Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 57
Tổng truy cập: 1453022
LÀM CHO BÁNH HÓA NHIỀU
Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều” và tiếp tục bằng “bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông “không tin”: Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.
Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích “những sự lạ” như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được “ý nghĩa” thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.
Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng (“Eucharistèsas” trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa” mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.
Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: “Hãy cho họ có cái ăn”… cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống “thường nhật” với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.
Ông Philípphê đáp: “Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!”.
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: “đói khát”, “hòa bình”, “công lý”, chúng ta thường trả lời: “Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta”. Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo “từ không mà có” (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: “Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức Giêsu nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?”. Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người “tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.
Đức Giêsu đã “tạ ơn” (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống” tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường “cơn đói của thể xác” nhưng Người nghĩ đến “cơn đói Thiên Chúa” mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa “bánh” và “rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?
Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”.
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến”, chờ một “giải pháp lạ lùng” có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những “công thức ma thuật” sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ”, của “ngày mai vui tưới”. Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: “Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi “. Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ “chính trị” của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta “đóng khung” Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: “Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng”. Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con”, để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ “giải phóng” chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, “Người lui vào thanh vắng một mình”, Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu “Người là ai”, là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai “đói Thiên Chúa”? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN- Năm B
DẤU CHỈ BÀN TIỆC THÁNH THỂ (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XVII này là “Dân Thiên Chúa hiệp nhất trong cùng một bàn tiệc của Chúa” ở đó, Đức Giê-su chia sẻ tận cùng với chúng ta, bánh mà Ngài ban tặng chính bản thân Ngài.
2V 4: 42-44
Phép lạ bánh hóa nhiều đã là ân ban của ngôn sứ Ê-li-sa trong thời kỳ đói kém ở miền Pa-lét-tin, vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên. Số người được thụ hưởng thành quả phép lạ bánh hóa nhiều này thì khiêm tốn.
Ep 4: 1-6
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô ca ngợi sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu theo cùng khuôn mẫu sự hiệp nhất của Một Chúa Ba Ngôi: chỉ có một Thân Thể, một Thánh Thần, một Chúa, một niềm tin và một phép rửa…
Ga 6: 1-15
Phép lạ hóa bánh ra nhiều là ân ban của Đức Giê-su nuôi đông đảo dân chúng ăn no nê mà còn dư đến mười hai thúng đầy. Đây là dân mà trước đó Ngài đã nuôi họ bằng Lời Hằng Sống của Ngài. Ân ban bánh hóa nhiều này loan báo “ân ban Thánh Thể”.
BÀI ĐỌC I (2V 4: 42-44)
Ngôn sứ Ê-li-sa là môn đệ chân truyền của ngôn sứ Ê-li-a. Ông tiếp tục sự nghiệp của thầy mình vào thế kỷ thứ chín trước Công Nguyên trong vương quốc miền Bắc. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình chủ yếu dưới triều đại vua Giô-ram (852-841 B.C.).
Sách Các Vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai sưu tập những triều đại của các vua (19 vua Ít-ra-en và 20 vua Giu-đa), đồng thời dành một chỗ rộng lớn cho vai trò của các ngôn sứ: về tôn giáo, các ngôn sứ là những người bảo vệ phụng tự tinh tuyền của Đức Chúa và lên án mọi hình thức thờ ngẫu tượng; về luân lý, các ngài tố cáo bạo lực và bất công xã hội; về chính trị, các ngài là những nhà cải cách các triều đại thối nát.
Trong số các tác phẩm Cựu Ước, hai sách Các Vua là những cuốn sách chứa đựng nhiều chuyện tích ý nhị nhất về các ngôn sứ. Trong hai tác phẩm này, ngôn sứ Ê-li-sa được phác họa chân dung kém huyền nhiệm hơn chân dung ngôn sứ Ê-li-a. Ông gần với phàm nhân hơn, dù không kém thần thông biến hóa.
Thời kỳ đói kém:
“Hồi ấy, trong miền có nạn đói”. Sự cố nầy không phải là chuyện hi hữu. Cựu Ước nhiều lần trích dẫn những trường hợp đói kém ở miền Pa-lét-tin: chính vì lý do đó mà ông Áp-ra-ham xuống Ai-cập và sau nầy các anh em ông Giu-se cũng xuống đất nước của các Pha-ra-on này. Đôi khi hạn hán xảy ra nhiều năm liên tiếp. Sách Sa-mu-en trích dẫn một nạn đói kéo dài ba năm và sách Các Vua quyển thứ hai kể lại một nạn đói khác kéo dài bảy năm. Có lẽ câu chuyện hôm nay được kể vào thời gian nạn đói kéo dài bảy năm này.
“Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem biếu ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, sản phẩm đầu mùa…”. Đây là lễ phẩm đầu mùa. Vào đầu mùa thu hoạch, người ta trích ra một phần để biếu tặng các tư tế hoặc “những người của Thiên Chúa”, tức “các ngôn sứ”. Sách Lê-vi viết: “Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa rang và hột lúa mới” (Lv 23: 14).
Chúng ta lưu ý rằng mối quan tâm của chuyện tích nầy rõ ràng tập trung vào phép lạ, vì thế truyền thống đã không lưu giữ tên của người biếu tặng: “có một người”; cũng không cho biết địa danh nơi biến cố xảy ra nhưng chỉ nói trống “trong miền”.
Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
Vị ngôn sứ không giữ riêng cho mình, nhưng liền chia sẻ ngay quà biếu này với những người túng thiếu và quà tặng nầy sẽ hóa nhiều. Qua tấm lòng chia sẻ quảng đại của vị ngôn sứ, chính Thiên Chúa làm cho tặng phẩm phàm nhân trở nên phong phú. Chính đó là cách thức mà Thiên Chúa thường sử dụng.
Chuyện tích về ngôn sứ Ê-li-sa làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ hai mươi chiếc bánh lúa mạch có nhiều điểm tương đồng với những bài tường thuật Tin Mừng về việc Đức Giê-su làm phép lạ “hóa bánh ra nhiều” từ năm chiếc bánh lúa mạch.
-Ngôn sứ Ê-li-sa bảo: “Hãy cho người ta ăn”. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn đi” (Mc 6: 37; Mt 14: 16; Lc 9: 13).
-Đầy tớ của vị ngôn sứ thưa: “Có bằng nầy, thì làm sao con có thể cho cả trăm người ăn được?”. Một trong các môn đệ của Đức Giê-su thưa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu !” (Ga 6: 9).
-Vị ngôn sứ nói: “Cứ cho người ta ăn! Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Các thánh ký viết: “Ai nấy đều ăn và được no nê. Người ta thu lại những mẫu bánh được mười hai thúng đầy”.
-Ngôn sứ Ê-li-sa làm no thỏa nhu cầu vật chất của những người túng thiếu. Quả thật, Đức Giê-su cũng làm no thỏa nhu cầu thể lý của đám đông đang mệt và đói, nhưng cử chỉ của Chúa Giê-su chất chứa biết bao ý nghĩa. Chính Ngài là “dấu chỉ”, dấu chỉ của chiếc bánh khác, “Bánh Trường Sinh”: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi không hề phải đói; ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ !” (Ga 6: 35).
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 1-6)
Thánh Phao-lô viết bức thư này khi thánh nhân bị cầm tù ở Rô-ma vào những năm 61-63. Lời mở đầu thư rất tổng quát: “Kính gởi các thánh, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô”, khiến nhiều nhà chú giải nghĩ rằng bức thư nầy không chỉ viết riêng cho cộng đoàn Ê-phê-xô, nhưng nhằm luân lưu giữa các cộng đoàn miền Tiểu Á.
Bức thư được chia thành hai phần: phần thứ nhất về đạo lý (ch. 1-3) và phần thứ hai về luân lý và khích lệ (ch. 4-6). Cả hai phần liên kết chặc chẽ với nhau bất khả phân. Đoạn trích hôm nay là đoạn mở đầu của phần thứ hai.
“Tôi là người đang bị tù vì Chúa”:
Để tăng thêm sức mạnh cho những lời khích lệ của mình, ngay từ đầu của phần thứ hai, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng ngài đang bị giam cầm; như vậy, thánh nhân muốn nói rằng ngài không chỉ là vị tông đồ rao giảng về Đức Ki-tô, nhưng còn là một nhân chứng chịu thương chịu khó vì Đức Ki tô.
Ơn gọi làm người Ki tô hữu:
Trong phần thứ nhất về đạo lý, thánh Phao-lô đã chú tâm trình bày “mầu nhiệm cứu độ” mà thánh nhân đã được chính Đức Ki-tô mặc khải và truyền cho thánh nhân phải thông truyền cho Giáo Hội của Ngài, đó là trong kế hoạch của Thiên Chúa, mọi người, dù Do thái hay lương dân, đều được mời gọi hưởng nhận cùng một ơn cứu độ. Từ đó, thánh nhân nhắc nhở với hết mọi người Ki-tô hữu, dù họ xuất thân từ đâu, hãy sống cho xứng với ơn gọi mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
Thánh nhân khuyến khích họ hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền hòa và nhẫn nại; hãy lấy đức ái mà chịu đựng lẫn nhau. Chúng ta ghi nhận rằng thánh nhân đặt lên hàng đầu những nhân đức mà chính Đức Giê-su là mẫu gương: “Tôi hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Đoạn, thánh nhân mời gọi họ hãy hiệp nhất với nhau qua việc “ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau”. Trước đó, thánh nhân đã gợi lên sự bình an mà Đức Giê-su mang lại: “Thật vậy, chính Người là sự bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tương ngăn cách là sự thù ghét” (2: 14).
Lời kêu gọi “sống yêu thương thuận hòa với nhau” không là nét đặc thù trong các thư của thánh Phao-lô. Việc chung sống giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô gốc lương dân đã là vấn đề trong lòng Giáo Hội tiên khởi.
Lời tuyên xưng đức tin:
Đoạn, trong lúc hưng phấn, thánh Phao-lô công bố lời tuyên xưng đức tin xoay quanh chủ đề hiệp nhất: chỉ có một thân thể, một Thần Khí, một niềm hy vọng, một Chúa, một niềm tin, một phép rửa, vân vân.
Biểu thức nguyên thủy có thể là một lời tuyên xưng phụng vụ mà những người chịu phép rửa công bố khi khẳng định niềm tin của mình, và chắc chắn được thánh Phao-lô quảng diễn. Ngôn từ của lời tuyên xưng nầy rõ ràng đã có ảnh hưởng trên kinh Tin Kính của công đồng Ni-xê-a.
TIN MỪNG (Ga 6: 1-15)
Vào Chúa Nhật tuần trước, Tin Mừng Mác-cô tường thuật cho chúng ta phần đầu của câu chuyện phép lạ “hóa bánh ra nhiều”, trong đó Đức Giê-su đã động lòng thương dân chúng đến với Ngài như “đàn chiên bơ vơ không người chăm sóc”. Vì thế, Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ, trước tiên bằng Lời Hằng Sống của Ngài, và tiếp đó bằng phép lạ “hóa bánh ra nhiều”. Cả hai đều báo trước “bàn tiệc Thánh Thể”.
Tuy nhiên, Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay không tiếp tục câu chuyện bỏ dỡ của Tin Mừng Mác-cô. Thay vì đó, phụng vụ đề nghị cho chúng ta câu chuyện của Tin Mừng Gioan thuật lại cùng một biến cố với Tin Mừng Mác-cô: phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Gioan sử dụng câu chuyện hóa bánh ra nhiều nầy để mở đầu bài diễn từ dài của Đức Giê-su về “Bánh Trường Sinh”, mà chúng ta sẽ đọc bốn tuần Chúa Nhật liên tiếp sau đó.
Như vậy, các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm và tác giả Tin Mừng Gioan đều khẳng định cùng một chân lý: Trong mỗi Thánh Lễ, Đức Giê-su tiếp tục làm như vậy qua suốt nhiều thế kỷ sau đó, chăm lo những nhu cầu của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng những thần lương của Ngài, tức là Lời Hằng Sống và Thánh Thể của Ngài, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu người, mỗi phút giây và khắp hoàn vũ, cho đến ngày tận thế. Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Mk, 21).
Nơi chốn:
Phép lạ bánh hóa nhiều là một phép lạ duy nhất được cả bốn thánh ký thuật lại; thêm nữa, thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô thuật lại đến hai lần: một lần từ năm chiếc bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người ăn no nê tại đất Do thái, và một lần khác từ bảy chiếc bánh hóa nhiều nuôi bốn ngàn người ăn no nê tại đất dân ngoại. Quả thật, phép lạ hóa bánh ra nhiều cho thấy Đức Giê-su là Mục Tử nhân lành, Ngài không chỉ chăm lo dân Do thái mà cả dân ngoại nữa. Sau này, Giáo Hội bao gồm cả người Ki-tô hữu gốc Do thái lẫn người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Thánh Gioan mở đầu bài tường thuật của mình thật bất ngờ: “Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê”. Trong bài tường thuật trước, Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, đoạn Ngài trở về miền Ga-li-lê, sau đó, Ngài băng qua biển hồ Ti-bê-ri-a, nhưng từ đâu mà Ngài đến đây? Chúng ta khó xác đinh nơi diễn ra phép lạ hóa bánh ra nhiều. Thánh Lu-ca nói về các làng mạc chung quanh thành Bết-xai-đa, thành phố được định vị ở đông bắc biển hồ, phía bên bờ sông Giô-đan đối với thành Ca-phác-na-um.
Đức Giê-su không lưu lại trên bờ hồ: “Ngài lên núi và ngồi đó với các môn đệ”. Núi là nơi ưu tiên đánh dấu một sứ điệp siêu việt: núi của các Mối Phúc, núi của cuộc Biến Hình, núi của phép lạ hóa bánh ra nhiều, vân vân.
Thời điểm:
“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do thái”. Thời điểm này rất quý. Trước tiên, nó giải thích tại sao đám đông dân chúng đông đảo đến như thế. Chính ở Ca-phác-na-um và trong các thành phố ven biển mà những người hành hương đến từ khắp nơi quy tụ lại và rồi từ đó khởi hành thành từng nhóm lên thành thánh Giê-ru-sa-lem để tham dự đại lễ Vượt Qua. Nhưng nhất là, lễ Vượt Qua sắp đến đem lại một cung điệu sâu xa cho cử chỉ của Đức Giê-su. “Đại lễ của người Do thái” nầy làm cho cử chỉ của Ngài trở thành cử chỉ ngôn sứ, loan báo lễ Vượt Qua mới, “lễ Vượt Qua của người Ki-tô giáo”, ở đó một phép lạ hóa bánh ra nhiều khác được thực hiện, bàn tiệc Thánh Thể.
Không có bất kỳ giải pháp nào từ phía con người:
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, chính các môn đệ lưu ý với Đức Giê-su là giờ đã khá muộn nên giải tán đám đông nầy để “họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn” (Mc 6: 35-36). Trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giê-su ý thức hoàn cảnh và đề xuất sáng kiến.
Đức Giê-su ngỏ lời với ông Phi-líp-phê. Nhờ Tin Mừng Gioan chúng ta biết ông Phi-líp-phê là một con người rất năng động và thực tiển. Khi ông Na-tha-na-en chất vấn ông Phi-líp-phê về Đức Giê-su, ông trả lời: “Cứ đến mà xem!” (Ga 1: 46). Khi Đức Giê-su gợi lên mối tương quan thân mật của Ngài với Chúa Cha, ông thưa ngay: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14: 8). Ở trong câu chuyện bánh hóa nhiều nầy, vấn nạn Đức Giê-su đặt ra cho ông: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” hàm chứa một thực trạng: nếu một môn đệ có tài xoay xở nhất trong các môn đệ mà cũng không thể gặp thấy một giải pháp, chính vì hoàn cảnh bế tắc, lúc đó phép lạ sẽ là thích đáng nhất. Mặt khác, chúng ta không thể không lưu ý rằng chỉ có hai môn đệ can dự vào câu chuyện là ông Phi-líp-phê và ông An-rê, cả hai đều xuất thân từ Bết-xai-đa, nơi mà hai ông biết rõ nhất để giải quyết vấn đề.
Dù thế nào, Đức Giê-su nêu câu hỏi cho ông Phi-líp-phê chỉ để thử ông. Ngài muốn ông ý thức rằng nếu chỉ nhờ vào những phương tiện nhân loại, người ta đành bất lực không thể nào tìm thấy bất kỳ giải pháp nào cho vấn đề, lúc đó người ta nhận ra rằng không có gì khác ngoài việc đặt trọn niềm tin tưởng vào Đức Giê-su.
Ông Phí-líp-phê tính toán một cách chính xác: “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. Tiền công của một ngày làm việc là một đồng bạc (chúng ta biết điều nầy nhờ dụ ngôn người làm thuê vào giờ thứ mười một), vậy thì hai trăm đồng bạc mua được bao nhiêu bánh lúa mạch. Ấy vậy, ba Tin Mừng Nhất Lãm nói cho chúng ta biết có “năm ngàn người, không kể đàn bà và trẻ con”. Vì thế, ông Phí-líp-phê nhận ra rằng về phương diện nhân loại không thể đáp ứng nhu cầu cho một đám người đông đảo như thế.
Quà tặng của tấm lòng biết chia sẻ:
“Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”. Em bé biếu tặng khẩu phần ăn của em, cũng như ngôn sứ Ê-li-sa chia sẻ quà biếu của mình và quà tặng của ông sẽ hóa nhiều. Chính cũng một bài học. Phải nói thêm, Đức Giê-su không bao giờ làm phép lạ từ hư không; ở nơi nền tảng của một phép lạ luôn luôn có một yếu tố vật chất. Giáo Hội cũng sẽ thực hiện các bí tích theo cùng một cách như vậy.
Tấm lòng của vị Mục Tử Thiên Sai:
Thánh Gioan nói: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Thánh Mác-cô xác định “Cỏ xanh” (6: 39). Đây là cỏ xanh non vào thời điểm mùa xuân ở miền Pa-lét-tin. Phải chăng điều nầy hàm ý rằng Đức Giê-su là vị mục tử nhân lành mà các ngôn sứ loan báo Ngài dẫn đàn chiên của mình vào đồng cỏ xanh tươi? Thánh Mác-cô gợi ra điều nầy. Đối diện với các vị mục tử Ít-ra-en chỉ biết đến mình, Đức Giê-su hành xử như vị Mục Tử Thiên Sai tận tình chăm lo cho dân Ngài.
Dấu chỉ bàn tiệc Thánh Thể:
Không ai có thể phủ nhận rằng phép lạ hóa bánh ra nhiều làm sáng tỏ việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Các Tông Đồ đã hiểu như vậy, các thánh ký cũng đã ghi lại như vậy: “Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát…”. Lời nói và cử chỉ nầy tương tự như lời nói và cử chỉ của Chúa Giê-su ở Tiệc Ly khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể. Bánh hóa nhiều trên đồi Ga-li-lê loan báo bánh hóa nhiều khác, bánh Thánh Thể, tức là hóa nhiều thân thể vinh quang của Đức Ki-tô, không còn chỉ cho vài ngàn người, nhưng cho hằng triệu, đồng một lúc, và trong khắp hoàn vũ, cho đến thời cánh chung.
Mười hai thúng đầy những mẫu bánh thừa:
Như rượu được ban một cách dồi dào ở tiệc cưới Ca-na, bánh cũng được ban một cách dư dật, phần dư được thu lại đến mười hai thúng đầy. Con số mười hai đại diện mười hai chi tộc Ít-ra-en, cũng như mười hai Tông Đồ đại diện dân Thiên Chúa mới. Không phải những phần dư này muốn nói rằng có đủ chỗ cho nhiều người khác được mời vào bàn tiệc Thiên Chúa sao?
Quả thật, sự dồi dào dư dật là dấu chỉ bữa tiệc Thiên Sai. Các sấm ngôn (Am 9: 13; Is 49: 10; 55: 1-3; Ge 4: 18), các Thánh Vịnh (Tv 132; 15: 78; 24-27), các sách minh triết đã loan báo rồi: triều đại Thiên Sai sẽ được đóng ấn bởi một dấu chỉ của sự phú túc và mãn nguyện, hình ảnh báo trước bàn tiệc cánh chung mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho tất cả những người được chọn trong vương quốc của Ngài, biểu tượng niềm hoan lạc thiên giới và mọi của cải tinh thần. (Bàn tiệc Thiên Sai và bàn tiệc cánh chung thường được định vị trong cùng một viễn cảnh).
Phản ứng của dân chúng:
Phấn khởi trước Đức Giê-su là vị Mô-sê mới, Đấng đã cho họ ăn dư dật “ở nơi hoang vắng nầy”, đám đông đã không hiểu ra được dấu chỉ vương quốc Thiên Chúa, nhưng chỉ nghĩ đến vương quốc trần thế, vì thế, họ muốn “bắt Ngài đem đi mà tôn làm vua”. Đức Giê-su không muốn một chút nào chủ nghĩa Thiên Sai chính trị hẹp hòi và nông cạn nầy, nên “Ngài lại lánh mặt, đi lên núi một mình”.
Thánh Gioan là thánh ký duy nhất trong các thánh ký tường thuật phản ứng nầy của dân chúng. Còn các môn đệ, nhờ Mác-cô, chúng ta biết rằng lòng trí các ông vẫn còn ngu muội. Vì cũng chính đêm tiếp theo sau phép lạ hóa bánh ra nhiều là đêm Đức Giê-su đi trên mặt biển, thánh Mác-cô nói “các ông thấy bàng hoàng sửng sốt, vì các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều” (Mc 6: 52).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN-Năm B
ĐỨC GIÊSU HÓA BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN – Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Bánh hóa nhiều dư dật.
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là “diễn từ về Bánh trường sinh” được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.
Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối.
“Sang bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu “lên núi ” và “ngồi” đó với các môn đệ.
Người “nước mắt lên” và nhìn “thấy đông đảo dân chúng” đến với mình.
– Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: “Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
– Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
– Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.
Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể.
Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
+ Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê.
Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng.
Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
– “Làm sao mà đủ cho 100 người được? ” người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi.
– Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ…”, ông Phipphê trả lời.
Cùng ra lệnh bảo làm:
“Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh.
“Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Đức Giêsu bảo.
Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa:
“Họ ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai.
“Họ chất đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.
Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa.
+ Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành.
Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người.
Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào “ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57).
Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây” chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: “Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây? (Ds 11,3).
Nhưng X.Léon-dufour nhận xét thêm: “Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp “làm” đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay (“Lecture de l’Evangile selon saint Jean”, cuốn 11, Seuil, trang 107).
Nếu Gioan thêm câu “Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy.
Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.
Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể.
A.Marchadour nhận xét: “Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ hành Thánh Thể.
Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo” (“L’evangile de Jean”, Centurion, trang 101)
Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian “.
Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: “Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”.
Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi “lên núi một mình”. Người không phải là “vi ngôn sứ” đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.
A.Marchadour kết luận: “Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình vì thế Gioan đã đẩy các môn-đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người” (O.C. trang 101)
BÀI ĐỌC THÊM.
“Một dấu” chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết”
Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?
Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều “người môn đệ Chúa yêu” trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho.
Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt” mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. “Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (NL 8.3b).
Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ “Bẻ Bánh” tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.
Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước “một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm Vua-cứu-tinh vậy”.
“Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể” (Mgr. L. Daloz, trong “Nous avons vu sa gloire”. DDB, trang 130).
Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.
“Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”. (H.Vulliez, trong “Dieu si proche. Năm B”, Desclée de Brouwer, tr.76-77).
Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu!
Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực “trường tồn đem lại phúc trường sinh” (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh ‘Thể”.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam