Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 81

Tổng truy cập: 1446743

HÔM NAY ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ

Hôm nay… được ơn cứu độ – Jos. Vinc. Ngọc Biển

Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).

Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta sầm xì bàn tán: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi” (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.

  1. Ý nghĩa Lời Chúa

Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua, người mà ông đã mong ngóng đợi trông từ lâu.

Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã, vì thế họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ…

Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông cũng như vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Để được thấy Chúa, ông phải dùng đến một cách thế xem ra hơi lố bịch với người có địa vị như ông. Thật thế, sự quyết tâm của ông rất mãnh liệt. Sở dĩ ông vượt qua được dư luận như vậy là vì ông đang có một nỗi đam mê lớn lao. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.

Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của ông, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.

Thật vậy, người đời thường nói: “Con mắt là cửa sổ của tâm hồn” Đức Giêsu cũng nói: “Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6,22t; x. Lc 11,34t). Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Chúa là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Và cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.

Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Chúa Giê su chủ động tìm ông vì Ngài không muốn ông sống mãi trong tình trạng tội lỗi như hiện thời nữa. Đây cũng chính là sứ vụ cứu chuộc của đức Giê su. (x. Lc 19,10). Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).

“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu làm cho ông không tưởng! Làm sao mình lại được diễm phúc như vậy? Làm sao Chúa lại vào nhà ông, một người tội lỗi tầy trời như thế? Chưa hết bàng hoàng, vì Chúa gọi đúng tên ông, nhưng ông đã mau mắn tụt xuống khỏi cây sung và sẵn sàng mở rộng tấm lòng để đón tiếp Đức Giêsu vào nhà ông. Hành động tụt xuống của ông cho ta thấy, từ đây ông dốc quyết quay lưng lại với con đường tội lỗi, không kiêu ngạo, không bóc lột, không hà hiếp và không làm những điều sai quấy chống lại nhân dân nữa… và, ông đã biểu hiện tấm lòng sám hối chân thành ấy bằng việc thực thi đức công bằng và sống đức bác ái: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn” (Lc 19, 8).

Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu; một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng, và tình yêu đã hướng dẫn ông và dẫn ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc 19, 9).

Thật vậy, Gia kêu hôm nay đã chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.

  1. Sứ Điệp Lời Chúa Hôm Nay

Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Gia Kêu hay không?

Khi Gia kêu trèo lên cây sung, ông nghĩ sẽ nhìn thấy Chúa rõ ràng hơn, nhưng Chúa lại không để ông ở trên đó, có lẽ vì Chúa muốn ông phải trở về cuộc sống đời thường, phải sống thật sự chân thành, khiêm nhường thì mới gặp được Chúa. Bản chất của con người là: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tuy nhiên với năm tháng và môi trường nghề nghiệp, nhiều khi con người dễ bị tha hóa…. Nhưng không phải vì con người tha hóa do môi trường, nghề nghiệp mà không thể hoán cải được. Không! Con người vẫn có thể trở nên tốt nếu họ có cơ hội. Cơ hội đó có thể đến từ chính họ, và đôi khi cũng phải đến từ phía chúng ta… Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại còn xấu thêm…

Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra đó là thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không thôi. Bên giáo lý nhà Phật có câu: “Quay đầu là bờ”, tức là đừng đi theo con đường tỗi lỗi nữa, mà hãy quay lại nẻo chính đường ngay thì mới được giác ngộ. Chúng ta đừng kiêu ngạo và tự cho mình là tốt lành thánh thiện trước mắt Chúa. Chúng ta cũng đừng coi thường hay khinh bỉ người khác như người Do thái khi xưa: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Coi chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu mồ mả. Khi nói về sự giả tạo, Đức Giê su đã lấy hình ảnh nấm mồ để vạch trần sự gian trá của những người tự coi mình là đạo đức và coi khinh người khác: “Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các ngươi cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong là giả hình và gian ác” (Mt 23,27-28;x. Lc 11,44). Thánh Phaolô cảnh giác chúng ta: “Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã” (1 Cr 10, 12).

Lời Chúa hôm nay cũng muốn cho chúng ta thấy: cần phải có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ… Một Đức Giêsu không hề coi thường những người tội lỗi, nào là: đĩ điếm, thu thuế… Ngài không coi thường không có nghĩa là ủng hộ, cổ súy cho những hành vi sai trái của họ, không! Ngài muốn cải hóa họ bằng tình yêu, chỉ có tình yêu mới có thể đem lại cho người ta một sự hoán cải sâu xa mà thôi. Có thể nói: sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường; hay các thánh là ai? Thưa các Ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần cuối cùng thì đứng dạy luôn (x. Đương Hy Vọng).

Ngày hôm nay, biết bao người đang xa dần Thiên Chúa. Họ rời xa Thiên Chúa và Giáo hội đôi khi chỉ vì những miếng cơm manh áo. Và đôi khi tìm mọi cách để chỉ vì no cái bụng, ấm cái thân mà quên đi công lý, tình thương. Họ sẵn sàng buôn gian bán lậu; chà đạp người khác để mình sống; tham nhũng, bóc lột, nói chung, bất chấp tất cả miễn sao có tiền. Vụ bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường và nhân viên trong tiệm thẩm mỹ viện Cát Tường làm chết người, ném xác xuống sông để phi tang là một điển hình cho những người chỉ vì tiền mà không hề có lương tâm…

Mong thay, trong xã hội ngày nay, nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; đồng thời bạn và tôi, chúng ta hãy ý thức một điều căn bản là: có một lúc nào đó tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Được như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa như khi xưa Chúa đã chúc phúc và trao ban cho Giakêu. Amen.

 

  1. Sức mạnh hoán cải của tình thương

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay nhằm chứng minh Đưc Giê-su là Đấng Thiên Sai, với sứ mệnh “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Cụ thể là ông Da-kêu thủ lãnh các người thu thuế ở Giê-ri-khô, nhờ gặp được Đức Giê-su nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm, nên ông đã gặp được Người và được Người ưu ái đến ở trọ tại nhà ông. Trước tình thương của Đức Giê-su, ông đã quyết tâm hoán cải, thể hiện qua việc tình nguyện quảng đại chia phân nửa gia sản phân phát cho người nghèo và sẵn sàng đền bù cho những người đã bị ông làm thiệt hại trước đây.

CHÚ THÍCH:

– C 1-4: + Đức Giê-su vào thành Giê-ri-khô và đi ngang qua thành: Giê-ri-khô là một thành phố cách Giê-ru-sa-lem 37 cây số. Có hai thành Giê-ri-khô: Một thành cũ đã bị ông Gio-su-ê phá huỷ, và một thành mới do vua Hê-rô-đê xây dựng cách nơi cũ không xa. + Có một người tên là Da-kêu: Tên Da-kêu nghĩa là “Người trong sạch”. Ong đứng đầu ngành thu thuế tại thành Giê-ri-khô, nên bị người Do thái liệt vào hạng người tội lỗi.

– C 5-7: + Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”: Đức Giê-su đã biết rõ về con người của Da-kêu trước khi ông gặp Người. Người đã nhìn thấy ông giữa muôn người, biết tên và công khai gọi tên ông. Nhất là Người còn đến ở trọ tại nhà của ông. + Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người: Cảm động trước tình thương và sự ưu ái quan tâm của Đức Giê-su, ông Da-kêu vội vàng tụt xuống khỏi cây sung và đón rước Người về nhà. Da-kêu chỉ muốn thấy mặt Đức Giê-su, nhưng ông lại được Người thương đến ở trọ tại nhà của ông. Lòng ưu ái của Người vượt quá sự mong ước của ông. + Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !”: Theo quan niệm của người Do thái, ai lui tới giao thiệp với người tội lỗi cũng trở nên ô uế và bị khiển trách (x. Lc 5,30). Ở đây, Đức Giê-su không những đã tiếp xúc nói chuyện, mà còn đến ở trọ tại nhà của ông trưởng ngành thu thuế Da-kêu, nên không tránh khỏi sự xầm xì phản đối của đám đông. Qua hành động này, Đức Giê-su cho thấy sứ vụ của Người là đi tìm và cứu chữa những người tội lỗi mà Da-kêu là đại diện.

– C 8-10: + Này đây, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo…: Cảm động trước tình thương của Đức Giê-su, Da-kêu đã biểu lộ quyết tâm hoán cải qua việc đền bù những tội lỗi trước đó. Ông tự nguyện chia nửa tài sản để phân phát cho người nghèo và đền trả gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra, trong khi Luật Mô-sê chỉ buộc đền gấp bốn cho tội trộm chiên mà thôi (x. Xh 21,37). + Hôm nay Ơn cứu độ đã đến cho nhà này: Nhờ sự hiện diện của Đức Giê-su mà cả nhà ông Da-kêu đã được cứu độ. + Con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham: Do làm nghề thu thuế nên Da-kêu bị coi là kẻ tội lỗi không còn thuộc về dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhưng khi ông đã hồi tâm sám hối, ông lại được Đức Giê-su trả lại quyền được làm con cháu của Tổ phụ Áp-ra-ham như trước. + Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất: Câu này cho thấy sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su là đến để tìm kiếm và giúp những kẻ tội lỗi ăn năn sam hối để được cứu độ.

CÂU HỎI: 1) Tên Da-kêu nghĩa là gì? 2) Thiện chí của ông Da-kêu được biều lộ qua hành động nào? 3) Tại sao dân chúng lại trách Đức Giê-su về việc đến ở trọ tại nhà Da-kêu? 4) Tại sao ông Da-kêu lại được Đức Giê-su tuyên bố là con cháu Tổ phụ Áp-ra-ham và được cứu độ? 5) Câu nào nói lên sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. LỜI CHÚA: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
  3. CÂU CHUYỆN:

– NHỮNG KẺ KHỐN CÙNG (LES MISÉRABLES)

Đây là tựa đề một tác phẩm nổi tiếng của văn hào Vích-to Huy-gô (Victor Hugo), tường thuật câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi bị mọi người khinh dể xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; Vào trong nhà trọ thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; Đi qua ổ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức giám mục My-ri-ê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao chuồn mất. Nhìn thay bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời”. Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ ông từ một tên tội phạm trở thành mot người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục My-ri-ê.

– SỨC MẠNH HOÁN CẢI CỦA TÌNH THƯƠNG:

Trong thiền viện của thiền sư SĂNG–GAI (Sengai) có nhiều đệ tử ở chung. Một đệ tử của vị thiền sư có thói quen thỉnh thoảng nửa đêm leo tường ra ngoài đi chơi với chúng bạn mãi đến gần sáng mới quay lại thiền viện. Một đêm kia, thiền sư Săng-gai đi kiểm tra, thấy một chiếc giường trống, rồi còn thấy một chiếc ghế cao để cạnh bức tường cao phía trong thiền viện. Thiền sư liền dời chiếc ghế kia sang chỗ khác và đứng thế vào chỗ đó. Khi anh đệ tử kia quay về, do không thấy thiền sư đang đứng thế chiếc ghế mọi khi, anh ta đã đặt bàn chân lên đầu thầy Săng-gai làm điểm tựa trước khi nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra sự thể thì anh cảm thấy sợ hãi. Nhưng thay vì trách phạt, thiền sư lại mỉm cười nhỏ nhẹ nói với anh rằng: “Trời về sáng đang trở lạnh. Con mau vào phòng mặc áo ấm vào kẻo bị cảm lạnh nhé !” Cảm động trước tấm long từ bi và tình thương khoan dung của thầy, từ ngày đó người đệ tử kia không bao giờ còn dám tái phạm trèo tường đi chơi nữa. Anh chuyên cần học tập và về sau trở thành một học trò giỏi của thiền sư Săng-gai.

  1. SUY NIỆM:

Tin mừng Lu-ca Chúa nhật hôm nay thuật lại câu chuyện hoán cải của ông Da-kêu làm nghề thu thuế. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với bọn trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ thu thuế phục vụ cho đế quốc Rô-ma, nên người Do thái kết án khinh dể họ. Trái lại, Đức Giê-su có cách hành xử khác. Tin mừng hôm nay cho thấy: Người đã gọi đích danh ông Da-kêu, đã đến ở trọ trong nhà ông và ngồi đồng bàn ăn uống chung với ông. Việc đó khiến dân chúng hiện diện xầm xì phản đối. Tuy nhiên khi xử sự như thế, Đức Giê-su cho thấy sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động rrước tấm lòng bao dung nhân hậu của Đức Giê-su, ông Da-kêu đã nhận ra tội lỗi của mình và quyết tâm sám hối nên người công chính.

1) “NÀY ÔNG DA-KÊU XUỐNG MAU ĐI”: Da-kêu là một người giàu có nổi tiếng ở thành Giê-ri-cô. Ông là trưởng ban thu thuế của thành phố này. Dĩ nhiên nếu chỉ là nhân viên làm việc ăn lương thì chắc ông đã không thể giàu có như vậy được. Sở dĩ ông nhiều tiền là vì đã gian lận móc ngoặc với gian thương trong việc thu thuế. Mọi người đều nhìn Da-kêu như một tội phạm đáng khinh, và chính ông cũng cảm thấy lương tâm bất an. Nghe tin Đức Giê-su sắp đi qua khu vực gần nhà, Da-kêu liền chạy tới gần để nhìn xem mặt Người. Nhưng dân chúng quá đông mà Da-kêu lại lùn thấp, nên ông đã chạy về phía trước, trèo lên một cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy Đức Giê-su khi Người đi ngang qua. Khi tới chỗ Da-kêu núp, Đức Giê-su dừng lại ngước nhìn lên và nói với ông rằng: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”.

Da-kêu không ngờ lại được Đức Giê-su ưu ái biết rõ tên và còn ngỏ ý muốn đến ở trọ tại nhà ông là một người tội lỗi ! Ông cảm thấy rất vui khi được Đức Giê-su công khai phục hồi danh dự trước mặt đám đông luôn có thái độ ác cảm và khinh dể ông. Còn Đức Giê-su cũng bỏ ngoài tai những lời xì xầm phản đối của nhiều người để đến trọ tại nhà ông Da-kêu.

Ơn Cứu độ là kết quả của sự gặp gỡ hai chiều kích: Thiên Chúa ban ơn và tội nhân đón nhận. Nếu Đức Giê-su không thi hành sư mệnh đi tìm chiên lạc thì chẳng ai được ơn cứu độ: “Vì chưng, Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10). Nhưng dù Đức Giê-su có đi tìm mà tội nhân lại né tránh, thì họ cũng không thể nhận được ơn cứu độ. Ở đây, Đức Giê-su đã đi bước trước qua việc nhìn lên cây sung tìm Da-kêu đang ẩn núp và nói chuyện với ông và ông đã mau chóng đáp lại và cuối cùng ông và gia đình ông đã nhận được ơn cứu độ.

2) “THƯA NGÀI, NÀY ĐÂY PHÂN NỬA TÀI SẢN CỦA TÔI, TÔI CHO NGƯỜI NGHÈO…”: Chính ánh mắt bao dung, lời nói âu yếm và thái độ yêu thương của Đức Giê-su đã đánh động tâm hồn chai lì của Da-kêu; thổi bùng lên ngọn lửa hướng thiện còn đang leo lét trong lòng ông. Quả thật, hoán cải là kết quả của một sự cảm nhận về tình yêu của Chúa. Da-kêu bỗng chốc cảm thấy tâm hồn bình an, nên không còn yêu thích tiền bạc như trước. Ông đã sẵn sàng dâng hiến phân nửa tài sản để chia sẻ cho người nghèo, đồng thời tự nguyện đền trả gấp bốn những thiệt hại đã gây cho kẻ khác. Xin đền gấp bốn nghĩa là Da-kêu nhận biết tội của ông quá nặng và quyết tâm thực thi công bình bác ái. Dù Da-kêu đã trở nên nghèo hơn, nhưng ông lại cảm thấy hạnh phúc hơn vì đã được Đức Giê-su yêu thương đến ở trọ tại nhà ông và ban ơn cứu độ cho cả gia đình ông. Sau đó Người còn trả lại cho ông tư cách là con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham như bao người Do thái khác qua lời phán: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19,9). Trong bữa tiệc vui hôm đó, tuy không còn giàu có như trước, nhưng Da-kêu đã cảm thấy được hạnh phúc hơn. Chắc chắn thân thể ông vẫn còn lùn thấp như trước, nhưng tâm hồn ông đã nên cao thượng hơn gấp bội phần.

3) LIÊN QUAN GIỮA HOÁN CẢI VÀ TỪ BỎ: Bất cứ một cuộc hoán cải nào cũng đòi phải từ bỏ: Một người lương muốn theo đạo Công giáo thì phải từ bỏ ma quỉ, các điều mê tín dị đoan, các đam mê tội lỗi… để chỉ tin thờ một mình Thiên Chúa và tin vào Đấng Ngài sai đến là Đức Giê-su Ki-tô. Một người mắc thói xấu cờ bạc, rượu chè, trai gái, hút sách… muốn hồi tâm sám hối cũng phải quyết tâm chừa bỏ các thói hư ấy. Một người thường buôn gian bán lận, muốn hoán cải về với Chúa cũng phải quyết tâm từ bỏ lối làm ăn gian dối ấy… Con tim của Da-kêu đã được hoán cải nhờ sự quan tâm và đối xử nhân từ của Đức Giê-su. Thi hào người Đức Goethe (1749-1832) đã viết như sau: “Nếu đối xử với một người như “người ấy là”, thì người ấy sẽ nên xấu hơn. Nếu đối xử với người ấy như “người ấy phải là”, hoặc như “người ấy muốn là”, thì người ấy sẽ nên tốt hơn”. Đức Giê-su hiểu rằng trong tâm hồn Da-kêu còn có phần tốt, muốn làm điều tốt và có khả năng làm điều tốt, nên Người đã khơi phần tốt ấy lên. Mỗi người chúng ta cũng hãy tự hoán cải bằng cách để Đức Giê-su quan tâm đến ta, nói với ta, đến ở trọ trong lòng ta và đánh động con tim của ta.

4) HIỆN NAY VẪN CÒN NHIỀU DA-KÊU: Đó là những người bị mọi người khinh thường hay loại trừ như những người mang tiền án tiền sự, những trẻ em bụi đời lang thang không nhà, những cô gái đứng đường lúc đêm tối, những người đang nghiện sì-ke ma túy, những người đang tìm hưởng lạc thú trong những quán bia ôm, mượn rượu giải sầu… Họ cần những người có trái tim bao dung nhân ái như Đức Giê-su giúp họ hoàn lương giống như ông Da-kêu trong Tin mừng hôm nay. Vậy trong những ngày này chúng ta nên làm gì cụ thể để giúp họ?

  1. THẢO LUẬN: 1)Bạn có thích hai câu chuyện trên hay không? Tại sao? 2)Tuần này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để giúp một tội nhân công khai được ơn hoán cải nên lương thiện hơn?
  2. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay Chúa vẫn thường đến với chúng con trong hình hài của những người nghèo khó ăn xin, những bệnh nhân liệt giường không tiền chữa trị, những người đau khổ cần được ủi an. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Sa-ma-ri để uống cho đã khát, cần năm chiếc bánh và hai con cá của một bé trai để nuôi năm ngàn người ăn no, cần căn nhà của ông Da-kêu để nghỉ qua đêm. Chúa khiêm tốn xin chúng con một chút tiền bạc, một chút lòng hảo tâm, một chút sự thương cảm… để sau đó Chúa lại đổ xuống trên chúng con muôn ngàn phúc lộc thiêng liêng gấp bội.

– LẠY CHÚA. Xin dạy chúng con biết đến với tha nhân, biết khám phá ra một đốm lửa của sự thiện vẫn đang cháy leo lét nơi tâm hồn những người đang lạc xa Chúa. Ước gì chúng con biết nhìn các tội nhân công khai bằng ánh mắt nhân từ bao dung của Chúa, dám hy vọng vào thiện chí hoán cải của họ, và kêu gọi mọi người cùng hợp tác để xua tan cái xấu cái ác ra khỏi gia đình, khu xóm, trường học, và công sở … Nhờ đó, thế giới hôm nay sẽ được biến đổi ngày một tốt hơn, chan hòa tình người hơn và an bình hạnh phúc hơn.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

  1. Niềm vui hôm nay – Như Hạ

Thế giới ngày càng căng thẳng. Tìm được nụ cười như tìm thấy một bảo vật. Niềm vui thực sự là dấu chỉ của một cuộc giải tỏa tâm hồn hay một cuộc giải thoát khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Hôm nay Đức Giêsu đem lại một niềm vui cho nhà Dakêu. Cần dừng lại đôi phút để thấy niềm vui đó lớn lao chừng nào.

Ông Dakêu là một người “đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có,” (Lc 19:2) nghĩa là một “người tội lỗi” (Lc 19:7) nhất trong những người tội lỗi. Trong khi mọi người tránh xa những hạng người như thế, Đức Giêsu lại “vào trọ” (Lc 19:7) nhà ông. Ông vô cùng kinh ngạc và xúc động vì thái độ thân thiện khác thường này. Từ kinh ngạc đến cảm phục, ông đã thay đổi hẳn cuộc sống. Ông “thưa với Chúa rằng:?Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.?” (Lc 19:8) Đức Giêsu không hề giảng cho ông một bài nào về công bình hay lên tiếng đánh động tấm lòng để thúc đẩy ông dốc hết tài sản cho những người nghèo và bị bạc đãi hay đàn áp. Nhưng dung nhan Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng siêu nhiên phơi bầy tất cả sự thật về những việc ông làm cho đồng loại từ xưa đến nay. Ông chợt tỉnh và nhận ra tất cả những dơ bẩn trong cõi lòng mình. Thế là ông nhất quyết thanh tẩy tất cả để chuẩn bị đón nhận những hồng ân lớn lao.

Ông đã đánh mất chính bản thân. Nhưng nhờ Đức Giêsu, ông đã tìm lại những gì đã tiêu trầm trong vũng tội lệ. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19:10) Hơn nữa, ông còn tìm được một giá trị tuyệt vời. Trước giá trị vô cùng lớn lao này, tất cả đều trở thành bóng mờ hay vô nghĩa. Bởi đấy ông mới có thể quyết liệt dứt bỏ những tài sản bất công ông đã chiếm đoạt của người khác.

Lúc đầu ông Dakêu cứ tưởng mình là người tìm Chúa. Nhưng thực tế, Chúa đã tìm ông. Ông tìm Chúa để thỏa mãn tính tò mò. Ông tò mò vì thực tế quá khác với những ưu tư của mình. Ông giàu có và quyền lực như thế, nhưng vẫn không chiếm được lòng người. Trong khi một anh chàng khố rách áo ôm như Đức Giêsu lại thu hút mọi người. Không hiểu mãnh lực nào đã khiến có sự sai biệt như thế. Mọi người xa lánh khiến ông cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng và vô nghĩa. Ông mơ một ngày được quí mến như Đức Giêsu. Một phần thôi cũng không bao giờ được! Đó là lý do tại sao ông “leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu.” (Lc 19:4) Khi giáp mặt Người, ông mới cảm thấy một sức thu hút mãnh liệt từ Con Người Giêsu. Từ tấm lòng cảm phục sâu xa, tim ông bật thành tiếng bi thương vượt quá lòng mong đợi của những người nghèo khổ và bị áp bức. Ơn cứu độ đã có một chiều kích xã hội.

Đức Giêsu đã cho mọi người cảm thấy bầu khí ấm áp và thân mật của hồng ơn Thiên Chúa: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham.” (Lc 19:9) Nghĩa là, đức tin đã dẫn ông Dakêu tới nguồn ơn cứu độ là Đức Giêsu Kitô. Rõ ràng không phải vì tò mò mà “ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai.” (Lc 19:3) Nhưng lòng tin thúc đẩy ông muốn tìm một lối thoát cho những bế tắc hôm nay trong thân phận làm người. Ông đã mãn nguyện. Quả thực, Thiên Chúa “dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin.” (2 Tx 1:11)

Quyền năng đó đã thể hiện mãnh liệt khi Thiên Chúa tỏ lòng “xót thương hết mọi người, để họ còn ăn hăn hối cải.” (Kn 11:23) Ông Dakêu đã phung phí bao nhiêu thời giờ và sức lực để tạo nên những bất công cho xã hội. Giờ đây, Thiên Chúa cho ông cơ hội nhìn lại con người mình. Tất cả những gì theo đuổi từ xưa tới nay đều vô nghĩa. Ông đã đánh mất chính mình khi quay cuồng với những tham vọng vật chất đó. Cứ tưởng có tiền là có tất cả. Ông đã vong thân và tha hóa cùng cực. Bởi vậy, ông thấy phải trả giá. Nói khác, tất cả những gì đã mất mát đều được tìm lại trong cuộc hội ngộ với Đức Giêsu dưới mái ấm gia đình ông. Những mất mát do bất công ngoài xã hội đã được tìm lại trong bầu khí gia đình. Khi chạy ra bên ngoài, người ta dễ đánh mất những giá trị đích thực bên trong. Ra đi là mất mát, là chết chóc. Trở về là sống dồi dào, phong phú. Chỉ khi nào trở về với chính nội tâm, con người mới nhận ra “Đấng yêu sự sống” (Kn 11:26) và “là sự sống” (Ga 11:25) đang hiện diện rất gần gũi với mình. Ông Dakêu đã cảm nhận sự sống ấy như một kho tàng vô cùng phong phú. Thế nên, ông đã đánh đổi tất cả. Những hi sinh của ông chẳng là gì so với ân sủng ông đón nhận qua bàn tay Đức Giêsu.

Sở dĩ ông Dakêu đã đón nhận được hồng ân cao cả đó, vì “Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11:23) Chúa khác hẳn con người. Thế mới biết lòng Chúa vô cùng bao la. Trước mắt con người giàu có như Dakêu đáng bị lên án. Hình như Đức Giêsu cũng đồng ý như thế: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Lc 18:24-25) Nếu Chúa cũng giống con người, không bao giờ con người có thể được tha thứ. Người sống trên xương máu đồng bào như Dakêu chỉ có mỗi con đường duy nhất là xuống hỏa ngục! Tình trạng vô cùng tuyệt vọng. Thế nhưng, đứng trước tình trạng vô phương cứu vãn đó, Đức Giêsu đã bật sáng lên một tia lửa cuối đường hầm: “Những gì không thể đối với loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.” (Lc 18:27) Thực tế, “Chúa xót thương hết mọi người vì Chúa làm được hết mọi sự.” (Kn 11:23) Người đến cứu rỗi cả người nghèo lẫn người giàu. Ơn cứu độ không hề lệ thuộc vào một ranh giới nào!

Người giàu nhưng có thiện chí như ông Dakêu, làm sao Chúa ngoảnh mặt làm ngơ cho đành? Thực thế, Chúa “dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin.” (2 Tx 1:11) Ông đã chứng tỏ thiện chí và lòng tin khi tìm mọi cách giáp mặt Đức Giêsu. Một nỗ lực âm thầm như thế được Thiên Chúa đánh giá rất cao. Bởi vậy, Người mới lấy ơn cứu độ để đáp trả thiện chí ấy. Có lẽ trong quá khứ, đối với những người đã làm nhiều việc bất công như ông Dakêu, “Chúa sửa dạy từ từ, Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, dể họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12:2) Cuộc hội ngộ với Đức Giêsu chỉ là giọt nước tràn ly. Giọt nước nặng ký đó phủ ngập ân sủng. Việc gì phải đến đã đến. Đức Giêsu là tất cả nguồn ân sủng lớn lao biến cải toàn thể cuộc đời ông.

Ông còn sống sót tới lúc đón nhận nguồn ân sủng ấy. Điều đó không ngoài thánh ý Chúa. Biết bao người đã ghê tởm, nguyền rủa, lánh xa ông. Nhưng, “Chúa không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao môọt vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì?” (Kn 11:24-25) Thế nên thời gian ông đang sống là một thời gian của lòng thương xót. Ơn cứu độ cũng trào ra từ lòng thương xót đó.

Nhìn vào ông Dakêu, chúng ta mới thấy rõ tất cả sự thật về con người và cuộc đời mình. Cuộc sống chỉ thật có ý nghĩa và phong phú khi “danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô.” (2 Tx 1:12) Ân sủng Thiên Chúa chỉ biểu lộ nơi Danh Đức Giêsu, Danh gói trọn toàn thể lòng thương xót của Thiên Chúa đối với loài người. Chính vì Danh ấy, chúng ta được kêu gọi làm Kitô hữu. Nghĩa là, chúng ta được kêu gọi để biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa!

 

  1. Thiên Chúa kêu mời chúng ta vào bàn tiệc

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)

Thưa quý vị.

Ngày xưa các cụ sống trong văn hoá Khổng Mạnh, việc đặt tên cho con cháu là hệ trọng. Các cụ chọn ngày tháng, bói quẻ, mở sổ sách kiếm tên cho đứa trẻ mới sinh. Nhưng việc đó không hẳn tự động tạo nên nhân cách cho nó. Ví dụ: Hùng, chưa chắc nó sẽ là một tay thể thao cừ khôi. Mến, chưa hẳn là một cô gái hiền hoà. Hoa, không báo trước đứa trẻ đẹp, có khi ngược lại còn xấu như ma mút. Nhung, đa số là phụ nữ dữ tợn, trộm cướp. Bên Phương Tây cũng vậy. “Marie” đâu phải là một người nhân đức như Đức Maria. Steve không giống như thánh Têphanô. Bob đâu phải là thánh Giacôbê. Christina chưa chắc là một tín hữu nhiệt thành. Nhưng đôi khi tên cũng trùng hợp với hạnh kiểm người mang nó, nhất là khi đương sự được hưởng một ơn đặc biệt. Trường hợp này có trong Tin mừng hôm nay. Truyện của ông Giakêu.

Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu, ông Giakêu sống ngược với ý nghĩa của tên mình. Vì Giakêu trong tiếng Do thái có nghĩa là trong sạch, người công chính được Chúa nhớ tới. Nhưng ông lại là đầu mục của phường thu thuế. Trong con mắt dân chúng lúc ấy, ông là kẻ đại tội lỗi. Thánh Luca còn miêu tả ông là người giàu có. Thu thuế, giàu có, chắc chắn là kẻ bất lương, phản bội dân tộc mình, nhờ uy đế quốc Roma đàn áp và bóc lột dân đen. Thời ấy, người La Mã không trực tiếp thu thuế dân thuộc địa mà cho thầy từng vùng, từng miền. Quan chức địa phương nào bỏ thầu cao nhất thì được thu thuế của dân chúng miền hoặc vùng đó. Hệ thống này cho phép những kẻ tham lam nhiều cơ hội làm giàu. Bởi lẽ họ biết rõ tình hình tài chính của dân chúng trong vùng, họ sẽ lợi dựng để vơ vét, bóc lột không thương tiếc. Họ sẽ thuê mướn những tay côn đồ khác để vắt cạn kiệt tiền bạc của các gia đình. Sau khi trả cho người Roma số tiền bỏ thầu, phần dư khổng lồ sẽ vào túi các quan chức địa phương này. Do đó họ tối đa hút máu mủ của dân địa phương. Quần chúng khinh bỉ coi họ là người tội lỗi , ngang hàng với đĩ điếm. Thánh Luca cho biết Giakêu rất giàu có, cho nên chúng ta có thể ước đoán ông đã lỗi phạm khá nhiều trong nghề nghiệp. Ở tình trạng như thế, việc Chúa Giêsu tìm gặp ông Giakêu không phải là ngẫu nhiên. Thiên Chúa đã xúi giục ông tò mò trèo lên cây sung để có thể xem thấy Đức Giêsu đi ngang qua.

Đây là điểm chính yếu của câu chuyện hôm nay. Giakêu hoàn toàn bất lực không có khả năng thoát ra khỏi tình trạng luân lý của mình. Ông không có công trạng nào để được Chúa thương tha thứ. Tên Giakêu của ông là một trò cười đối với nghề nghiệp và nếp sống của mình. Ông sống hoàn toàn trái ngược với tiêu huẩn đạo đức của xã hội. Vậy mà trước khi câu chuyện kết thúc, Chúa Giêsu xác nhận ông là: “Con cháu tổ phụ Abraham”, nghĩa là kẻ được thừa hưởng lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, kẻ được sống trong Giao ước với Thiên Chúa. Câu chuyện thât lạ lùng, khiến cho dân chúng bàng hoàng và phái Pharisêu lộn ruột. Nếu như Giakêu thực sự như Chúa Giêsu nói, thì ông phải cảm thương đồng bào mình, không bỏ thầu, không cộng tác với người La Mã bóc lột dân chúng. Chí ít ông ăn ở công bình, không vơ vét, bằng lòng với số lương chính đáng. Nhưng thánh Luca lại nói ông là người giàu có, chứng cớ quá hiển nhiên, không thể chối cãi.

Tuy nhiên khi câu chuyện kết thúc, Giakêu thay đổi hoàn toàn, ông ta là người ngược hẳn với lúc khởi đầu. Sau khi đối diện với Chúa Giêsu ông biến thành người Israel đích thật, là dòng giống Abraham đầy lòng tin, đúng như Chúa Giêsu tuyên bố, Ông sẵn sàng chia sẻ một nửa gia tài cho người nghèo khó, đền gấp bốn những thiệt hại ông đã gây nên. Luật Môsê không buộc phải đi xa đến như vậy. Tội gian lận theo như Lêvi ký, chỉ phải đền 1/5 tài sản thiệt hại (5,24). Giakêu lúc này đã trở thành con người lương thiện. Hậu quả, dĩ nhiên không thuộc về công nghiệp của ông mà là lòng thương xót rộng rãi của Đức Chúa Trời, tha thứ cho ông. Đây cũng là kinh nghiện của mỗi linh hồn trở lại. Họ sống tốt lành để đền bù ơn Chúa. Nếu không chẳng có dấu chỉ nào chứng minh chúng ta đã trở lại. Chúng ta vẫn sống trong ảo tưởng về đạo đức riêng của mình, chứ không phải là sự thánh thiện Phúc âm, như tuần vừa qua Chúa Giêsu chỉ rõ.

Tin Mừng không nói cho độc giả hay tâm trạng ông Giakêu thế nào trước khi ông ra đi đón gặp Đức Giêsu. Có lẽ ông bị thúc đẩy bởi phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù ăn xin ở cổng thành Giêrikhô vừa xảy ra trước đó ít lâu. Ông tò mò muốn biết Chúa Giêsu là ai? Hoặc ông bị lương tâm cắn rứt, muốn thay đổi cuộc sống. Ông đã gian lận quá nhiều, bị cộng đồng khu phố khinh miệt. Hoặc giả con cái ông bị hàng xóm láng giềng tẩy chay, không được chơi chung với con cái họ. Gia đình ông bị lăng nhục vì nghề nghiệp bẩn thỉu. Liệu thời thế đã chín mùi để ông thay đổi nếp sống? Chúng ta chẳng có phương cách nào để biết rõ sự thật, bởi vì Phúc âm không nói. Mọi sự chỉ là phỏng đoán mà thôi.

Tuy nhiên, có một điều chắc chắn ông muốn tìm hiểu Chúa Giêsu là người như thế nào? Phúc âm kể: “Ở thành Giêrikhô có một người tên là Giakêu, ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Ông muốn tìm cách để xem Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó. Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Như vậy ý định của Giakêu là được ngắm nhìn một nhân vật nổi tiếng! Còn những sự kiện khác chúng ta chẳng hề hay. Ví dụ: Cơ hội để xem một người cùi hủi khác được chữa lành, người mù được mở mắt cho trông thấy, đám đông được nuôi nấng cách lạ lùng, kẻ chết sống lại… Chúng ta chỉ được biết như thánh Luca muốn cho cho hay. Và đó là dụng ý của thánh nhân khi viết Tin Mừng.

Tình trạng tâm hồn của Giakêu không được tỏ lộ. Chỉ biết rằng ông là người thu thuế mướn cho chính quyền bảo hộ, là kẻ tội lỗi công khai, được xếp chung với bọn đĩ điếm và bị khinh bỉ. Công việc bỉ ổi của ông ai cũng biết, không phải thầm kín. Đến đây, thánh nhân cho hay vế thứ hai của câu chuyện, Chúa Giêsu hay làm bạn với hạng người này, chè chén với họ. Cho nên giới lãnh đạo đền thờ không mấy có cảm tình. Nhiều lần Ngài đã bị họ phê bình, chỉ trích, nhất là những người tự coi mình thanh sạch, đạo đức như Biệt phái, ký lục, kinh sư… Trước mắt họ xem ra Chúa Giêsu là một tên vô lại, không có hy vọng cải thiện, hay lui tới nhà người tội lỗi. Lần này là ông Giakêu, khét tiếng bóc lột. Ngài gọi ông xuống khỏi cây sung và đề nghị dùng bữa tại nhà ông. Sự thực, thánh Luca thuật: “Chúa Giêsu đi đến chỗ ấy, thì nhìn lên và nói với ông: Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay ta phải ở lại nhà ông”.

Tại sao Chúa Giêsu phải trú lại nhà Giakêu? Bài đọc 1 cho chúng ta câu trả lời. Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ, hằng quan tâm đến mọi loài, đến từng cá thể, từng mỗi linh hồn. Đó là sự quan phòng riêng biệt chứ không phải chung chung trên các sự vật Ngài đã tạo thành: “Lạy Chúa, trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa hạt sương mai rơi trên mặt đất”. Nghĩa là từng chi tiết trong hoàn vũ, đặc biệt Ngài thương cảm những sinh vật có hơi thở, nhất là loài người. Ngài chăm lo cho chúng tốt tươi, hạnh phúc: “Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã dựng nên, và giả như Chúa ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên”. Tình yêu ấy được cụ thể hoá nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa biến thành nhục thể, chăm lo cho mọi linh hồn được ơn cứu rỗi.

Vì vậy khi Đức Giêsu bước đi trên đường phố Giêrikhô hôm đó, Ngài đã thực hiện công việc của Đức Chúa Trời và biểu lộ lòng thương yêu của Thiên Chúa luôn tưới gội trên con người. Quyền năng của Ngài là để phục vụ lòng hiền từ nhân ái của mình chứ không phải ra án phạt, tuy rằng án phạt vẫn là mặt khác của quyền bính cai trị. Ông Giakêu trèo lên cây sung để tìm kiếm Thiên Chúa, xem Ngài là ai? Nhưng thực chất Chúa Giêsu đang kiếm tìm ông để cứu vớt ông. Ngài nhìn thấy ông, truyền cho ông bườc xuống và đề nghị ăn bữa tại nhà ông. Trường hợp này giống như Chúa Giêsu tìm kiếm Nathanael (tức tông đồ Bartôlômêô) dưới cây vả (Ga 1,48). Chúa Giêsu thấu suốt mọi tâm can, không chi có thể dấu được cái nhìn của Ngài. Vượt qua sự tò mò của Giakêu, Chúa Giêsu còn thấy rõ linh hồn ông. Ngài đã bày tỏ lòng yêu mến của Thiên Chúa cho ông, bởi rõ ràng ông là con chiên lạc, đáng được mang về đàn. Đám đông xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Chúa Giêsu trả lời: “Con người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.

Rõ ràng đó là cách thức Thiên Chúa bày tỏ quyền năng, ngược hẳn với quyền bính thế gian và cũng khác với sức tưởng tượng của chúng ta. Nhân từ, thương xót là lúc Chúa biểu lộ uy quyền hơn cả. Sách Khôn ngoan và Tin mừng hôm nay đều đồng ý như vậy: “Lạy Đức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài, muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ”. Thần khí bất diệt cũng ở trong ông Giakêu tội lỗi và Chúa Giêsu đã cho chúng ta hay, Thiên Chúa đối xử ra sao với những kẻ lầm đường, lạc lối. Ngài đã xót thương , tỏ lòng nhân từ đối với ông. Ông đã đứng dậy, thật lòng hối cải, ăn năn, thay đổi cuộc sống. Con mắt yêu thương hằng theo dõi Giakêu vì ông là thụ tạo của bàn tay Ngài dựng nên. Ngài không để mất một linh hồn nào trên cõi dương gian. Cho nên đừng vì thân xác lùn thấp và hành động kỳ quặc của ông mà cho ông như một người đãng trí, nực cười. Điều này có thể làm cho cuộc trở lại của ông không thành thực. Ông đã là người tội lỗi, vơ vét tài sản trên lưng đồng bào nghèo khó. Đức Kitô đã phát hiện ra ông và ông đã đón tiếp Ngài vào nhà mình, tức cuộc đời mình. Ông đã mời Chúa dùng bữa với toàn thể gia đình, bữa tiệc bày tỏ tình bạn hữu chân thành. Mặc nhiên gia đình ông trở nên thân thiết với Chúa Giêsu. Vì thế Chúa tuyên bố: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”.

Phần Chúa Giêsu, tình thương của Ngài cũng vươn tới gia đình Giakêu rõ ràng. Ngài không để mất thời giờ, vội vàng phán bảo ông: “Xuống mau đi, vì hôm nay ta phải ở lại nhà ông”. Bổn phận của Ngài là cứu chữa linh hồn Giakêu, tội lỗi đầy mình. Tuy nhiên giữa Chúa Giêsu và Giakêu, ai là chủ, ai là khách? Thường tình Giakêu là chủ, nhưng thái độ tích cực của Chúa Giêsu chứng tỏ Giakêu là khách, Ngài là chủ. Bởi lẽ Ngài tìm kiếm và kêu gọi Giakêu. Ngài chủ động trong hoàn cảnh này, mặc dầu ngôi nhà là của Giakêu. Ngài đã mời Giakêu dự tiệc ngay trong nhà ông. Một điều hết sức gây ngạc nhiên cho người Biệt phái vì họ chẳng thể hiểu được tâm ý của Chúa Giêsu. Chúng ta xây dựng thánh đường, thấp hèn hay nguy nga tráng lệ, chúng ta họp nhau thờ phượng Ngài tại đó. Chúng ta mang bánh rượu dâng tiến Ngài trên bàn thờ. Nhưng xin nhớ chúng ta chỉ là khách được mời. Còn chính Chúa Giêsu mới là chủ sự bữa tiệc. Thiên Chúa đã dọn tiệc cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Ngài đã tìm kiếm và kêu mời nhân loại vào bàn tiệc. Cho nên chúng ta phải có tâm tình thống hối, tạ ơn giống như ông Giakêu. Sau đó đến lượt mình, chúng ta cũng phải ra đi, tìm kiếm và kêu mời những kẻ còn bên lề ơn cứu rỗi. Họ là ai? Có thể là cha mẹ, anh em, bà con, láng giềng, hay những kẻ tha hương lữ thứ, hoặc xì ke, ma tuý, đĩ điếm, cướp giật, lừa đảo, buôn gian bán lận. Những người mà Chúa Giêsu “phải ở trong nhà họ”? Amen.

 

  1. Tha thứ và ra đi tìm kiếm người khác

(Suy niệm của Lm. Siciliano)

Thưa quý vị.

Biết một chút về bối cảnh của bài đọc Khôn ngoan giúp chúng ta khai triển lời rao giảng dễ hơn. Sách Khôn ngoan của vua Salomon được viết khoảng năm 50 trước Thiên Chúa Giáng Sinh, không phải bởi vua Salomon, nhưng bởi cộng đồng Do Thái lưu lạc ở Ai Cập (Có lẽ tại Alexandria). Như vậy, bối cảnh gợi ý rằng dân tộc Do Thái đang sống giữa lòng một quốc gia hùng mạnh, tiến bộ về trí tuệ và kiến thức khoa học. Đó là một môi trường có tính chất hết sức dụ dỗ. Những thành tựu của người Ai Cập được thể hiện chẳng hạn như trong các Kim tự tháp và các kỹ thuật công nghiệp, máy móc khác. Cộng đồng Do Thái phải chiến đấu nhiều lắm mới có thể trung thành với đức tin truyền thống của mình. Liệu họ có mặc cảm tự ty với người Ai Cập tiến bộ không? Liệu họ có phải ngỡ ngàng rằng các thần thánh Ai Cập có sức mạnh vượt hơn Thiên Chúa Giavê của dân tộc Do Thái không? Thật rất khó khăn để trung thành với Thiên Chúa mà không cảm thấy bị đe dọa bởi cái gọi là thành tựu của các dân tộc vô đạo chung quanh! Lại còn khó khăn hơn nữa khi nhìn về tương lai, liệu họ có giữ được con cái khỏi lìa bỏ đức tin và truyền thống của cha ông mà lây nhiễm nền văn hóa ngoại lai? Những lo lắng trên thật giống lo lắng của chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng bị bao vây bởi các nguồn khôn ngoan vô đạo. Nó lôi kéo chúng ta, không phải bằng tử đạo (khi bài này đang được in thì 200 tín hữu bị giết ở Phi Châu, 18 ở Pakistan) nhưng bằng làm xói mòn đức tin của chúng ta ngày này qua ngày khác. Con em chúng ta là những nạn nhân nhạy cảm nhất.

Nội dung của sách khôn ngoan không phải là những lời dạy bảo mới mẻ cho người Do Thái, mà là sự tổng hợp những khôn ngoan, gia sản của dân Chúa, thấm đượm trong toàn bộ Kinh thánh Do Thái. Sách Khôn ngoan, nhất là trích đoạn cho bài đọc hôm nay phản ánh đức khôn ngoan của các nhà quân tử Do Thái thời Cổ, khi nó nhấn mạnh đến sự thánh thiêng của đời sống con người. Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự tốt lành (ám chỉ rõ rệt về sách Sáng thế) và Ngài yêu mến hết mọi sự Ngài đã làm nên. Hơn nữa, tất cả các tạo vật Chúa đã tạo thành được chia sẻ tinh thần bất tử của Đấng Cực Thánh. Bài đọc cũng nhấn mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng thương xót đặt nền tảng không phải trên sự nghiệp tốt lành của chúng ta, mà là trên tình thương yêu của Thiên Chúa đối với tất cả những gì Ngài đã tạo thành. Trong khi chúng ta cần đến lòng thương xót của Ngài, chúng ta không thể chỉ ra một công nghiệp nào để đáng được hưởng sự thương xót đó. Tuy nhiên, lòng thương xót của Ngài luôn luôn sẵn sàng hiện diện trong mọi sự, bởi vì Thiên Chúa yêu thương mọi loài Ngài đã làm ra và từ tình yêu đó Ngài thương xót chúng ta.

Suy nghĩ này dẫn đến trách nhiệm của loài người và từng người trong thế giới môi trường chung quanh mình. Chúng ta đã được chia sẻ cách đặc biệt tinh thần bất tử của Thiên Chúa. Chúng ta phải phản ánh tinh thần ấy trong việc quản trị thiên nhiên. Chúng ta chỉ có thể là hình ảnh của Đấng tạo thành khi chúng ta chăm lo, như Chúa chăm lo, cho tất cả những gì Chúa đã dựng nên. Chúng ta xây dựng đường sá, cầu cống, xí nghiệp, nhà ở, nhưng cũng phải nghĩ đến môi trường sống cho các thú vật, cây cối. Con kiến, con rắn, bọ cạp dù nhỏ bé thế nào đi nữa cũng cần có nơi để sống, để sinh sôi nảy nở và chúng ta cũng phải dự trù cho chúng. Cây xanh, rừng núi cũng là các tạo vật của Chúa và cần thiết cho môi trường trái đất, chúng ta không thể tàn phá vô trách nhiệm. Thực ra mọi sự, mọi vật trong vũ trụ được Chúa ấn định cho một thứ “quyền”. Xúc phạm đến quyền đó, thiên nhiên sẽ có cách trả thù, lúc ấy tai họa thật ghê gớm. Cho nên, Khôn ngoan dạy chúng ta phản ánh tình yêu của Thiên Chúa trên mọi sự sống, nhất là những sự sống nhỏ bé nhất. Phá thai hẳn là một trọng tội đối với thiên nhiên, giết người là trọng tội khác. Bởi vì “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, và không ghê tởm một loài nào Ngài đã làm ra”.

Viễn vọng kính Hubble ngoài không gian đã khám phá ra nhiều chùm sao Thiên Hà mới. Càng nhìn ra xa vũ trụ, nhân loại càng thấy được bàn tay Thiên Chúa. Những dòng chữ mở đầu bài đọc một đã nhấn mạnh về thế giới được tạo dựng và về sự vô biên của Thiên Chúa. Liệu vị Thiên Chúa mà trước mặt toàn thể vũ trụ chỉ là hạt cát trên cán cân, hạt sương mai rơi xuống đất… có chăm lo đến những chi tiết nhỏ nhặt cuộc sống hằng ngày của bạn? Sách khôn ngoan dạy: “Ngài thương xót hết mọi loài.” Thiên Chúa vĩ đại của vũ trụ chăm lo cho chúng ta từng chi tiết và tha thứ tội lỗi chúng ta do bởi tình yêu Ngài. Chúa Giêsu đã xác thịt hóa tình yêu này khi Ngài mời gọi chúng ta đến ăn uống tại nhà người thu thuế Giakêu. “Hôm nay, nhà này được cứu độ”.

Chúa Giêsu đã biến sự chăm lo của Đức Chúa Trời trên mọi sự, ngay cả trên những người bị khinh rẻ nhất, thành hành động và lời giảng dạy. Thiên Chúa, Đấng yêu thương mọi loài, trong bài Phúc Âm hôm nay, đã cất công đi kiếm tìm. Ông Giakêu leo lên cây sung tưởng mình tìm kiếm Chúa Giêsu, nhưng sự thực, kết quả của câu chuyện cho thấy rõ, Chúa Giêsu đã kiếm tìm ông. Chính ông là con chiên đi lạc. Ông đâu có thuộc về đám đông theo sau Chúa Giêsu, những người tò mò rỗi rãi. Cũng như ngày nay, đám đông vây quanh các siêu sao điện ảnh, thể thao, chính trị, v.v… Nhưng như thánh Luca cho biết, ông Giakêu hôm ấy có mặt tại quãng đường Chúa Giêsu đi qua với lý do khác hẳn: “Ông tìm xem Chúa Giêsu là ai? ông là mẫu gương của những kẻ kiên trì tìm kiếm, ông đã đi tìm Chúa Giêsu, nhưng té ra Chúa Giêsu đang đi kiếm tìm những chi đã mất. Giakêu là kẻ bị thất lạc.

Một thực tại đáng buồn, ông ta giàu có những đồng tiền bất chính, bị cộng đoàn Do Thái khinh bỉ vì nghề thu thuế, phục vụ đế quốc Rôma, ông cũng chẳng được người La mã hoàn toàn chấp nhận. Như thế về mặt tôn giáo ông không thể được liệt vào hàng kính sợ Chúa hoặc được Chúa ưu ái. Dựa trên những gì ông làm, ông không phải là con người đáng yêu. Chúa yêu ông ta không phải vì công nghiệp của ông ta, nhưng hoàn toàn vì Ngài là tình thương. Bản chất của Ngài là yêu mến. Cho nên Ngài đã gửi Chúa Giêsu xuống để tìm kiếm ông ta. Chân tướng của Giakêu là như vậy. Của chúng ta cũng như thế thôi. Nếu chúng ta cảm thấy mình đáng yêu, đáng công nghiệp trước mặt Chúa. Phúc âm hôm nay không đề cập tới. Ông Giakêu đã nhận ra rằng, mặc dầu ông không xứng đáng, Chúa Giêsu đã kiếm ông và muốn đồng bàn với ông. Thiên Chúa cũng muốn dọn bàn tiệc cho chúng ta hôm nay, bàn tiệc bánh và rượu Thánh thể. Tại đó, chúng ta được lắng nghe lời khôn ngoan của Ngài, nhận ra mình được yêu mến và dưỡng nuôi, bởi chính Đấng đã tìm kiếm chúng ta!

Phân đoạn Phúc âm hôm nay tiếp liền phân đoạn 18, 35 nói về câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người mù thành Jericho, tức nói về sứ vụ của Ngài nơi những kẻ bất hạnh, bị xã hội ruồng bỏ. Giakêu là một người giàu có, là thu thuế trưởng, thật khó mà ra khỏi hoàn cảnh của mình, mặc dù nghề nghiệp đáng khinh bỉ. Ông ta chẳng thể tự cứu nổi mình, lối sống đã thành thói quen. Não trạng đã bị giam hãm trong một thế giới hạn hẹp, ông không thể ra khỏi đấy, trừ phi có người dẫn dắt ra, cho ông khả năng để trỗi dậy, người đến từ thế giới rộng lớn hơn.

Chúa Giêsu đã vào nhà ông, mang đến cho ông nhãn quan rộng lớn đó. Cả hai người, ông Giakêu và người mù thành Jericho, đã nhận được ánh sáng từ Chúa Giêsu. Mắt họ mở ra và nhìn thấy thế giới huy hoàng đẹp đẽ của tình thương. Ông hứa sẽ trả lại cho những người ông đã bóc lột gấp bốn. Người nghèo thì được nửa phần gia tài của ông. Ý định đó không mang lại cho ông ơn cứu độ. Nó là kết quả của việc ông lắng nghe sứ điệp của Chúa Giêsu. Sứ điệp mở tai mở mắt cho ông.

Tác giả Andrew Greely nói rằng có hai nguồn ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo của chúng ta. Một là thái độ sống đạo của người phối ngẫu. Hai là nghe giảng ngày Chúa Nhật. Những ảnh hưởng khác không mấy quan trọng. Như vậy ơn cứu độ đã tới nhà ông Giakêu và ông đã ăn năn trở lại. Chúng ta là nguồn ảnh hưởng lớn cho những ai cùng sống với chúng ta. Trong thánh lễ hôm nay, xin Chúa cho chúng ta trở nên nguồn ảnh hưởng tốt lành. Nhờ chứng kiến nếp sống của chúng ta, gia đình chúng ta, Giáo hội của chúng ta mà Chúa Giêsu đến mang ơn cứu độ cho mọi người trong ngôi thánh đường này.

Bài Tin Mừng cũng nói rất nhiều với chúng ta về bí tích Thánh thể. Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo là tiếp rước những kẻ tội lỗi, ăn uống với họ. Điều mà Ngài dự tính thực hiện ở Jericho, Ngài cũng dự định làm hôm nay. Ngài thu thập các tội nhân xung quanh bàn ăn. Ngài đã kiếm tìm họ, tha thứ cho họ. Việc chúng ta rước Chúa vào lòng nhắc nhớ, chúng ta đang ở trước mặt Đấng đã biến đổi cuộc đời chúng ta cực kỳ sâu thẳm. Biến đổi cả cộng đoàn giáo xứ và nhân loại. Ngài đã tìm ra chúng ta, chúng ta cũng phải ra đi tìm kiếm người khác để đồng bàn với họ. Yếu tố chính yếu của Tin Mừng hôm nay là sự tha thứ. Chúng ta phải tìm kiếm người khác bằng sự tha thứ của mình, cảm thấy thân ái với họ. Thánh thể kêu gọi chúng ta tha thứ. Ước chi ơn cứu độ hôm nay đến trong nhà thờ này bởi lẽ mọi người đều đã được thứ tha. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ