Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 102
Tổng truy cập: 1445590
HÃY YÊU KẺ THÙ VÀ LÀM ƠN CHO HỌ
Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Mến Chúa, yêu người chính là điểm cốt lõi của đạo Công Giáo. Nếu nói mến Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói dối. Mến Chúa thì dễ, nhưng yêu người lại rất khó. Hơn nữa yêu cả kẻ thù của mình thì càng khó hơn gấp bội. Tuy nhiên, là người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không thể bỏ qua hay làm ngơ khi đứng trước lời mời gọi của Đức Giêsu là yêu thương hết mọi người, kể cả người thù ghét mình nữa.
1. Luật yêu thương trong Cựu Ước
Thời Cựu Ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại:“Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình. Hơn nữa, đây lại chính là điều kiện cần để được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ cho mình: “Vì các ngươi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38)”.
Tuy nhiên, luật Cựu Ước, theo lẽ công bằng thì yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái. Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x. Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Như thế, ta thấy luật Cựu Ước là một luật đem lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn đến thời Tân Ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy gì?
2. Luật yêu thương thời Tân Ước
Sang thời Tân ước, Đức Giêsu đến để kiện toàn Lề Luật bằng việc đem vào đó một tình yêu bao dung tha thứ được dành cho hết mọi người. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương luôn cả thù địch nữa. Đức Giêsu đã phán: “Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Đức Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống [...]Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (x. Rm 12:14, 20-21). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”. Như vậy, vị chi là 490 lần, tức là yêu thương không ngừng.
Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài bảo trợ cho những người phạm tội hay có những tà ý vẫn ung dung sống trong những chọn lựa sai lầm của họ, mà Ngài đã mở lối thoát cho những ai bị người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của họ, để giúp họ vượt ra khỏi vòng tội lỗi để trở về với Chúa và sống chân tình với nhau. Đức Giêsu cũng không ngừng mời gọi người môn đệ sống tinh thần đó để góp phần làm cho một xã hội tràn đầy tình thương, lòng bao dung tha thứ.
“Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”(Mt 5,43-44) là điểm sáng của người môn đệ. Nếu không tha thứ cho những người ngược đãi mình thì của lễ của chúng ta cũng không được đẹp lòng Chúa và không được Ngài chúc phúc: "Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha cho nó" (Lc 17, 4). Xa hơn nữa: "Khi con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con" (Mt 5, 23-24).
Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần thiết biết bao, vì "tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong tâm tư những người thù hận nhau... Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa” (MV số 28).
Tuy nhiên, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội. Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội, phải tìm cách giúp đỡ họ vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi. Nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
3. Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho họ
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đây là giáo huấn độc đáo của Đức Giêsu về lòng nhân ái.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người. "Yêu thương kẻ thù" là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời: "Đấng làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương..."
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đức Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ". Đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Đức Giêsu. Nhưng Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lạy Cha, xin tha cho họ vì nó lầm chẳng biết”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may hầu sám hối và canh tân để được cứu độ.
Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho họ" là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý nghĩa và làm nên bản chất của người môn đệ.
4. Sống sứ điệp Lời Chúa
Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ khí và hận thù…
Là những kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán hận chống lại người khác, vì họ là đền thờ và hình ảnh của Thiên Chúa.
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà là kêu gọi người tội lỗi, vì người khỏe thì không cần đến thầy thuốc, người đau yếu mới cần.
Như vậy, nếu các kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa, họ sẽ không tốt hơn những người khác và có khi những người không phải là Công Giáo, người ta làm tốt hơn chúng ta.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đức Giêsu đã nói với Phêrô như vậy tại vườn cây dầu khi ông dùng gươm để bênh vực cho thầy của mình và đã chém đứt tai người lính đến để bắt Đức Giêsu. Khi chúng ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.
Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua lương tâm chúng ta trước. Khi nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa để chôn chính ta. Người Hylạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Người được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Người muốn, theo mẫu gương thánh thiện của Người, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ: “hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”.
Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa. Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt con người, biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu và sống tinh thần yêu thương, tha thứ, làm ơn cho anh chị em, nhất là những người đang thù ghét chúng con bằng một tình yêu không giới hạn. Amen.
43. Làm thánh sống - Trầm Thiên Thu
Người ta chết rồi mới được làm thánh, chưa chết mà sao làm thánh? Làm gì có chuyện “ngược đời” như thế chứ? Đúng vậy, nhưng NGHỊCH mà lại hoàn toàn THUẬN đấy. Tại sao? Chết rồi mà làm thánh là “chuyện nhỏ”, sống mà làm thánh mới là “chuyện lớn”. Thật chứ không đùa. Vì Chúa Giêsu đã truyền lệnh: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Nhân vô thập toàn, ngay cả những thánh nhân cũng tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha. Vả lại, làm thánh hay không là dựa vào cuộc sống đời thường, sống sao chết vậy. Như người ta vẫn nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Cái “tiếng” ở đây là “tiếng tốt”. Phàm nhân đầy “vết chàm”, phàm nhân mà hoàn thiện thì không phải là LÀM THÁNH SỐNG sao? Thật vậy, Chúa Giêsu không chỉ bảo chúng ta phải làm thánh sau khi chết mà phải làm thánh ngay ở đời này vậy.
Thời đại của chúng ta cũng đã có những vị thánh sống như Mẹ Teresa Calcutta (1910-1997), ĐGH Gioan Phaolô II (1920-2005). Và hiện nay, thế giới đang chú ý tới ĐGH Phanxicô với phong cách “ngược đời” của một thánh nhân giữa đời thường, dám nói thẳng nói thật vì công lý và chân lý. Tất nhiên, chúng ta cũng phải sống như thế – nếu thực sự muốn làm thánh!
Muốn nên thánh thì phải yêu Chúa, mức độ yêu Chúa được chứng minh qua việc yêu tha nhân – yêu người tức là yêu Chúa. Ai yêu Chúa thì phải từ bỏ mình, ngược lại, ai yêu mình thì mặc nhiên từ bỏ Chúa. Rất lô-gích. Phàm nhân chẳng là gì, có là gì thì chỉ là tội nhân khốn nạn, vì con tim của chúng ta là “tro bụi”, hy vọng của chúng ta “hèn hơn đất”, và cuộc đời của chúng ta “tệ hơn bùn” (Kn 15:10). Thế nên phải cố gắng “làm thánh sống”, cố gắng không ngừng, cố gắng liên lỉ.
Tuy nhiên, nếu chỉ nên thánh một mình thì là ích kỷ – mà ích kỷ thì không thể làm thánh, nghĩa là chúng ta phải không ngừng nỗ lực nên thánh mà còn phải giúp người khác cùng nên thánh. Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo) xác định: “Người hoàn thiện nhất là người đã giúp ích cho nhân loại nhiều nhất”. Tất nhiên ai cũng có thể nên thánh và phải làm thánh, dù chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, trừ phi chúng ta không muốn. Đã có những tội nhân “lớn” nhưng đã làm thánh: Vua Đa-vít, Tướng cướp Dismas (tên gian phi tốt bụng, Lc 23:39-43), binh sĩ Longinô (người cầm giáo đâm vào ngực Chúa Giêsu trên Đồi Sọ), Giáo hoàng tiên khởi Phêrô, Tông đồ Phaolô, Người Phụ nữ Tội lỗi (Lc 7:36-50),... và một người ít “bị” để ý là vua Salômôn, dù là người khôn ngoan nhất nhưng cũng đã cãi lệnh Chúa và đã từng sống trong tội lỗi (1 V 11:1-13). Vì yếu đuối và tội lỗi ngập đầu nên mới phải cố gắng hoàn lương để làm thánh, và đừng bao giờ mất niềm tin vào Lòng Chúa Thương Xót. Hoàn toàn hợp lý!
Thế nhưng đôi khi chúng ta vẫn nặng hình thức mà chưa “lột xác” được. Giảng hay, nói giỏi, viết tốt,… khiến say mê lòng người, nhưng chính mình lại vẫn giậm chân tại chỗ, chẳng thay đổi được gì. Vậy thì chỉ là “lẻo mép” hoặc “lẻo bút”, hoàn toàn vô ích! Loài rắn và loài cua phải lột xác để phát triển, nếu chúng ta không “lột xác” thì không thể phát triển về tâm linh được, mà “lột xác” thì phải đau đớn, phải dứt khoát. Càng “lột xác” nhiều thì càng hoàn thiện, càng nên thánh.
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đã phán với ông Mô-sê: “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19:1-2). Đó là lẽ tất nhiên. Thiên Chúa là Đấng thánh thì con cái Ngài cũng phải thánh, không thể khác được.
Ngài nói rất dứt khoát: “Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó. Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là Đức Chúa” (Lv 19:17-18). Thấy điều trái tai gai mắt mà làm ngơ thì có thể là bao che hoặc nhát đảm, nhưng dám lên tiếng cảnh báo thì mới là can đảm bảo vệ công lý và yêu mến chân lý. Thật vậy, người bạn thân thiết là người dám phê phán chúng ta cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta, ngoài ra không là “bạn” mà chỉ là “bè” mà thôi.
Thiên Chúa chí thánh, thật hạnh phúc khi chúng ta đang biết tôn thờ một Đấng Thánh toàn năng và hết mực yêu thương. Vì thế, chúng ta phải đêm ngày thầm nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103:1-2). Phải hành động như vậy với lý do rất minh nhiên: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4).
Ngài không chỉ là Đấng chí tôn cao cả mà còn giàu lòng thương xót: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” (Tv 103:8-10, 12-13). Thật vậy, Người không đành bẻ gãy cây lau bị giập, và cũng chẳng nỡ tắt đi tim đèn leo lét (x. Mt 12:20).
Chúng ta phải làm thánh sống vì một lý do khác nữa, như Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1 Cr 3:16-17). Thiên Chúa là Đấng Thánh thì không thể ở nơi ô uế tội lỗi. Chúng ta xấu xa, hèn hạ, khốn nạn và bất xứng như thế, vậy mà Thiên Chúa lại cho chúng ta trở thành Đền Thờ của Ngài. Thật không thể nào tưởng tượng nổi, thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài bằng cách cố gắng làm thánh sống. Hoàn toàn hợp lý!
Thánh Phaolô cũng “ngược đời” khi nhắc nhở chúng ta: “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. Lại có lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài” (1 Cr 3:18-20). Ít có ai dám “khác người”, vì như vậy sẽ bị người ta cho là “chạm điện”, bị ghen ghét, bị xa lánh, bị trù dập,… thế nhưng như vậy mới là “khôn ngoan thật” theo phong cách của Thiên Chúa. Đúng là “căng” thật đấy!
Cuối cùng, Thánh Phaolô kết luận rất cụ thể: “Vậy đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; dù là Phaolô, hay Apôlô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, mà anh em thuộc về Đức Kitô, và Đức Kitô lại thuộc về Thiên Chúa” (1 Cr 3:21-23).
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng cuộc sống cần có luật như dây cương và hàm thiếc để điều khiển ngựa kẻo nó sinh chứng. Luật cũng đa dạng, có luật hợp lòng dân hoặc không hợp lòng dân. Luật hợp lòng dân là luật chứa sự nhân đạo, nhằm hoàn thiện con người – như Luật Tân Ước, nổi bật là chữ NÊN; còn luật không hợp lòng dân là luật chỉ nhắm tới những khung hình phạt – như Luật Cựu Ước, chú trọng chữ CẤM. Luật Cựu Ước xem chừng thoải mái, dễ thực hiện hơn, và ai cũng thích: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Có lý lắm, vì người ta đánh mình thì mình phải “chơi tới bến” chứ không thì người ta chê mình “dở ẹc” hoặc “lép vế”. Thế thì máu tự ái bốc tới chỏm đầu thôi, chịu gì nổi!
Thế nhưng Đại sư Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-41). Chu choa, “căng” quá đi! Chúa Giêsu kỳ thí mồ, dạy những điều chi mà khó mần quá chừng. Thế nhưng đó lại là chuyện thật chứ không là chuyện đùa!
Luật Cựu Ước dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù”. Chỉ là “chuyện nhỏ”, các loài động vật khác cũng vẫn thực hiện như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu dạy những điều mà chúng ta thấy rất khó nghe: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5:44). Mèn ơi! Gay go quá đi!
Thế nhưng phải vậy thôi, vì Chúa Giêsu giải thích: “Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?” (Mt 5:45-48). Những bí quyết Chúa Giêsu đưa ra thật thú vị, rất “khác người”, rất “ngược đời”, nhưng mà lại rất thú vị và chí lý. Quả thật, có dám “khác người” thì mới khả dĩ nên thánh, có thể làm thánh sống ngay trên thế gian này!
Nhận biết mình chỉ là tội nhân, chúng ta sẽ thấy thích lời truyền dạy của Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Khi định hướng rạch ròi như vậy, chúng ta sẽ thanh thản làm mọi thứ chỉ vì Chúa chứ không vì bất cứ lý do nào khác, như vậy chúng ta mới có thể thẳng thắn như Thánh Phaolô đã xác định: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi” (2 Cr 5:14).
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì chúng con nói nhiều mà chẳng làm bao nhiêu. Xin Chúa giúp chúng con biết “khó” với chính mình để biến đổi tích cực từng ngày theo định hướng của Ngài, để nên thánh trong từng nhịp thở, để nên thánh ngay trên thế gian này. Chính Ngài là Đấng Thánh thì chúng con không thể không làm thánh. Xin thương biến đổi chúng con, lạy Thiên Chúa chí thiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
44. Yêu kẻ thù để nên hoàn thiện
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện qua cách ứng xử với những người xấu hay những kẻ thù của mình:
- Đối với những người xấu (Mt 5,38-42): Người môn đệ không chống cự khi bị xỉ nhục, bị kiện tụng, bị bắt phục dịch, quảng đại cho đi và cho vay mượn.
- Đối với những kẻ thù (5,43-48): Hãy yêu kẻ thù ghét mình và cầu xin điều lành cho những kẻ ngược đãi mình. Làm như vậy để nên hoàn thiện noi gương Chúa Cha trên trời.
CHÚ THÍCH:
- C 38-42: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (c 38). Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Đức Giê-su dùng kiểu nói song đối so sánh giữa Luật Mô-sê với luật yêu thương của Người. Chẳng hạn về việc trả thù, Mô-sê dạy trả báo công bình “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24) còn Đức Giê-su dạy phải hạn chế sự hận thù bằng thái độ “bất bạo động”. + đừng chống cự lại người ác nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (c 39): Đừng để mình rơi vào vòng lẩn quẩn của bạo lực. Vì bạo lực sẽ sinh ra bạo lực. Sự vả mặt mang tính hạ nhục hơn là làm đau về thể xác. Việc đưa cả hai má ra cho người ác là hành vi “bất bạo động”, không chống trả và sẵn sàng chịu sỉ nhục cách bất công như “Người tôi tớ” trong sách I-sai-a: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn cũng đã làm như vậy khi nhẫn nhịn chịu đựng các đầu mục Do thái “khạc nhổ vào mặt và đấm đánh. Có kẻ còn tát Người” (x. Mt 26,67). + Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài (c. 40): người bị thưa kiện ở toà án nếu quá nghèo, chủ nợ sẽ chỉ được đoạt áo trong để trừ nợ, và không được lấy áo ngoài dù áo này có giá trị hơn (x. Mc 13,16). Chủ nợ không được cầm giữ áo choàng ngoài như vật thế chấp, và nếu có lấy thì cũng phải sớm trả lại cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì áo choàng còn được anh ta dùng làm mền đắp ban đêm (x. Xh 22,25-27). Môn đệ khi bị kiện để đòi lấy áo trong, hãy sẵn sàng đưa luôn cả áo ngoài cho họ. Chính Đức Giê-su cũng đã bị quân lính lột áo, cả áo trong lẫn áo ngoài mà chia nhau (x. Mt 27,31.35), và bị đóng đinh trên thập giá trong tình trạng trần trụi không có cả áo trong lẫn áo ngoài. + Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (c. 41): Đây là sự bắt buộc một người phải mang một vật nặng hay làm một việc phục dịch nào đó cho quân đội hay cho viên chức nhà nước, như ông Si-môn người Ky-rê-nê đã bị lính Rô-ma ép phải vác đỡ thập giá cho Đức Giê-su trên đường thương khó khi Người quá yếu mệt (x. Mt 27,32). + Ai xin thì anh hãy cho, ai muốn vay mượn, thì anh đừng ngoảnh mặt đi (c. 42): Khi kẻ ác và người xấu xin và muốn được vay mượn thì người môn đệ cũng hãy sẵn sàng đáp ứng.
- C 43-38: + Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy Thầy bảo anh em: Sự công chính của người môn đệ Đức Giê-su sẽ đạt tới tầm mức tối đa khi yêu thương kẻ thù. Hành vi yêu thương kẻ thù ghét mình là để nên hoàn hảo noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng hoàn hảo (x. 5,48) và công chính (x. 6,33). Nhờ đó, họ mới được nên công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu để xứng đáng được vào Nước Trời (x. 5,20). + “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em” (c. 44): Theo mạch văn kẻ thù là kẻ bắt bớ người tốt (c. 44b), là kẻ xấu luôn sỉ nhục, vu khống, đặt điều nói xấu người lương thiện (x. 5,10-11), và làm những điều bất công (x. 5,38-42); do đó người đời thường ghét kẻ thù. Trái lại Đức Giê-su dạy môn đệ phải yêu thương kẻ thù theo gương Chúa Cha trên trời. + Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (c. 45): Thiên Chúa không phân biệt đối xử giữa kẻ xấu và người tốt. Ở đây Mat-thêu dùng từ “người xấu” thay vì “kẻ thù”. Vì “kẻ thù” của Thiên Chúa chính là ma quỉ; chắc chắn là Thiên Chúa không yêu thương và “cho mặt trời mọc lên” trên loại kẻ thù này (x. Mt 13,25), nhưng Ngài sẽ đặt nó dưới bệ chân Ngài (x. Mt 22,44). + Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? (c 46). Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? (c 47): Trước khi kết luận, Đức Giê-su đưa ra hai cách làm bình thường mà người môn đệ cần phải vượt qua là chỉ yêu thương những người yêu mình hay chỉ chào hỏi những anh em của mình, để nhờ đó họ sẽ nên công chính hơn những người thu thuế và lương dân. + Vậy anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện (c. 48): Đây là điều đã được Đức Giê-su thực hiện và qui chiếu về Chúa Cha: “như Cha anh em”. Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì con cái của Ngài cũng phải làm như vậy: nghĩa là phải làm điều tốt cho người khác vì tình yêu họ.
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu dạy môn đệ phải nên hoàn thiện noi gương Thiên Chúa để đối xử với người xấu và người ác ra sao? 2) về việc trả thù, Mô-sê dạy phải trả báo công bình như: “mắt đền mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Còn Đức Giê-su dạy môn đệ phải hạn chế hận thù như thế nào? 3) Tại sao lại phải giơ má kia khi đã bị kẻ xấu tát má này của mình? Phải chăng làm như vậy là khuyến khích kẻ xấu tiếp tục làm ác: “được đằng chân lân đàng đầu”? 4) Môn đệ phải yêu kẻ thù là những ai để noi gương Thiên Chúa? 5) Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn người thu thuế và dân ngoại như thế nào? 6) Nếu Chúa Cha đã thể hiện tình yêu qua việc “cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành”, thì các tín hữu cũng phải làm gì đối với những kẻ thù ghét mình?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu phán:” Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. (44) Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Tổng Thống Nam Phi Nensơn Manđêla yêu thương kẻ thù:
Đảng Quốc Dân, chính đảng của thiểu số người da trắng nắm quyền ở Nam Phi từ 1948, chủ trương phân biệt chủng tộc gọi là chủ nghĩa A-pác-thai và đối xử dã man với người da đen ở Nam Phi và các người di dân từ Châu Á tới, đặc biệt là từ Ấn Độ. Nensơn Manđêla (Nelson Mandela) đã đứng ra tranh đấu đòi bãi bỏ chế độ A-pác-thai và đã bị cầm tù nhiều năm và cuối cùng đã giành được thắng lợi. Ngày 7.12.1993 Hội đồng Hành pháp Lâm thời Nam Phi (ANC) đã ra đời với vị chủ tịch đầu tiên là Nensơn Manđêla, chấm dứt 340 năm độc quyền cai trị của thiểu số người da trắng ở nước Nam Phi này. Tháng 4 năm 1994, tổng tuyển cử đa sắc tộc đã được tổ chức. ANC đã chiếm được đa số phiếu và Nen-xơn Man-đê-la trở thành vị tổng thống da mầu đầu tiên của Nam Phi.
Ông Nensơn Manđêla đã trải qua 27 năm trong nhà tù. Sau khi được phóng thích, lẽ ra ông đã có đủ lý do để trả thù những kẻ đã cướp đoạt tự do của ông cách bất công. Nhưng ông đã không làm như thế mà luôn tỏ thái độ tươi cười hòa giải với những người đã từng ra lệnh giam giữ ông. Vì thế Man-đê-la đã trở thành lãnh tụ nổi tiếng nhất của nước Nam Phi mới. Trong cuốn tự thuật “Hành trình đến tự do” (1994), Man-đê-la đã viết như sau: “Tôi biết rằng dân chúng mong chờ tôi nuôi dưỡng hận thù người da trắng. Nhưng tôi đã không làm như thế. Trong nhà tù, sự tức giận của tôi với người da trắng đã hạ nhiệt, nhưng lòng thù ghét hệ thống xã hội phân biệt chủng tộc “A-pác-thai” lại gia tăng. Tôi muốn đất nước Nam Phi nhìn thấy tôi đã yêu thương những kẻ thù của tôi, đang khi tôi thù ghét chế độ A-pac-thai là nguyên nhân khiến mọi người trong nước chống lại nhau. Tôi đã thấy sứ mạng của tôi là rao giảng sự hòa giải để chữa lành những vết thương lâu đời và xây dựng một nước Nam Phi mới” (McCarthy).
2) Ông Ham-Mel-Mann đã tha thứ cho kẻ thù đã giết hại vợ con mình:
Một tên sát nhân sau khi đã thụ án 20 năm trong ngục được thả ra, đã thuật lại hành động anh hùng của ông Ham-mel-mann: Không những ông tha thứ cho anh ta tội giết hại vợ và bốn đứa con của ông, mà còn sẵn sàng giúp đỡ anh ta cách tận tình. Anh ta đã phát biểu như sau:
“Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi vốn là một kẻ hiếu sát. Tôi đã giết bà Ham-mel-mann và bắn chết 4 người con của bà. Tôi đã nhìn thấy họ nằm chết trên vũng máu. Sau khi bị cảnh sát bắt và đưa ra tòa xét xử; quan tòa đã tuyên án như sau: ”Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải lãnh án tù khổ sai 20 năm”. Trong thời gian trong tù, tôi đã nhận được lá thư của ông Ham-mel-mann viết cho tôi vì được tin chính quyền Ba-lan không cho phép tôi được trở về quê hương Ba-lan của tôi sau khi mãn hạn tù. Ngay cả chính quyền Đức cũng nói với tôi: ”Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức”.
Trong lá thư Ham-mel-mann viết cho tôi có đoạn sau: ”Tôi tha thứ cho anh về việc anh đã giết vợ và 4 đứa con của tôi. Tôi cũng đang vận động với chính quyền Đức để họ cho phép anh được sống tại Đức. Tôi đã nói với chính phủ Đức là anh có thể ở trong nhà tôi và tôi hứa sẽ giúp anh sống một cuộc đời lương thiện”. Tại sao tôi lại muốn giúp đỡ anh? Tại sao tôi có thể tha thứ cho anh về tội tàn sát cả gia đình của tôi? Sở dĩ tôi có thể làm được điều này vì Thiên Chúa đã làm một phép màu nơi tôi. Ngài đã ban cho tôi Thần Khí của Ngài. Thần Khí của Thiên Chúa đã dẫn dắt cuộc đời tôi và đã tăng thêm sức mạnh giúp tôi sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho anh”.
Cuối cùng anh ta nói: Bây giờ tôi biết được rằng chắc chắn Thần Khí của Thiên Chúa phải quyền năng siêu việt. Ngài đã có thể cất đi mối tử thù khỏi lòng một con người và ban cho ông ta tấm lòng quảng đại để sẵn sàng giúp đỡ tôi, mặc dù tôi đã giết vợ và 4 đứa con của ông ta (TK Nguyệt san, số 367).
3. SUY NIỆM:
Tin Mừng Chúa Nhật 7 Thường Niên tiếp tục trình bày giáo huấn của Đức Giê-su hoàn thiện Luật Mô-sê: Luật cũ dạy người Do thái phải yêu thương thân nhân và những người đồng chủng, đồng thời phải ghét kẻ thù là dân ngoại và những kẻ chống lại mình. Luật Mới của Đức Giê-su dạy môn đệ phải mở rộng tinh yêu để đến với mọi người, nhất là những người nghèo đói bệnh tật, què quạt đui mù câm điêc… và còn phải yêu thương cả những kẻ làm ác và kẻ thù ghét mình nữa.
1) Lời dạy của các bậc vĩ nhân đối với kẻ thù:
Trong việc ứng xử với kẻ thù, Đức Khổng Tử đã dạy học trò: ”Dĩ đức báo oán", nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Còn Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: ”Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”. Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết “bất bạo động” làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: ”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau”. Sau này, Mục sư Luther King người Mỹ suốt đời đấu tranh cho quyền bình đẳng của người da màu với người da trắng và đã bị kẻ thù bắn chết. Trong tác phẩm “Chỉ có một cuộc cách mạng” mục sư đã viết về cách đối xử với kẻ thù như sau: ”Tôi hài lòng vì Đức Giê-su đã không dạy: Anh em hãy có thiện cảm với kẻ thù của anh em. Bởi vì có nhiều người tôi khó lòng có thiện cảm được. Thiện cảm là một cảm tính. Tôi không thể có thiện cảm với kẻ tìm cách ném bom vào gia đình tôi, đàn áp bóc lột tôi, chèn ép tôi cách bất công. Không, không thể có thiện cảm nào đối với những kẻ luôn đe dọa cuộc sống của tôi. Tuy nhiên Đức Giê-su đã dạy rằng: “Tình yêu còn mạnh hơn sự chết”, rằng tình yêu là thiện chí cảm thông, mang tính sáng tạo và có khả năng cứu độ mọi người”.
Riêng Đức Giê-su Đấng đến kiện tòan Luật Mô-sê, đã dạy về cách đối xử với kẻ thù như sau: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43-44).
2) Yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi mình:
a) Kẻ thù là những ai?: Thời Đức Giê-su kẻ thù của người Do Thái là quân Rô-ma đang cai trị đất nước Do thái. Còn kẻ thù đối với chúng ta hôm nay không phải ai xa lạ mà chính là những người đang sống chung dưới một mái nhà, là anh chị em ruột thịt nhưng đang bất thuận với chúng ta; Là người hàng xóm nhiều lời và hay nói xấu chúng ta; Là bạn đông nghiệp cùng một cơ quan xí nghiêp nhưng hay tỏ ra ganh tị và luôn tìm cách làm hại chúng ta; Là người cùng chung một cộng đoàn nhưng lại hay ganh ghét và muốn loại trừ chúng ta… Kẻ thù cũng có thể là cấp trên đang chèn ép chúng ta khi không lôi kéo được chúng ta làm điều bất chính; Cuối cùng kẻ thù còn là những kẻ tự nhiên có thành kiến không tốt về chúng ta hoặc những kẻ chúng ta tự nhiên có ác cảm ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên...
b) Phải yêu thương kẻ thù như thế nào?: Đức Giê-su không đòi chúng ta phải yêu kẻ thù giống như yêu một người thân của mình về mặt tình cảm, vì đó là điều bất khả thi. Người chỉ đòi chúng ta yêu kẻ thù bằng hành động như: Làm ơn cho họ, cầu nguyện điều lành cho họ, sẵn sàng chia sẻ cơm bánh cho họ và cho họ vay mượn tiền bạc.
- “Hãy làm lành cho những kẻ ghét anh em”: Tình yêu tha nhân phải được biểu lộ qua hành động như: sẵn sàng nói chuyện, quảng đại giúp đỡ và khiêm hạ phục vụ…
- “Và cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ”: Đức Giê-su dạy các tín hữu phải theo gương Chúa Cha: “cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính”. Khi cầu nguyện điều tốt cho những kẻ bách hại mình, chúng ta mới chứng tỏ mình thuộc về Thiên Chúa như có người đã nói: “Làm điều ác để đáp trả ơn lành là việc làm của ma quỉ. Làm điều lành để đáp trả ơn lành là việc làm của con người. Còn làm điều lành để đáp trả điều ác mới là làm việc của Thiên Chúa”.
c) Làm như vậy phải chăng là thái độ của kẻ đạo đức giả và hèn nhát?: Thực ra việc yêu kẻ thù dù tự nhiên mình không thích, không phải là hành động đào đức giả, nhưng là một hành động anh hùng, luôn nỗ lực vượt thắng bản thân để trở thành một con người bao dung từ bi nhân hậu. Làm như vậy cũng không phải là hành vi của kẻ hèn nhát, chịu khuất phục trước bạo lực, nhưng là dấu hiệu của một nhân cách trưởng thành, sẽ giành được sự nể phục của nhiều người. Làm được như vậy còn làm cho chúng ta trở nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su, Đấng đã nêu gương nhẫn nhịn chịu đựng và cầu xin cho những kẻ giết hại mình trên cây thập giá.
d) Việc yêu thương kẻ thù mang lại những ích lợi nào?: Khi cư xử tốt với kẻ thù, chúng ta được giải phóng khỏi thái độ “ăn miếng trả miếng” và tránh được nhiều chứng bệnh thời đại như cao huyết áp, mất ngủ, trầm cảm… Khi đối xử tốt với kẻ thù có thể chúng ta sẽ cảm hóa được kẻ thù, giúp họ hoán cải và theo làm môn đệ Đức Giê-su. Nhờ việc vượt thắng bản thân để đi bước trước bắt tay chào hỏi, sẵn sàng giúp đỡ và cầu nguyện điều lành cho họ… chúng ta hy vọng sẽ biến thù thành bạn của chúng ta.
4. THẢO LUẬN: 1) Đã có bao giờ bạn làm điều tốt cho kẻ thù ghét mình chưa? 2) Đã có khi nào bạn gây được thiện cảm với ai đó nhờ việc đi bước trước để bày tỏ sự thân thiện, quảng đại chia sẻ và tận tình phục vụ họ chưa?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con biết quảng đại để vươn tâm hồn lên cao, vượt qua những tình cảm đời thường và mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Chúa. Xin cho con loại bỏ những sự hờn oán nhỏ nhen, những sự trả thù không đáng có. Xin cho tâm hồn con luôn bình an trong sáng, và không biến cố nào có thể làm xáo trộn, không đam mê nào có thể khuấy động được lòng con. Xin cho con đừng quá vui khi được người đời khen ngợi, cũng đừng quá buồn khi bị chỉ trích chê bai. Xin cho quả tim của con đủ lớn để yêu thương cả những người con không ưa và những kẻ không ưa con. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để ôm cả thế giới, trong đó có cả những kẻ thù ghét con. Nhờ đó con mới nên con thảo của Cha trên trời và nên môn đệ thực sự của Chúa. – Amen.
45. Hãy yêu tha nhân như chính mình
(Suy niệm của Lm Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ Anh Em HV Đaminh Gò Vấp)
Khi mùa Chay đến sớm trong chu kỳ phụng vụ thông thường thì chúng ta không có Chúa Nhật VII cùng với những bài đọc hôm nay. Những Chúa Nhật mùa Chay trở thành tâm điểm và thay thế một số Chúa Nhật trong mùa Thường Niên. Nhưng mùa Chay năm nay đến trễ, vì thế chúng ta có cơ hội nghe những bài đọc Kinh Thánh mà lẽ ra bị bỏ qua nếu mùa Chay đến sớm hơn. Tôi nghĩ rằng quý vị sẽ thở phào nhẹ nhõm nếu mùa Chay đến sớm hơn và Tin Mừng hôm nay không nằm trong chu kỳ phụng vụ. Quả là khó khăn cho chúng ta!
Không chỉ riêng quý vị cảm thấy lúng túng đối với đoạn chọn từ Bài Giảng Trên Núi hôm nay. Chẳng phải là mọi Kitô hữu đều cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói: "Đừng chống cự người ác", "giơ cả má bên trái", "đưa cả áo bên ngoài", "đi thêm một dặm", "yêu thương kẻ thù"...hay sao? Chúng ta thực sự muốn giơ tay phản đối khi Đức Giêsu kết luận: "Hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Tôi có thể nghe một số người nói: "Thôi nào ông Giêsu, thực tế chút đi!".
Thoạt tiên khi nghe, chúng ta có thể hiểu vì sao bài Phúc Âm hôm nay, thực ra là trọn vẹn Bài Giảng Trên Núi, làm cho Kitô giáo giống như một lối sống không thực tế và thực tiễn trên thế gian này. Hôm nay, thánh Phaolô diễn tả điều ấy như sau: "Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa...". Chúng ta nói thêm rằng: "Và sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự điên rồ trước mắt thế gian".
Vì vậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, phản ứng ban đầu của thế gian đối với Bài Giảng là xem lời dạy của Đức Giêsu hoàn toàn vô lý: phi thực tế trong "thế giới hiện thực". Nhưng "thế giới hiện thực" chỉ là tình trạng hỗn độn và sự khôn ngoan của thế gian đã gây ra tình trạng hỗn độn ấy. Vì thế, trước khi con người vội vã ngoảnh mặt đi trước sự khôn ngoan của Thiên Chúa được mạc khải trong Bài Giảng, thì có lẽ họ muốn dừng lại và xét xem đâu là sự khôn ngoan đích thực. Các bài đọc Kinh Thánh cho thấy rõ tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi. Trong đức tin, những ai đã từng cảm nghiệm, từng nhận ra và hiện nay hoàn toàn ở lại trong tình yêu ấy thì đều là những người có thể đáp trả như Thiên Chúa đã làm - yêu vô điều kiện. Đức Giêsu đang nói về một tình yêu đặc biệt - tình yêu chia sẻ. Đó là loại tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể trao tặng người khác một tình yêu như thế khi chúng ta thực sự biết về tình yêu đó, vì chính chúng ta đã cảm nghiệm nó từ chính Thiên Chúa.
Là những tín hữu, chúng ta cần hướng lòng mình để lắng nghe và tin tưởng vào những điều được loan báo hôm nay. Thật dễ hiểu rằng, cả trong bài đọc của Lêvi và Mát-thêu đều dạy chúng ta phải yêu thương những người thân cận. Nhưng Đức Giêsu xóa bỏ ranh giới giữa người thân cận và người không thân cận. Không có giới hạn nơi những người chúng ta yêu. Do đó, Ngài cho chúng ta biết rằng tình yêu của chúng ta không được giới hạn ở những người tốt ("đừng chống cự người ác"), không giới hạn ở gia đình và bạn bè ("yêu thương kẻ thù") hay chỉ những người yêu thương chúng ta ("...nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?"). Điểm cốt yếu là, theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải yêu thương tha nhân như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Chúng ta cần trợ giúp để luôn lắng nghe và thấu hiểu sứ điệp Tin Mừng: Đức Giêsu là bằng chứng tích cực về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chỉ những ai đón nhận và hoàn toàn ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa thì mới có thể nghĩ đến việc đáp trả tình yêu đó bằng cách thi hành điều Thiên Chúa dạy - yêu thương tha nhân, kể cả kẻ thù cách vô điều kiện.
Chúng ta hãy xem bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay. Trong sách Xuất Hành (21,24) có "luật báo oán" - dạy rằng con người được yêu cầu xử phạt và đền bù tùy theo thiệt hại. Luật này thường được cộng đồng sử dụng để phân xử và đưa ra mức hình phạt. Hình phạt không được vượt quá tội. Nếu hình phạt vượt quá tội thì sẽ có nguy cơ càng gây ra thêm thù hận và ý muốn báo thù vô cùng tận. Hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta không được có bất cứ kiểu báo thù nào. Nghĩa là chúng ta không thể để cho người khác định đoạt chúng ta sẽ đáp trả bằng cách nào. Có lẽ, Đức Giêsu đang nhấn mạnhvấn đề, nhưng Ngài đã rất cố gắng khi dạy chúng ta biết giơ cả má bên phải ra nữa.
Áo choàng là chiếc áo dài người ta mặc cả ngày. Nó cũng giữ ấm cho con người vào ban đêm. Một lần nữa Đức Giêsu lại nhấn mạnhvấn đề khi Ngài nói về việc đưa cả áo ngoài của mình cho ai muốn lấy áo trong. Không có áo ngoài thì con người sẽ trần truồng! Có lẽ Ngài muốn nói rằng người Kitô hữu không chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình, nhưng còn cho đi nhiều hơn cả những gì luật công bình đòi buộc.
Lính La-mã có thể bắt những người thường dân phải phục vụ họ. Như vậy, họ có thể yêu cầu một người vác vật nặng đi một dặm - nhưng không được hơn. Đức Giêsu nói rằng: khi anh em bị yêu cầu làm như thế thì hãy đi thêm một dặm nữa. Nếu người Kitô hữu làm những điều quá phi thường, như chúng ta đang nói là "đi thêm một dặm", thì điều đó sẽ có tác dụng thế nào trên người lính La-mã, là người sẽ nghĩ rằng mình có trách nhiệm với hoàn cảnh và con người?
Nó sẽ có tác dụng ra sao trên con người hiện đại, là những người nghĩ rằng họ có trách nhiệm với những hoạt động hay cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta tự quyết định đi thêm một dặm nữa?
Liên quan đến những người hành khất hay những ai đến với chúng ta trong lúc khó khăn: Luật tôn giáo đòi hỏi người Do Thái cho vay mà không đặt lãi. Điều này giúp ích cho những ai gặp khó khăn. Thay vào đó, Đức Giêsu không bảo các môn đệ của mình "cho vay", nhưng là "cho". Dường như Ngài đang mời gọi các môn đệ của mình tập thói quen quảng đại. Nếu chúng ta làm như thế thì hành động của chúng ta sẽ nổi bật lên, biểu hiện cho thứ khôn ngoan thách thức sự khôn ngoan của thế gian.
Chúng ta đã biết nhiều người vượt qua những ranh giới của lòng quảng đại thường ngày. Người già với số tiền trợ cấp mua đồ dùng cho các cha mẹ đơn thân; người thợ ở lại sau những giờ làm việc để giúp huấn luyện những thợ mới mà không cần thêm lương; những luật sư và giáo viên hy sinh thời gian của mình để giúp những người thất nghiệp và ít học...
Hôm nay chúng ta nghe từ sách Lê-vi lời yêu cầu: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình". Nhưng sách Lê-vi không nói ngươi phải "ghét kẻ thù". Có lẽ đó là điều được thêm vào bởi lòng nhiệt thành quá mức và cực kỳ yêu nước vào thời Đức Giêsu. Tuy nhiên, "người thân cận" lại ám chỉ đến người trong cộng đồng. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta sản sinh ra thứ tình yêu dựa trên cảm xúc để dành cho người chúng ta không thích hay thậm chí là ghét. Thay vào đó, Ngài mời gọi chúng ta làm điều thiện cho con người - cho dù người đó là kẻ thù. Ngài nói với chúng ta: ngay cả người ác cũng đối xử tốt với đồng bạn. Vậy chúng ta cũng phải tiến xa hơn trong việc đối xử với tha nhân.
Sau cùng, chúng ta phải trở nên "hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện". Chúng ta không thể thánh thiện như Thiên Chúa, vì thế Đức Giêsu không kêu gọi chúng ta đạt tới kiểu hoàn thiện đó. Nhưng, chúng ta phải tập noi theo tình yêu của Thiên Chúa và loại bỏ những đường lối và những chuẩn mực về yêu thương theo kiểu thế gian. Thiên Chúa yêu cả người tốt lẫn kẻ xấu - chúng ta cũng thế. Thiên Chúa tha thứ cho những người tội lỗi - chúng ta cũng tha thứ cho anh chị em mình. Thiên Chúa đáng tin cậy - chúng ta cũng vậy.
Cùng với giáo huấn này, chúng ta có thể thấy rằng Đức Giêsu không quan tâm đến các môn đệ thiếu nhiệt tình hay nửa vời. Chúng ta cũng không phải là những Kitô hữu chỉ tốt ở nhà và khi tụ họp ở nhà thờ. Không có ranh giới cho tình yêu của người Kitô hữu, vì Thiên Chúa không bị giới hạn hay vạch ra những ranh giới cho tình yêu của Thiên Chúa - một số người bị ở trong phạm vi của tình yêu, còn số khác thì không. Chúng ta phải nhìn vào và bắt chước cách thức yêu thương của Thiên Chúa, chứ không phải cách thức yêu của người ta.
Tôi có một vị thầy dạy thần học luân lý, người chia sẻ với chúng tôi về Bài Giảng Trên Núi. Khi chúng tôi bắt đầu cảm nhận được điều Đức Giêsu đang đòi hỏi chúng tôi thì vị thầy đã thấy nơi chúng tôi sự bối rối và chán nản. Cứ như thể là chúng tôi đang nói: "Ai có thể sống như vậy?". Ông nói với chúng tôi rằng Bài Giảng sẽ đưa chúng tôi đến một lời nguyện rất giản dị và ông đã minh chứng. Ông giơ tay lên không trung, ngước mắt lên với giọng nói làm cho lớp học bên cạnh hoảng hốt, rồi la lớn: "Hãy cứu tôi!". Thế rồi ông nói: "Đó là một lời kinh tuyệt vời để cầu nguyện khi bạn đọc Bài Giảng Trên Núi".
Trở lại với sách Lê-vi, Thiên Chúa dạy Mô-sê nói với dân: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh". Có lẽ trong lúc nghe những lời này, người ta muốn làm theo những gì mà vị thầy dạy thần học của tôi dạy chúng tôi về lời cầu nguyện: giơ tay lên cao, ngước mắt lên trời và kêu "Hãy cứu tôi!".
Nhưng sự thánh thiện của Israel không đến từ bất cứ đức hạnh có tính cố hữu và trịch thượng nào, hay chỉ là nỗ lực trong vai trò của con người. Thay vào đó, sự thánh thiện của Israel được hình thành là bởi Thiên Chúa đã thiết lập mối tương quan với họ. Thiên Chúa đã chọn họ, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và thiết lập với họ một giao ước. Trong cảnh nô lệ, dân có thể kêu cầu với Thiên Chúa "Xin hãy cứu tôi!"; họ không thể tự cứu lấy mình. Họ cũng không thể tự mình tuân giữ một bộ luật nghiêm khắc về thái độ ứng xử như thế. Nhưng họ không đơn độc - Thiên Chúa đã chọn họ. Họ thuộc về Thiên Chúa và vì thế, nếu họ chịu mở lòng ra thì sự thánh thiện của Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào một giao ước mới với chúng ta. Khi nghe những mệnh lệnh của Bài Giảng Trên Núi, chúng ta có thể giơ tay lên trong sự bối rối và chán nản, hay chúng ta có thể hướng về Đức Giêsu và cất lên lời cầu nguyện - "Xin hãy cứu con!". Đức tin của chúng ta đảm bảo rằng trong mối tương quan với Ngài, chúng ta sẽ có thể làm như Ngài đã làm và những gì lúc này Người hướng dẫn chúng ta: hãy quảng đại với những ai khốn khó; đừng trả thù khi bị xúc phạm; cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi chúng ta và thậm chí, với ân sủng của Thiên Chúa, hãy tha thứ cho kẻ thù của chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam