Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 100

Tổng truy cập: 1445598

KỲ THÚ

Kỳ thú – Như Hạ

Nhân loại có cần đươc cứu độ không? Hình như nhu cầu hằng ngày đã lấn lướt mọi nhu cầu khác và nhất là không liên quan gì tới ơn cứu độ. Nhưng chính từ những nhu cầu ăn uống tầm thường hằng ngày, Đức Giêsu đã mạc khải chân lý vĩ đại.

TỪ ĐỘC THOẠI TỚI ĐỐI THOẠI

Thật là thú vị khi theo dõi cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp. Bình thường không thể có cuộc đối thoại như thế, vì "người Do thái không được giao thiệp với người Samari." (Ga 4:9) Nhưng một ranh giới đã vượt qua, khi Đức Giêsu khéo léo bắt chuyện: "Chị cho tội xin chút nước uống!" (Ga 4:7) Thường người ta chỉ ra kín nước ban sáng hay chiều. Chị đã cố ý ra giếng buổi trưa để tránh né những cái nhìn xăm xoi vào đời tư, vậy mà cũng không thoát khỏi. Nhưng cuộc gặp gỡ vượt quá sức tưởng tượng ban đầu.

Cuộc đối thoại nhiều lần như bị khựng lạiNhiều lần có nguy cơ trở thành độc thoại. Vừa mở miệng, Đức Giêsu đã bị người phụ nữ "kê tủ đứng" rồi: "Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" (Ga 4:8) Nhưng Đức Giêsu đã khai thông bế tắc một cách dễ dàng. Trước tiên, Người muốn cho chị khám phá con người đang đối diện với chị không phải chỉ là một tập hợp những yếu tố vật chất với những nhu cầu tầm thườngNhưng đó là "ân huệ Thiên Chúa" (Ga 4:10) vô cùng vĩ đại mà chị không nhận ra Vĩ đại vì từ nơi Người mạch "nước hằng sống" (Ga 4:10) sẽ tuôn trào cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu muốn chứng tỏ mình là Thiên sai. Vì "chỉ có Thiên sai mới có thể làm cho con người thỏa niềm ước mong." (Life Application Study Bible 1991:1880) Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là mạch nước hằng sống (Tv 36:9) và là suối nước trường sinh (Gr 17:13). Trong khi phụ nữ đó đề cao tổ phụ Giacóp như ân nhân của dân làng vì đã cung cấp nguồn nước cho bao thế hệ, Đức Giêsu lại muốn cho chị thấy mình trổi vượt hơn tổ phụ, vì "ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa." (Ga 4:14)

Nói đến thế mà chị vẫn chưa hiểu! Đúng là cảnh "ông nói gà, bà nói vịt" Đức Giêsu tìm cách tháo gỡ dần dần cái vòng luẩn quẩn đóChị giật mình khi tất cả đời tư bị phơi bày ra ánh sáng. Làm sao một người xa lạ như Đức Giêsu có thể biết được chuyện chồng con của chị?! Cứ tưởng Người như tất cả thanh niên khác, chị lấm lét thở dài: "Tôi không có chồng." (Ga 4:17). Chị muốn làm một lá chắn thật dầy để che đậy tất cả bí mật màn the. Đức Giêsu cảm thấy thương hại cho người phụ nữ SamariNgười không kết án chị là người dối tráTrái lại, Người dựa ngay vào lời chị để mạc khải một sự thật khiến chị phải thốt lên: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ …" (Ga 4:19) Câu truyện đi vào khúc rẽ quan trọng. Một mạc khải lóe lên ngay trong đời thườngPhải lên núi cao biến hình, Đức Giêsu mới có thể mạc khải cho các môn đệ sự thật về mình. Ngay cả khi vào sa mạc chịu cám dỗ, phải có Thánh Linh hướng dẫn, Đức Giêsu mới xác định được căn tính giữa những tương quan chằng chịt trong trời đất

Mỗi mạc khải đều kèm theo một lời mời gọiKhi nhận ra Đức Giêsu là ngôn sứ, chị được kêu mời trở về với Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa không lệ thuộc vào nơi chốn hay con ngườiQuả thực, "giờ đã đến - và chính là lúc này đây - giờ những người thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật vì Thiên Chúa là thần khí" (Ga 4:23-24) Những đầu óc đặc sệt vật chất không thể hiểu nổi Thiên ChúaBởi vậy, họ đóng khung Thiên Chúa trong những phạm trù hoàn toàn trần tụcNhững tâm trí đó không thể thấy những nét kỳ diệu trong cuộc đối thoại vô cùng lý thú bên bờ giếng Giacóp hôm nay

Nhờ sống lâu trong truyền thống tôn giáo, chị đã hiểu ngay được vấn đề khi nhìn nhận Đức Giêsu là ngôn sứ. Ngay từ nhỏ chị đã được nghe mạc khải về thời kỳ cứu độ: "Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đếnKhi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." (Ga 4:25) Chụp ngay cơ hội, Đức Giêsu nói tất cả sự thật về mình: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." (Ga 4:26) Niềm tin lên tới tột đỉnh khi chị nghe thấy trong lời Đức Giêsu vang vọng tiếng Giavê tự xác định chính mình với ông Môsê bên Ai cập (x. Xh 3:14) Tới đây chị không thể kìm hãm nổi tiếng thôi thúc trong tim nữaVô cùng kinh ngạc và sung sướng, "người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 'Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làmÔng ấy không phải là Đấng Kitô sao?'" (Ga 4:28-29) Phải chăng chị đã bỏ lại đằng sau tất cả biểu tượng của niềm tin cũ (vò nước bên bờ giếng Giacóp) để lao tới trước theo tiếng gọi của niềm tin mới vào Đức Giêsu? Chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng đầu tiên cho dân làngThực vậy, "có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng." (Ga 4:39) Dầu sao, người rao giảng Tin Mừng cũng chỉ đóng vai trung gian. Muốn được cứu độ, người ta phải đích thân băng qua cầu đó. Sự thật ấy đã được các dân làng Samari chứng minh: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian." (Ga 4:42)

Bên cạnh cuộc đối thoại thú vị với phụ nữ Samari, Đức Giêsu còn lợi dụng mấy giây phút ngắn ngủi hàn huyên với các môn đệ để mạc khải một chân lý vĩ đại. Cũng như phụ nữ Samari, đầu óc các ông chỉ "sà sà ngọn cỏ" Từ chủ đề "nước", Đức Giêsu đã nói về "nước hằng sống" là Thánh Linh, mạc khải về bản chất Thiên Chúa là "thần khí", và chính mình như "một ngôn sứ", "Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô" và "Đấng cứu độ trần gian". Còn chủ đề "lương thực" đưa tới một sự thật: "lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người." (Ga 4:34). Như thế Người đã mạc khải về bản chất và sứ mạng của Ba Ngôi trong công cuộc cứu độ toàn thể nhân loại. Nhờ kiên nhẫn, Đức Giêsu đã biến phụ nữ Samari và các môn đệ thành những chứng nhân và sứ giả Tin Mừng.

CHỨNG TỪ SỐNG ĐỘNG.

Những sứ giả đó không được huấn luyện trong các trường đại học, nhưng ngay giữa chợ đời với những câu chuyện hằng ngày xoay quanh vấn đề ăn uống. Cơm áo là tầm thường! Nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chẳng có gì tầm thường đến nỗi không thể vận dụng vào việc mạc khải những chân lý cao siêuNhiều lần người môn đệ cũng đã đối thoại với Thày chí thánh ngang qua những thực tế tầm thường trong cuộc sống. Nếu không, làm sao những anh chị em Đa Minh Việt Nam, chẳng hạn, có thể đem niềm an ủi đến cho đồng bào đau khổ trong các trại phong, khuyết tật, ung bướu hay đến các em kém may mắn không được cắp sách đến trường, những đồng bào thiểu số trên cao nguyên? Khi cung cấp lương thực hay nguồn nước trong lành cho đồng bào, anh chị em đã gieo Tin Mừng hi vọng vào hoàn cảnh tăm tối của họ.

Những nỗ lực như thế vô cùng cần thiết để xoay đổi cục diện thế giới hôm nay. Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Sunni đều cho rằng "lúc nào cũng cần phải chú ý tới các phương diện cơ bản của xã hội: đời sống gia đình, giáo dục, phát triển xã hội, ảnh hưởng thông tin đại chúng, cổ động công lý và tình liên đới trong những quốc gia và trên một tầm mức quốc tế." (Zenit, Feb. 27, 2002) Có những hạng người cực đoan không bao giờ lắng nghe lẽ phải. "Đối thoại không đủ để chinh phục, nhưng cần phải cổ võ việc phát triển toàn diện" (Zenit, Feb. 27, 2002) mới lôi kéo những con người đóĐó là đường lối Đức Giêsu chinh phục chị Samari và các môn đệ.

 

54. Vị Cứu Tinh nhân hậu – Lm. Nguyễn Cao Luật

Đến với miền đất bị xa lánh

Sau những công việc tại Giêrusalem -xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, đàm đạo với Nicôđêmô về cuộc sống mới-, Đức Giêsu lên đường trở lại miền Galilê.

Trong cuộc hành trình này, Đức Giêsu đã không theo con đường người Do-thái vẫn đi là tránh băng qua miền Samari. Từ thời đế quốc Át-xy-ri, người Do-thái và người Samari vẫn kình địch nhau, không giao du với nhau, mmỗi miền có đền thờ riêng. Đức Giêsu biết điều đó và việc Người có mặt tại miền Samari không phải là chuyện tình cờ. Người có sứ mạng đến với mọi dân, mọi nước để đưa họ về với Thiên Chúa. Người là Đền Thờ mới, và Đền Thờ này được dành cho tất cả mọi người. Người là Đấng quy tụ nhân loại, nên chính Người sẽ phá vỡ những rào cản đang phân rẽ nhân loại. Tình yêu cao cả đã buộc Đức Giêsu phải có mặt tại Samari, miền đất thù nghịch với người Do-thái.

Đức Giêsu đã đến Samari như một người thừa sai, một người luôn có những ý nghĩ tốt đẹp về người khác. Như vậy, không một miền đất nào bị bỏ quên ; không một người nào lại không được Người nhớ đến, dù kẻ đó có thế nào chăng nữa.

Để hiểu rõ điều này, có thể so sánh thái độ của Đức Giêsu với thái độ của các môn đệ. Một làng thuộc Samari từ khước tiếp nhận Đức Giêsu vì Người đang hành hương lên Giêrusalem. Thấy thế, Gia-cô-bê và Gio-an đã bày tỏ phản ứng của "con sấm sét": "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" (Lc 9,54). Đức Giêsu lập tức quay lại và khiển trách các ông. Người đã tránh sang một làng lân cận. Người muốn đánh dấu lần Người đi qua cõi thế này bằng những hành vi nhân hậu, chứ không phải bằng những lần nỗ bùng lòng báo thù, và Người tìm cách ghi khắc cách xử sự này vào lòng các môn đệ.

Quả thế, Đức Giêsu đã đến trần gian để tạo nên một sự gắn bó, để kéo nhân loại và vũ trụ đến với Người. Đức Giêsu đi bước trước, nhưng Người không xuất hiện với những nét của một kẻ chinh phục đến thiết lập sự thống trị của mình, hoặc của một kẻ tuyên truyền rêu rao để áp đặt những ý tưởng của mình. Điều Đức Giêsu trao ban trước tiên, đó là trái tim và Người muốn nhận lại trái tim của người khác. Người đến với tư cách là một người bạn, một Đấng Cứu Thế, chứ không phải với tư cách quan toà đến xử án (xem Ga 3,17; 12,47).

Những tiến trình gặp gỡ

Cuộc nói chuyện dài giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari là những cấp độ tiến triển về mặc khải, về thiêng liêng mà điểm kết thúc là người phụ nữ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh.

Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ khi nhìn thấy Đức Giêsu bên bờ giếng, nghe Người xin nước uống, là câu nói về dòng giống. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho chị hiểu rằng, ngay vào lúc này, Người là Đấng ban ơn chứ không phải là người nhận ơn. Chính chị mới là kẻ cần đến sự giúp đỡ của Người (x. Ga 4,10-11).

Khởi đầu, người phụ nữ chỉ coi Đức Giêsu như một người bộ hành mệt nhọc, đang cần nước uống, chứ không thấy được con người sâu xa của Người: chị thấy Đức Giêsu là người Do-thái, không biết Người là Con Thiên Chúa ; chị thấy một con người mỏi mệt chứ không phải là người nâng đỡ những tâm hổn yếu nhược ; chị nhìn thấy con người đang cần nước chứ không biết rằng chỉ mình Người có khả năng làm dịu cơn khát của trần gian.

Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, tuy chưa hiểu rõ hơn về Người, nhưng chị cũng tỏ lòng kính trọng. Chị đỗi cách xưng hô: "Thưa Ngài". Tâm trí chị chưa vượt qua khỏi những quan niệm bình thường, chị vẫn nghĩ đến thứ nước uống tự nhiên, và mong muốn người đang đối thoại với chị cho chị thứ nước ấy, để chị khỏi phải đi múc.

Đến đây, Đức Giêsu đề cập đến điều bí ẩn nhất của tâm hổn chị. Người gợi lại đời sống của chị, không phải với cái nhìn từ trên cao hay với ánh mắt coi rẻ như một số người đàng hoàng trong đám dân Samari vẫn dành cho chị, nhưng là với tấm lòng muốn hoà giải chị với người chổng và giúp chị tiếp tục lại cuộc sống chung với chổng. Chỉ khi ấy chị mới có thể lãnh nhận nước trường sinh, và thay vì phải nô lệ một tình yêu bị cấm đoán, chị dấn thân vào tình yêu cao cả, và nhận được vẻ kiều diễm Đức Giêsu muốn ban cho chị. Cần phải thay đỗi nếp sống, phải dẹp bỏ mọi trở ngại, phải chân thành mới có thể đón nhận ơn cứu độ.

Một lần nữa, người phụ nữ lại đỗi cách xưng hô với Đức Giêsu ; chị coi Người là ngôn sứ. Đổng thời, chị đỗi sang đề tài tôn giáo. Và với vấn đề này, Đức Giêsu cũng đưa chị đến nguổn mạch sâu xa, đến vương quốc sự thật rất rộng lớn. Để đáp lại câu nói của người phụ nữ về Đức Mê-si-a, Đức Giêsu đã xác nhận: "Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây." (Ga 4,26).

Từ nay, trung tâm của việc tế tự không phải là Giêrusalem, cũng không phải là núi Ga-ri-zim, nhưng chính là Đức Kitô.

Và giai đoạn cuối cùng đã đến. Người phụ nữ nói với người khác về Đức Giêsu, chị nhận Người là Đức Kitô. Chị không hề kể cho những người đổng hương về vấn đề thờ phượng Thiên Chúa, nhưng chị nói rõ những điều Người đã nói về đời sống của chị, cả những tội lmỗi còn giấu kín. Chị nói lên điều mà người ta nghĩ rằng chị nên giấu đi. Người phụ nữ Samari thực là một trong những người truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo. Nhiều người đã tin lời chị.

Người phụ nữ đến giếng để múc nước, nhưng khi tìm được Nguổn mạch đích thực, chị đã bỏ lại vò nước, như các môn đệ đã từng bỏ lại lưới và thuyền.

Từ một người xa lạ, chị đã trở thành môn đệ của Đức Kitô. Từ nhận xét ban đầu: người ngổi bên bờ giếng là người Do-thái, chị đã nhận ra người ấy là Đức Kitô, là Đấng Cứu Tinh.

Một kinh nghiệm cho mọi người

Người phụ nữ Samari đã nhận ra Đức Giêsu. Ở đây không phải là một phép lạ có tính cách hữu hình ; không là việc chữa lành bệnh, không là việc làm cho sáng mắt. Điều kì diệu đã xảy ra nơi tâm hổn tội lmỗi của người phụ nữ. Qua việc giải thoát tâm hổn khỏi tội lmỗi, Đức Giêsu đã nhận được tước hiệu vinh quang, mặc dù Người chưa chịu treo trên thập giá.

Tước hiệu vinh quang: "Vị Cứu Tinh của trần gian "không phải chỉ là cảm nghiệm riêng của người phụ nữ, nhưng còn là của cả một đám đông dân chúng. Họ đã nghe câu chuyện người phụ nữ thuật lại và họ đã đến gặp Đức Giêsu, đã nghe lời Người giảng dạy và đã tin.

Như vậy, cây thập giá vẫn hiện diện trong suốt cuộc đời Đức Giêsu, và đã đem lại hậu quả trước khi Người bị treo lên.

Và Đức Giêsu đã quên hẳn cơn khát, quên cả sự mệt nhọc. Người đã bắt đầu chu toàn sứ mệnh của Người khi hướng dẫn người phụ nữ tội lmỗi đến đức tin, thay đỗi lối sống: đưa về cho Chúa Cha những người biết thờ phượng theo thần khí và sự thật. Hình ảnh đám đông người Samari đến gặp Đức Giêsu lại không phải là hình ảnh báo trước rằng Tin Mừng sẽ được loan báo đến tận cùng cõi đất?

Đức Giêsu đã có mặt tại Samari với tư cách của một Vị Cứu Tinh đầy nhân hậu. Người đã đến để cứu vớt, để xoá bỏ những hận thù, để mặc khải những điều sâu xa. Tại đó, Người đã kiên nhẫn thuyết phục người phụ nữ phóng túng về hạnh kiểm. Trong câu chuyện này, lòng nhân hậu của Người thật là một an ủi, một nguổn mạch dịu mát tất cả những ai đang mang trong lòng những phiền muộn, những thất bại và cay đắng.

Hãy đến gặp Đức Giêsu

hãy thưa chuyện với Người

để thấy rằng mình được yêu thương.

Người đang chờ...

Hãy nghe lời Người nói:

Nếu anh, nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban...

 

55. Gặp gỡ Đức Kitô

(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng)

“Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình.

Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh.

Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình.

Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.

Có lẽ tất cả chúng ta đều thuộc những lời ca trên đây của bài hát “Gặp gỡ Đức Kitô”. Những lời ca này có thể áp dụng rất thích hợp vào bài Tin Mừng hôm nay: Người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của chị. Chuyển biến như thế nào?

Hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đi bộ từ miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê, có lẽ đã qua mấy ngày đường dưới nắng hè gay gắt. Trên đường đi, Chúa và các môn đệ đi qua thị trấn Xy-kha, thuộc lãnh thổ Samari, ở đó cố một cái giếng mà tổ phụ Giacóp đã đào dưới chân núi Ga-ri-dim. Giếng này sâu khoảng 39 m nên muốn uống nước, phải có gầu và dây dài thì mới kín múc được.

Khi tới đây, các môn đệ rẽ vào chợ để mua thức ăn trưa, còn Chúa Giêsu tới ngồi nghỉ chân bên bờ giếng. Cùng lúc ấy có một phụ nữ đội vò tới kín nước. Như vậy, người phụ nữ Samari này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa, chứ chị không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chị tới kín nước thì gặp Chúa, và Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước. Nhưng không phải Chúa khát mà xin nước uống, Chúa muốn dùng việc xin nước để nói về một vấn đề quan trọng hơn, có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi chuyện. Ngài muốn nói cho chị biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” tức là gặp được Chúa là có tất cả, không còn khát mong gì khác nữa.

Chúa nói vậy, người phụ nữ không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm bước nữa, Ngài nói với chị về cuộc đời riêng tư của chị, khi đó chị nhận ra Ngài là một tiên tri, một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án, cũng không trách chị đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là điều Chúa muốn nói, điều Chúa muốn là chị nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra khuôn mặt mới: không phải chỉ là một ngôn sứ mà là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai mọi người đang mong đợi.

Như vậy, người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô, cuộc gặp gỡ đã biến đổi cuộc đời chị. Chị đã nhận được ơn tái sinh, tức là ơn đổi mới cuộc đời. Và chị cũng gặp được chính mình. Tin Mừng không cho chúng ta biết chị đã có quyết định thế nào, đã tổ chức lại cuộc sống của chị ra sao. Nhưng chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: khi về nhà, chị không còn có thể sống như trước khi xảy ra cuộc kỳ ngộ này, chị không thể tiếp tục sống như trước mà cần phải đổi thay: chị sẽ sống đàng hoàng hơn, ít ích kỷ hơn, có thể yêu thương sâu xa hơn vì tim chị đã đổi thay. Thực vậy, muốn cho con tim biến đổi, cải hóa, thì phải đi vào tận chiều sâu của tâm hồn, phải đối diện, phải giáp mặt, phải chạm trán với chính cõi lòng mình, đúng như bài ca chúng ta hát: “Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình”.

Đàng khác, cuộc gặp gỡ của chị Samari với Đức Kitô cũng nảy sinh tình đệ huynh: hai dân tộc Do Thái và Samari có một mối thù truyền kiếp. Mặc dầu xưa kia họ cùng một dòng tộc Giacóp, nhưng họ đã chia rẽ nhau từ năm 935 trước công nguyên, khi vua Sa-lô-môn băng hà. Người miền bắc là Samari xây đền thờ riêng tại núi Ga-ri-dim, còn miền nam là Giu-đa, vẫn chọn Giêrusalem làm chính. hai bên kình địch nhau, cuộc bất hòa kéo dài đã hơn 400 năm, nhưng họ vẫn hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thù ghét nhau và tìm cách hại nhau. Cho nên lúc đầu chúng ta thấy người phụ nữ Samari ngạc nhiên, khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại nói chuyện với chị ta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài biết tất cả, Ngài vượt trên tất cả, với lòng nhẫn nại và một chút khéo léo về tâm lý, Chúa đã chinh phục được lòng người và Ngài đã thực hiện việc hòa giải và hòa hợp trong dân tộc Ngài. Người phụ nữ đã hòa giải được sự rạn nứt, giằng co trong chính tâm hồn chị, hòa giải với Thiên Chúa, và hòa giải với đồng bào, hòa giải giữa hai dân tộc Do Thái và Samari.

Nói đến kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu lùn trong Tin Mừng, chính ông đã thú nhận: “Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô của tôi rất độc đáo, phải thú thực rằng: tôi là một người thu thuế không mấy liêm chính, thế nhưng từ lúc gặp Đức Kitô, cuộc đời tôi đã thay đổi hẳn”. Như vậy, chúng ta có thêm bằng chứng về kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô. Và đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Thực vậy, chị Samari gặp Đức Kitô, ông Gia-kêu gặp Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến, đã làm đổi thay cuộc đời của hai người ấy. Đúng vậy, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai khát vọng tìm Ngài, tình thương của Ngài cao vượt trên muôn ngàn tội lỗi hư hèn của con người.

Như người phụ nữ Samari, như ông Gia-kêu, chúng ta cũng cảm nhận được sự yếu đuối tội lỗi của chúng ta, nếu chúng ta đến với Chúa bằng lòng ăn năn sám hối, chúng ta sẽ gặp Ngài, chúng ta sẽ nhận được tình yêu thương khoan dung của Ngài. Tóm lại, nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, và sống có ý nghĩa.

 

56. Gặp gỡ Đức Kitô - Lm Giac. Phạm văn Phượng, OP

Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samari, và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.

Người phụ nữ nầy đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa, Chúa đã gợi truyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: Chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: "Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa".

Khựng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samari không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.

Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: "Đến mà xem: Có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samari trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian".

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: "Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy". Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tâm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tâm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tâm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bõ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.

Người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.

 

57. Chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa

(Suy niệm của Jos. Nguyễn Văn Thuần)

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta tiến vào Chúa Nhật III Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta có thời gian thuận tiện để tĩnh tâm, suy nghĩ và hoán cải... nhằm xây dựng đời sống thiêng liêng ngày một thăng tiến hơn. Qua đó, chúng ta có thể phát triển đến độ viên mãn hồng ân trọng đại mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, để trở nên những phần tử sống động hơn của Giáo hội và ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Hôm nay chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa. Hơn thế nữa, chúng ta thực sự đã gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng luôn ban cho chúng ta nước hằng sống là Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy noi gương Ngài để chia sẻ những gì chúng ta đã lãnh nhận từ Thánh Thể mà trao ban cho tha nhân.

Trên con đường dẫn dân Ít-ra-en về đất hứa, Giavê Thiên Chúa đã dùng sa mạc làm trường học để huấn luyện, thanh tẩy và để hội tụ niềm tin của họ vào một mình Thiên Chúa duy nhất. Và ở giữa sa mạc, thỉnh thoảng người lữ hành có thể tìm một vùng cây cối xanh tươi, dịu mát để múc lấy sức sống từ mạch nước quí giá là Đức Giêsu Kitô. Theo một ý nghĩa nào đó, tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay là chúng ta đang nối gót dân Ít-ra-en xưa kia trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc trần gian để tiến vào Đất hứa. Hơn nữa, chúng ta dõi theo bước chân của Đức Giêsu Kitô đi vào hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Qua đó, đào sâu thêm ý nghĩa của cuộc sống và nhận định lại bậc thang giá trị của đời sống chứng nhân.

Bài Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta đến bên giếng nước trong lành để mời gọi chúng ta dõi theo bước chân của người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng. Bà đến để xách nước, nhưng lúc rời khỏi nơi đây bà đã bỏ chiếc vò đựng nước lại. Bởi lẽ, nơi giếng nước bà đã gặp gỡ một nhân vật có khả năng giải thích những vấn nạn mà bà hằng ôm ấp bấy lâu nay. Nhân vật ấy có khả năng giúp bà thoả mãn mọi khát vọng cũng như mở ra cho bà một chân trời mới, một hướng đi mới. Chính qua cuộc đối thoại với người lữ hành, bà đã cảm nhận được niềm vui chân thật chan chứa trong tâm hồn. Vậy, trên hành trình xuyên qua sa mạc của Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đang ngồi bên bờ giếng để mời gọi chúng ta đến kín múc nguồn nước hằng sống là chính Ngài. Chính nhờ nguồn nước hằng sống ấy giúp chúng ta không bao giờ khát nữa.

Cũng như người phụ nữ Sa-ma-ri, hôm nay chúng ta đang quây quần bên Thánh Thể Chúa Giê-su để gặp gỡ và lắng nghe lời Ngài nói. Và chúng ta đã mang chính nguồn sống mà chúng ta đã lãnh nhận là Chúa Giêsu Thánh Thể, để từ nguồn sống cao quí thiêng liêng này, chúng ta có thể hướng dẫn tha nhân đến với Ngài, hay ít ra là cố gắng thể hiện thực tại Nước Trời trong gia đình, lối xóm và chính trong môi trường chúng ta đang sống và làm việc. Một Nước Trời của công lý, hoà bình và là nơi tình yêu chân thật được thể hiện qua sự hiệp nhất, cảm thông, liên đới và sẻ chia. Có như thế nguồn sống và lương thực mà Đức Giê-su thông ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể mới trở nên như những nguồn nước trong lành, mang sức sống mãnh liệt cho xã hội. Bởi vì xã hội còn đầy dẫy những ích kỷ, ghen ghét, hận thù, độc tài, mưu sát, hối lộ, tham nhũng và những hành động bất công như sự chà đạp lên các quyền lợi chính đáng của con người.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong Mùa Chay và Phục Sinh sắp tới, lời giảng dạy của Chúa, nhất là cuộc khổ nạn và cái chết thảm thương của Ngài, đã nói lên quá đủ về sự nặng nề của tội lỗi, về sự cao trọng quý báu của ơn Chúa, nhất là ơn thánh hóa. Xin cho chúng con biết cố gắng tìm cách xác tín mạnh mẽ vào giá trị của ơn Chúa, hay đúng hơn của sức sống siêu nhiên thần linh mà Chúa đã ban; sau đó xin cho chúng con biết sống theo những gì mình đã xác tín và làm hết sức mình để bảo vệ và toả lan sự sống ấy cho những người chưa nhận biết nguồn nước hằng sống là chính Đức Giê-su Kitô. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ