Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 62
Tổng truy cập: 1442449
KHIÊM TỐN XÓA BỎ ĐỜI MÌNH
Có một người được Thiên Chúa sai đến, đó là Gioan. Ông đến để làm chứng…
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan: “Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay, Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!”. Và những câu chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt 11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta, Gioan Tẩy Giả như “người rao giảng lòng sám hối” chỉ có Tin Mừng thứ tư cho ta hay, ông được coi như “chứng nhân của ánh sáng”… “người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô”. Ta đừng quên rằng, từ chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh “Martyros”, và trên thực tế, Gioan đã là vị “chứng nhân đầu tiên” của Đức Giêsu. Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian “lên án” Đức Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn nạn: “Nhưng ông ta là ai?” Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ “chứng tá” được sử dụng 14 lần, và động từ “làm chứng” được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện, đó là Gioan Tẩy giả: “ông đến để làm chứng về ánh sáng”. Liệu tôi có dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do Thái đến hỏi ông: “Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?”
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không? Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về “bí quyết” chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô… cũng không phải là vị Ngôn sứ… tôi là một “Tiếng kêu”.
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết. Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là: “ông có nhận mình là Đức Kitô không?”. Rồi một câu hỏi khác lại được gợi lên: “Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?”
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai: ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô… Rồi ông nói thêm, ông chỉ muốn là một “tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: “Hỡi Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?”. Không, tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như những “kẻ độc quyền thừa hưởng” Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là “nhận biết” và gọi tên ” Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948, khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện “của Đấng đang” ở giữa cho dù Người chưa được người ta nhận biết. “Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền sống của ta… Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền được bảo vệ nhân phẩm cuả ta….Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ, đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó… cho dù các ông chưa gọi được tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn…”, như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết… Người sẽ đến…
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét bão giông. Thiên Chúa không phải là “kẻ chà đạp” hay “thống trị”. Người như “tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ thổi tới đâu”. (Ga 3,8). Thiên Chúa là “Đấng tự để cho người ta chà đạp, đóng đinh, buộc tội”. Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là “Thiên Chúa dấu ẩn”, ta không thể nắm bắt được “Bản thể ” của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu “(Vậy ông là ai’), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là “Thiên Chúa không thể biết được”, là “Thiên Chúa dấu ẩn”!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!). Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui của Người “bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho Người…
Gioan Tẩy Giả là con người “khiêm tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo” Gioan Tẩy Giả, đó là chứng nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được ‘biến đi” để Người “lớn lên” (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người “tôi tớ” không xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất “tác vụ ” của mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm ‘lợi ích cho Đức Giêsu, bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác” (Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: “Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ” (Mt. 11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân” tuyệt hảo, mà cũng là “mẫu tín hữu” tiêu biểu: “Kẻ không thấy nhưng vẫn tin “ (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho chúng con “tình yêu điên cuồng” đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm vui chúng con được trọn vẹn…
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên “thanh tẩy”, các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga 1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động “tha tội” (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ “sạch”, những “Peruoushim”, biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được phép hay cấm đoán… (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn tha tội… vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước… nhưng sau ông, sau cử chỉ làm phép rửa có tính nghi thức của ông, thì “chiên xóa bỏ tội trần gian” sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến… từ thành thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần (Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng “thừa sai”, không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa… trên bờ sông bên kia.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- B
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG- Chú giải của Fiches Dominicalaes
1).Ngài chỉ là chứng nhân của sự sáng.
Bài đọc cho Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay lấy trong
Tin Mừng của thánh Gioan. Trong lúc lời mở đầu được viết như một thánh thi: “Từ đầu đã có Ngôi Lời…, thì bỗng nhiên cung giọng trên như bị ngắt ngang (6-8), tác giả làm xuất hiện “một người” tên là Gioan.
– Khi khẳng định Gioan được “Thiên Chúa phái đến”, thánh sử đã xếp ông vào hàng những ngôn sứ lớn.
Ngài được sai đến như “một chứng nhân” để làm chứng cho “Ánh Sáng”, bởi vì chính ngài không phải là ánh sáng.
2).Ngài chỉ là đấng mặc khải sự hiện diện huyền nhiệm.
Từ câu 19 đến câu 28, chúng ta thấy Gioan thực hiện điều mà đoạn mở đầu đã loan báo về ngài.
– Bị thúc bách bởi người Do Thái (phải hiểu là giáo quyền của phái Giuđa) muốn biết rõ ngài có phải là Đấng Mêsia họ đang mong đợi hay không, thì ba lần Gioan Tẩy Giả đều trả lời bằng cách phủ nhận:
Không, ngài không phải Đấng Mêsia cho dù hành động làm phép rửa của ngài gợi lên thời kỳ đã mãn đang đến, và có thể làm cho người ta tin như thế.
Không, ngài không phải là “Êlia”, đấng sẽ đến trước Đấng Mêsia như người ta khẳng định từ khi ông được cất lên trời trong cỗ xe bằng lửa (xem Mal. 3,23: “Này đây Ta sẽ sai Êlia, vị ngôn sứ trước khi ngày của Giavê đến”).
Không, ngài không phải là “vị tiên tri vĩ đại” nhân vật mà Môsê đã loan báo sẽ đến (trong Đệ Nhị Luật 18,15-18).
Trước sự gạn hỏi của đối phương: “Nếu ông không phải là Đấng Messia, là Êlia hay vị ngôn sứ vĩ đại, tại sao ông lại làm phép rửa?”. Gioan Tẩy Giả xác định vị trí của mình đối với Đấng ngài loan báo, ngài có hai vai trò:
Trước hết ngài là “tiếng kêu” mở đường cho Đấng mà họ không biết. Ngài thực hiện lời tiên tri trong Isaia 40 nơi bản thân và trong sứ mạng của ngài: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc: hãy san bằng đường của Chúa như ngôn sứ Isaia đã loan báo” (bài đọc thứ nhất Chúa nhật II Mùa Vọng).
Léon Dufour dẫn giải: Tự giới thiệu mình là “tiếng kêu”, Gioan đảm nhận phẩm cách cao trọng của Kinh Thánh. Nếu tự ngài không có gì cả cho riêng mình, ngài nhận lấy Lời Hứa trong chính bản thân ngài. Nếu thánh sử không diễn tả những nét đặc biệt của Gioan Tẩy giả, là vì muốn mặc cho ngài khuôn mặt của Cựu ước để qua nhân chứng này, chính Thánh Kinh của Israel nhận ra và chỉ rõ Đức Kitô là Đấng Mêsia. Từ lúc mở đầu cuốn sách cái nhìn này là chủ yếu trong suốt cuốn Tin Mừng của Gioan. (Sđd., Tr. 161).
Sau đó, ngài là đấng làm phép rửa “trong nước, phép rửa khai tâm để hướng về phép rửa “trong Thánh thần”. A. Marchadour viết: “Đối với Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu phải được tiếp nhận như một ân huệ nhiệm mầu của Thiên Chúa, đấng mà không ai biết nguồn gốc. Chính ông cũng không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, một việc chỉ do hàng tôi tớ làm mà thôi. Điều đó nói lên sự cách biệt giữa Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả” (“Tin Mừng thánh Gioan”, Centurion, tr. 43).
Sự hiện diện của Đấng Mêsia sẽ hoàn tất lời Chúa hứa với Israel. Điều cần thiết là biết được Đấng sẽ đến là ai. Ít lâu sau, Gioan Tẩy Giả sẽ chỉ cho thấy Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Tin Mừng Chúa nhật II, năm B).
BÀI ĐỌC THÊM
“Đáp lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả, chúng ta hãy sẵn sàng để đón rước con Thiên Chúa làm người”.
(Sintas trong: “Lời Chúa để suy gẫm và dọn bài giảng năm B”, Mediaspaul, tr. 14-15).
“.. Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ trong cả cuộc sống của ngài… lời dạy của ngài là một lời kêu mời sám hối và đền tội. Đến nỗi giáo quyền Giêrusalem lo lắng và sai người đến hỏi ông: “ông là ai?”. Đằng sau câu hỏi này, còn có một câu hỏi khác: ngài có phải là Đấng Mêsia mà tất cả truyền thống Do Thái chờ đợi không?
Gioan khẳng định ông không phải là Đấng “Mêsia”, đồng thời ông loan báo một điều lạ lùng: Đấng Mêsia đã ở giữa họ mà họ không biết. Họ hãy mau chuẩn bị. Nếu muốn nhận ra Người thì hãy đọc lại lời tiên tri Isaia. Lời đó sẽ nói cho hay cứ dấu nào họ sẽ nhận biết Người.
Isaia đã hứa những gì? Chúng ta vừa nghe ông nói. Đấng Mêsia không tỏ mình ra trong sự huy hoàng mà loài người thường gán cho thần thánh. Ngài đến với người nghèo để loan báo Tin Mừng cho họ. Ngài đến với người tàn tật để loan báo họ sẽ được lành. Ngài đến với tù nhân để loan báo họ sẽ được tự do.
Để gặp được Đấng Thiên Chúa sai đến, điều quan trọng là chúng ta nhận ra mình đứng về phía những người mà Người được sai đến. Nếu chúng ta không muốn sống nghèo giữa người nghèo, chúng ta sẽ không gặp được Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta không nhận ra mình là người bệnh hoạn, và trái tim tan nát hay bị tù đày, Giáng sinh đích thực sẽ không phải là của chúng ta.
Tự nhận và muốn mình là người nghèo của Thiên Chúa, đó là thống hối, đó là phép rửa mà chúng ta được Gioan mời gọi, nếu chúng ta muốn dọn mình để mừng Con Chúa làm người. Lẽ tất nhiên sự hoán cải này là bổn phận thiêng liêng và thuộc nội tâm. Nhưng nếu sự tiến triển bên trong không được diễn tả ra bên ngoài bằng việc làm và một đời sống cụ thể thì không có gì là thật. Bởi thế, Mùa Vọng mới gọi chúng ta đến gặp những anh em nghèo vật chất hay tinh thần, bệnh hoạn và tù nhân. Không phải với một thái độ trịch thượng, thương hại. Ta phải đến với họ như đến với người anh em, bởi lẽ những gì biểu hiện ra trong thân xác, trong cuộc sống của họ, là dấu chỉ những gì xảy ra trong thâm tâm ta. Chúng ta thuộc về họ và họ thuộc về chúng ta. Có lúc do nghề nghiệp mà chúng ta đến gặp họ. Nếu không, chúng ta cũng có thể tình nguyện đến gặp họ. Lẽ tất nhiên, trước vô vàn những khốn khổ, chúng ta cũng không làm được bao nhiêu. Nhưng ít ra nó cũng gợi lên trong ta niềm hy vọng đích thực mà đôi khi chúng ta cũng cần có. Niềm hy vọng ấy giúp ta quay trở về với Thiên Chúa để ước ao Ngài ban cho ta một Đấng Cứu Độ, Đấng có thể hoàn tất mỹ mãn những gì mà lòng quảng đại của chúng ta chỉ mới bắt đầu. Niềm hy vọng ấy cũng sẽ cho ta của những việc chúng ta định làm và đã bắt đầu dù cho là thật nhỏ bé.
CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG- B
HÃY VUI LÊN VÌ CHÚA GẦN ĐẾN (*)- Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Vọng ngân vang lời mời gọi các tín hữu: “Hãy vui lên, Chúa sắp đến gần rồi”.
Is 61: 1-2a, 10-11
Bài Đọc I loan báo tin mừng cho những ai nghèo hèn, bất hạnh, bị giam cầm… biết rằng năm hồng ân của Chúa sắp đến rồi.
1Tx 5: 16-24
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca hãy vui luôn mãi và không ngừng tạ ơn Chúa vì những thiên ân mà họ đã lãnh nhận được.
Ga 1: 6-8, 19-28
Tin Mừng tường thuật chứng từ của Gioan Tiền Hô, thánh nhân khẳng định rằng Đấng muôn dân mong đợi hiện đang ở giữa anh em.
BÀI ĐỌC I (Is 61: 1-2a, 10-11)
Vào Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó, chúng ta đã đọc lời khẩn nguyện của vị ngôn sứ thời lưu đày. Vào Chúa Nhật III Mùa Vọng hôm nay, chúng ta đọc bài thánh thi của vị ngôn sứ thời hậu lưu đày. Đây là bài Thánh Thi Chúc Tụng được cộng đoàn xướng đáp.
Bài thánh thi này được đặt vào bối cảnh vài năm sau năm 538 trước Công Nguyên, năm những đoàn người lưu đày ở Ba-by-lon lần đầu tiên được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Tác giả của bài thánh thi nầy là một vị ngôn sứ nặc danh sống ở giữa những người hồi hương tại Giê-ru-sa-lem. Ông thường được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ tam thời hậu lưu đày (Is 56-66) để phân biệt với hai vị tiền nhiệm của ông là vị ngôn sứ nặc danh khác thời lưu đày được gọi với biệt danh là I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) và ngôn sứ I-sai-a đệ nhất thời tiền lưu đày (Is 1-39).
Bài Đọc I của Chúa Nhật III Mùa Vọng trích dẫn hai phần khác nhau của bài thánh thi này (Is 61: 1-11): đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a) là phần mở, và đoạn trích thứ hai (61: 10-11) là phần kết.
1).Đoạn trích thứ nhất (61: 1-2a):
Trong đoạn trích thứ nhất, tác giả biện minh cho sứ vụ ngôn sứ của mình:
“Thần Khí của Đức Chúa, là Chúa Thượng ngự trên tôi,
vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” (61: 1).
Ông đã được Thần Khí Chúa xức dầu tấn phong. Đây là cuộc xức dầu tấn phong thiêng liêng bởi vì không có nghi thức xức dầu tấn phong cho các ngôn sứ. Chính Thiên Chúa đã chọn các ngôn sứ của Ngài và ủy quyền cho họ nói thay cho Ngài.
Ông có sứ mạng là “loan báo tin mừng cho những người nghèo hèn”(tác giả lấy lại diễn ngữ “tin mừng” của vị tiền nhiệm của mình là I-sai-a đệ nhị được trích trong Bài Đọc I của Chúa Nhật II Mùa Vọng trước đó). Tin Mừng nầy có thể được tóm lược như sau: “Phúc thay những người nghèo khổ!”, âm vang một trong những mối phúc thật của Đức Giê-su.
Những người hồi hương thật sự vỡ mộng trước thực trạng muôn vàn khó khăn trong công cuộc tái thiết quê hương. Họ là những người nghèo hèn với tấm lòng tan nát. Vị ngôn sứ gọi họ là “kẻ bị giam giữ” cho dù hiện nay họ đã được phóng thích. Qua những từ ngữ đó, ông muốn nhấn mạnh nỗi cùng cực khốn khổ của họ mà hình ảnh sau đó được giải thích rõ hơn: “công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa”, nghĩa là năm mà những người nô lệ được phóng thích, mọi nợ nần được tha bổng, đất đai được phân phối lại. “Năm hồng ân” được cử hành cứ năm mươi năm một lần. Năm Hồng Ân này thật ra khai triển “năm sa-bát”, năm được cử hành cứ bảy năm một lần (Năm Hồng Ân là năm thứ 50 của 7 x 7 = 49). Năm hồng ân biểu tượng một lý tưởng về sự công bình xã hội.
Đây là những “người nghèo của Đức Chúa”, những người mà Kinh Thánh gọi là “anawim”. Danh xưng “anawim” bao hàm những người nghèo khổ vật chất, nhưng khiêm hạ và tín thác vào Thiên Chúa. Đặc ngữ này mang một nét nghĩa căn bản là “còng lưng xuống”, còng lưng xuống dưới gánh nặng của sự nghèo khó, của sự nhục nhã, nhưng cũng “sấp mình xuống” vì thái độ tôn giáo của họ, tin tưởng phó thác hoàn toàn vào lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đây là một khái niệm căn bản của Cựu Ước cũng như Tân Ước. Chính những kẻ hèn mọn nầy mà Đức Giê-su dành trọn niềm ưu ái cho họ. Một trăm năm sau đó, một vị ngôn sứ khác, Xô-phô-ni-a, đã tiên báo cuộc thăng tiến của những người nghèo nầy:
“ Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ nữa” (Xp 3: 12-13).
2).Đoạn trích thứ hai (61: 10-11).
Trong đoạn trích thứ hai, cộng đoàn xướng lên những lời hân hoan chúc tụng:
“Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Thiên Chúa,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn hở biết bao!” (61: 10a).
Lý do của những lời hoan ca nầy được diễn tả qua hai hình ảnh. Hình ảnh thứ nhất là “trang phục”: Giê-ru-sa-lem được mặc hồng ân cứu độ, được khoắc áo choàng công chính như chàng rể chỉnh tề khăn đóng, tựa cô dâu điểm trang lộng lẫy. Hình ảnh thứ hai là “khu vườn”: Giê-ru-sa-lem được sánh ví với khu vườn được Thiên Chúa chăm sóc tận tình để “trở hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân”.
3).Ý nghĩa của việc nối kết hai đoạn trích nầy:
Khi đặt hai đoạn trích đầu và cuối bài thánh thi nầy bên cạnh nhau, Phụng Vụ mời gọi chúng ta gẫm suy về mối liên hệ sâu xa giữa “ơn cứu độ” mà Đấng Mê-si-a hứa ban và “vẻ đẹp lộng lẫy” của Giê-ru-sa-lem được nhân cách hóa nơi dân Thiên Chúa. Sách Khải Huyền lấy lại hình ảnh Giê-ru-sa-lem thiên quốc như Tân Nương được điểm trang lộng lẫy nhờ máu Con Chiên.
Cách thức tiếp cận lịch sử như vậy có thể hiểu được nhờ những đau khổ của nhóm nhỏ trung thành còn sót lại, những “người nghèo hèn” nầy mà nỗi khốn khổ của họ lôi kéo lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Và chính qua họ mà lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa trải dài cho đến tận cùng thế giới.
BÀI ĐỌC II (1Tx 5: 16-24)
Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa lô-ni-ca là văn phẩm sớm nhất trong các văn phẩm Tân Ước. Bức thư nầy được viết vào mùa đông năm 50-51. Thánh Phao-lô thiết lập giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào mùa hè năm 50, nhưng ngài đã phải vội vả trốn chạy khỏi thành phố khỏi cơn thịnh nộ của người Do thái tìm cách giết ngài, vì lời rao giảng của thánh nhân khiến nhiều người Ít-ra-en lẫn lương dân ăn năn trở lại.
Vì thế, thánh nhân thật sự bận lòng đến cộng đoàn non trẻ bị hăm dọa nầy. Sau nầy, cộng tác viên của ngài là ông Ti-mô-thê quay trở lại Thê-xa-lô-ni-ca và thuật lại cho thánh nhân những tin tốt lành: dù bị người Do thái đe dọa và quấy nhiễu, cộng đoàn Thê-xa-lô-ni-ca non trẻ nầy vẫn kiên vững trong niềm tin của mình. Thế nên, thánh Phao-lô viết bức thư nầy gởi đến họ với cung giọng nồng nàn chan chứa niềm hân hoan và cảm tạ. Đoạn trích thư hôm nay được định vị vào cuối thư bao gồm những lời khuyên bảo và khích lệ.
1).Vui mừng, cầu nguyện và tạ ơn:
Trong lời khuyên thứ nhất, Thánh nhân kêu mời ba điều quan trọng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”.
Trước hết, “Anh em hãy vui mừng luôn mãi”. Thánh Phao-lô thường nhấn mạnh niềm vui Ki-tô giáo. Niềm vui là hoa quả của Thần Khí, Đấng hằng ở với người Ki-tô hữu ngay cả trong gian nan thử thách. Chính thánh nhân luôn “chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2Cr 7: 4). Niềm vui này phát xuất từ niềm xác tín là được dự phần vào vương quốc Thiên Chúa ngay từ cõi thế nầy.
Tiếp đó, “Hãy cầu nguyện không ngừng”. Thánh nhân hầu như luôn luôn khuyên cầu nguyện “không ngừng”, “mọi lúc”, “đêm cũng như ngày”. Chung chung, thánh nhân cầu nguyện với Chúa Cha, qua Chúa Ki-tô, nhờ Chúa Thánh Thần. Hiếm khi thánh nhân cầu nguyện trực tiếp với Chúa Ki-tô. Thánh nhân nói, chính nhờ Thần Khí mà chúng ta mới có thể thân thưa với Thiên Chúa là “Cha”.
Sau cùng, “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”. Tạ ơn là một cấu tố của lời cầu nguyện, xoay quanh lời chúc tụng. Truyền thống Do thái dành một chỗ đặc biệt cho tâm tình cảm tạ tri ân, chẳng hạn như bài ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của cụ già Si-mê-ôn là bài ca cảm tạ tri ân (Lc 1: 68-79). Thánh Phao-lô hầu như luôn luôn bắt đầu bức thư của mình với lời chúc tụng Thiên Chúa.
2).Ân ban Thần Khí:
Trong lời khuyên thứ hai, thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca: “Anh em chớ dập tắt Thần Khí”. Cứ để mỗi người nói lên những ân ban mà mình nhận được, ngay cả ơn ngôn sứ. Điều quan trọng là phải biết “cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy; còn tất cả những gì xấu thì lánh cho xa”.
3).Ơn thánh hóa:
Trong lời khuyên thứ ba, thánh Phao-lô nói lên đề tài tâm đắc của mình: ơn thánh hóa, mà sau này, thánh nhân sẽ khai triển sâu xa hơn: chúng ta được thánh hóa nhờ tác động của Thiên Chúa chứ không do nổ lực cá nhân của mình.
Việc phân chia con người thành ba phần: thần trí, tâm hồn và thân xác, không gặp thấy bất cứ nơi nào khác trong các thư của thánh Phao-lô. Người Hy lạp cũng như người Do thái đều không quan niệm con người theo cách phân chia như thế. Ở đây, thánh Phao-lô chỉ muốn nói đến toàn diện con người. Theo thói quen của mình, thánh nhân khai triển chữ “toàn diện” đi trước và tô đậm chữ “thần trí” theo sau. Chữ “thần trí” này mang lấy ý nghĩa Ki-tô giáo: chính nhờ thần trí, con người rộng mở trước tác động của Thần Khí.
TIN MỪNG (Ga 1: 6-8, 19-28)
Tin Mừng hôm nay được trích từ hai đoạn văn khác nhau của Tin Mừng thư tư: một từ Tựa Ngôn (1: 1-18) giới thiệu “chức năng chứng nhân” của Gioan Tiền Hô (1: 6-8) và một khác từ Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su (1: 19-2: 12) trình bày “lời chứng” của Gioan Tiền Hô (1: 19-28).
1).Chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô (1: 6-8):
Tựa Ngôn là một bài thánh thi ca ngợi “Ngôi Lời” bị ngắt nhịp hai lần để giới thiệu Gioan Tiền Hô là chứng nhân của Đức Ki-tô (1: 6-8 và 15). Lần ngắt nhịp thứ nhất được trích dẫn ở đây như phần mở đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Trong phần mở đầu nầy, tác giả Tin Mừng thứ tư không đề cập đến sứ điệp của Gioan Tiền Hô cũng như ý nghĩa phép rửa của thánh nhân, nhưng tô đậm “chức năng chứng nhân” của thánh nhân:
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.
Ông đến để làm chứng,
và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (1: 6-8).
Đối với Tin Mừng thứ tư, “chứng nhân” là chức năng quan trọng bậc nhất, như tác giả nhấn mạnh trong thư thứ nhất của mình:
“Điều chúng tôi đã nghe,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống…
Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa…” (1Ga 1: 1-4).
2).Lời chứng của Gioan Tiền Hô (1: 19-28):
Sau khi giới thiệu chức năng chứng nhân của Gioan Tiền Hô, tác giả Tin Mừng thứ tư trình bày lời chứng của thánh nhân.
Thánh nhân phủ nhận tất cả những gì người ta nghĩ tưởng về ông để chỉ tập trung lời chứng của mình vào sự hiện diện của Đấng đến sau ông và hiện có mặt ở đây rồi. Ông không phải là Đấng Mê-si-a mà dân chúng đang mong đợi. Ông cũng không phải là Ê-li-a mà truyền thống truyền tụng theo đó vị ngôn sứ này được rước lên trời và sẽ trở lại trần thế để chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a. Ông cũng không phải là ngôn sứ vĩ đại mà Đức Chúa hứa với ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật: “Từ giữa anh em, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng…” (Đnl 18: 18).
Sau khi đã phủ nhận tất cả những nhân vật nổi tiếng mà người ta nghĩ tưởng về mình, thánh nhân công bố sứ điệp: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đối với thánh nhân, Chúa Giê-su phải được đón nhận như một ân huệ mầu nhiệm của Thiên Chúa mà không ai biết thân thế của Ngài. Ở đây, có thể ám chỉ đến niềm tin dân gian vào một Đấng Mê-si-a ẩn mình cho đến khi ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện và chỉ cho người ta nhận ra Ngài. Thật vậy, sách Tin Mừng thứ tư nhấn mạnh hơn các sách Tin Mừng khác lời loan báo về Đấng Mê-si-a hiện ở giữa họ rồi mà họ không nhận ra.
Cuối cùng, thánh nhân làm chứng về sự cao cả của Đấng đến sau ông, nhưng trổi vượt hơn ông đến mức chính ông cũng “không đáng cởi quai dép cho Ngài” (1: 27), một công việc thấp hèn dành cho người nô lệ đối với chủ của mình. Về phương diện lịch sử, Đấng ấy sinh ra sau ông và thi hành sứ vụ sau ông, nhưng về phương diện thần linh, Đấng ấy hiện hữu trước ông.
Tại sao lời chứng của Gioan Tiền Hô về Đức Ki-tô mặc lấy một tầm mức quan trọng đến như thế? Để có thể lĩnh hội được Tin Mừng thứ tư, chúng ta cần phải giải mã những ẩn ý nầy. Tin Mừng thứ tư vốn giàu biểu tượng nên luôn luôn hàm chứa hai nghĩa: nghĩa trực tiếp và nghĩa ẩn dụ.
3).Nghĩa trực tiếp:
Theo nghĩa trực tiếp, chúng ta có thể gặp thấy chìa khóa ở nơi “Tuần Lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su” đối xứng với “Tuần Lễ bế mạc sứ vụ công khai của Ngài” tại thành thánh Giê-ru-sa-lem. Tuần Lễ Khai Mạc được trình bày thành bảy ngày và được phân định cách mặc nhiên hay minh nhiên qua biểu thức “Hôm sau”:
-Ngày thứ nhất: Gioan Tiền Hô làm chứng về chính mình và về Đức Ki-tô trước những chất vấn của các tư tế và các thầy Lê-vi được phái đến từ Giê-ru-sa-lem (1: 19-28).
-Ngày thứ hai: Gioan Tiền Hô làm chứng trước dân chúng về Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” và là Đấng mà Thần Khí ngự xuống vào lúc Ngài chịu phép rửa (1: 29-34).
-Ngày thứ ba: Gioan Tiền Hô làm chứng về Đức Giê-su cho hai môn đệ của mình là ông An-rê và người môn đệ khác. Hai môn đệ này liền rời bỏ thầy mình mà đi theo Đức Giê-su.
-Ngày thứ tư: Ông An-rê rũ em mình là ông Phê-rô cùng gia nhập với mình (1: 35-42).
-Ngày thứ năm: Ông Phi-líp-phê và ông Na-tha-na-en nhập đoàn với các môn đệ tiên khởi (1: 43-51).
Việc tác giả không kể ra ngày thứ sáu là có chủ ý, nhờ đó tác giả mới có thể bắt đầu dấu lạ Ca-na vào ngày thứ bảy như sau: “Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê”, trong đó các môn đệ tiên khởi đã “chứng kiến vinh quang của Ngài” và đã “tin vào Ngài”. Với diễn ngữ thời gian: “ngày thứ ba”, người Ki-tô hữu nghĩ ngay đến cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, biến cố bày tỏ tuyệt mức vinh quang của Ngài.
Khi trình bày một tuần lễ khai mạc sứ vụ công khai của Đức Giê-su như thế, tác giả Tin Mừng thứ tư thiết lập sự đối xứng với một tuần lễ sáng tạo thế giới, qua đó thánh ký muốn nói rằng Đức Ki-tô giáng trần để thực hiện một cuộc tạo dựng mới, hay đúng hơn, một cuộc tái tạo.
2).Nghĩa ẩn dụ:
Lời chứng của Gioan Tiền Hô được trích dẫn trong Tin Mừng hôm nay định vị vào ngày thứ nhất trong Tuần Lễ Khai Mạc. Trong tuần lễ sáng tạo thế giới, ngày thứ nhất được đánh dấu bởi việc phân tách Ánh Sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-5).
Do đó, tất cả ý nghĩa sâu xa của đoạn Tin Mừng hôm nay chính là Gioan Tiền Hô đến để làm chứng về ánh sáng. Trái lại, các tư tế và các thầy Lê-vi được cử đến và trở về Giê-ru-sa-lem mà không đón nhận phép rửa tỏ bày lòng sám hối, vì thế, không rộng mở lòng mình ra để đón nhận ánh sáng. Tuy nhiên, họ đã được loan báo cho biết: “Có một Vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (động từ “biết” theo văn hóa Do thái không chỉ nói lên một sự hiểu biết thuần trí tuệ nhưng đặc biệt trọn cả con tim nữa). Như vậy, giáo quyền Do thái, ngay từ đầu, vẫn đắm mình trong bóng tối. Sự kiện nầy sẽ chi phối cách hành xử sau cùng của họ đối với Đức Ki-tô.
Cặp tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nầy hình thành nên một trong những đề tài chủ đạo của Tin Mừng thứ tư. Việc đối lập nầy đã được minh chứng rồi ngay trong Tựa Ngôn.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam