai-a. Hai địa hạt nầy chiếm phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su. Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố nầy là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố nầy làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ. Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” (Mt 4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi trước tiên đến “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền nầy đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” nầy mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”. *2.Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17) Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lập lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3: 2). Tuy nhiên, cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy Giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã đột nhập vào thời gian, Triều Đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào cõi thế. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Đức Giê-su. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su. *3.Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22) Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy. Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời công bố bí nhiệm nầy. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài. *4.Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23) Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng y nguyên trình tự nầy ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”. Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
Nối kết
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam