Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 88

Tổng truy cập: 1445524

HÃY TIN ĐỂ ĐƯỢC SÁNG

Hãy tin để được sáng - Huệ Minh

Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng hôm nay.

Tin Mừng kể lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa lành người mù từ lúc mới sinh, và kế tiếp là cuộc tranh luận giữa những người Pharisiêu và người mù từ lúc mới sinh nhìn thấy được.

Bởi nguyên tội, mỗi con người chúng ta cũng đều là những người mù từ lúc mới sinh ngụp lặn trong bóng đêm tội lỗi và sự chết, không thể nào nhận biết Thiên Chúa là Ánh Sáng, nếu không được Ngài mở mắt tâm linh cho. Qua bí tích Rửa tội, mỗi Kitô hữu cũng đều được trao ban ánh sáng của Tin Mừng Phục Sinh, ánh sáng của sự sống vĩnh cửu, và trở nên con cái của Thiên Chúa, con cái của sự sáng. Ấy thế nhưng, ánh sáng đó nơi ta sẽ lặng tắt nếu không có sự canh tân đời sống đức tin.

Tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn.

Qua việc chữa lành này, thánh Gioan muốn làm nổi bật đức tin của người mù. Bởi vì, mặc dù người mù không thể nhìn thấy gì với đôi mắt thể lý, nhưng với đôi mắt đức tin anh ta đã “nhìn thấy” Đức Giêsu Kitô. Trong khi đó, những người Pharisiêu tưởng là mình sáng mắt, nhưng lại là những kẻ mù loà.

Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.

Chúa Giêsu đã ban ánh sáng cho người mù bẩm sinh. Đó là một thứ ánh sáng kép: ánh sáng của đôi mắt thoát khỏi cảnh mù loà, ánh sáng của niềm tin đưa tâm hồn thoát ra khỏi cảnh tù đày của tội lỗi. Như vậy, nơi người mù này, một sự biến đổi đã thực sự diễn ra. Đôi mắt mù trở nên sáng. Tâm hồn u tối trở nên sáng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng thật là Ánh Sáng cho trần gian (Ga 1,9). Hoán cải tâm hồn là điều Giáo Hội vẫn đang mời gọi chúng ta thực hiện, nhất là khi đại lễ Phục Sinh đang tới gần.

Sau khi người mù được Chúa Giêsu làm cho nhìn thấy được, những người Pharisêu đã rất đỗi ngạc nhiên tranh luận: “Làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?”. Họ đã không nhận ra được rằng Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đang hiện diện. Người mù đã nhìn thấy được là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Vì tin nên người mù “nhìn thấy” và nhìn thấy được. Trong khi đó, những người Pharisêu tuởng là mình nhìn thấy nhưng lại trở nên mù vì không tin. Chúng ta không kết án những người Pharisêu.

Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.

Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.

Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Chúa Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi.

Tốt hơn, xin hãy nhìn vào đời sống chúng ta và tâm hồn chúng ta, để xem đâu thực sự là niềm tin của chúng ta, là ánh sáng của Đức Giêsu Kitô trong chúng ta. Phải chăng từng ngày qua đi, cuộc đời chúng ta cũng đang trở nên mù tối hơn? Khi xưa Đức Giêsu đã mang lại ánh sáng cho người mù, ngày nay Ngài cũng vẫn đang thực hiện điều đó cho ta, bởi lẽ Ngài vẫn luôn làm việc (Ga 5,17). Hãy cất đi những nghi ngại của cõi lòng khô cứng cùng với những nhịp điệu buồn tẻ của đời sống để thế chỗ cho ánh sáng dịu êm của niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh.

Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Chúa Kitô. Ngày Rửa Tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi.

Mùa Chay chính là cơ hội cho ta khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.

 

2. Thầy là ánh sáng thế gian - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Helen Keller, người mù nổi tiếng thế giới, tác giả hàng chục cuốn sách có giá trị. Bà dậy đại học và đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Bà sinh năm 1880, 19 tháng sau, bà bị nóng sốt kịch liệt khiến bà điếc và mù. Khi nên năm tuổi, Keller được giáo sư Sullivan dạy đọc và viết bằng chữ nổi và đánh máy chữ đặc biệt. Cuộc đời bà đã được diễn tả thành cuốn phim rất cảm động (Encyclopedia, Funk & Wagnall).

Con người bất khuất đó vẫn không thắng nổi cái mù tăm tối, dù chỉ mù sau khi sinh. Còn loại mù trong lòng mẹ như anh mù trong Tin mừng hôm nay, thì dù khoa học hiện đại cũng phải bó tay. Thế mà Đức Giêsu đã chữa anh khỏi mù bằng phương pháp rất phản khoa học: “Người lấy nước miếng trộn với bùn và xức vào mắt anh” (Ga. 9, 7), cực kỳ lạ lùng! không tưởng tượng được! nhưng có thực trăm phần trăm, vì đã xẩy ra giữa chốn đông người trong ngày lễ Sabat. Chính vì thế nhóm biệt phái đã ra sức điều tra cẩn thận. Họ điều tra anh, cha mẹ anh, những người thấy anh ăn mày. Họ rất bối rối vừa phủ nhận phép lạ vừa kết án Đức Giêsu đã phạm luật lễ nghỉ. Họ kết án cả anh mù: “Mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu” vì theo thành kiến thời đó, bệnh tật là hình phạt kẻ tội lỗi. Nếu họ kết án anh là kẻ tội lỗi bị phạt mù mà bây giờ anh đang sáng mắt thì họ phải nhận có phép lạ và Người chữa anh sáng mắt phải là Đấng có quyền tha tội. Nhưng thật trớ trêu! họ đã tự mâu thuẫn, họ vừa kết án anh là kẻ tội lỗi vừa không tin Đức Giêsu đã chữa anh mù được sáng.

Biệt phái tự coi mình là thầy, là kẻ lãnh đạo tôn giáo. Thời Alexandria (năm 76-67 trước Công nguyên), họ còn lãnh đạo cả đời nữa. Ở địa vị đó họ không chịu thua ý kiến của kẻ mù hèn hạ. Tuy nhiên, ở trường hợp này rõ ràng anh mù lại sáng, còn họ lại trở nên mù, anh đã vạch rõ cái mù của họ: “Kể cũng lạ, các ông không biết ông ấy ở đâu đến, thế mà ông ấy lại là người mở mắt cho tôi!... Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ấy chẳng làm được gì” (Ga. 9, 30-33)

Thế mới rõ kẻ tự phụ mình sáng, mình có quyền, rất khó thấy lẽ phải. Kẻ đơn sơ chân thành khiêm tốn lại được mặc khải ánh sáng: “Tôi đến thế gian này để xét xử: cho người không xem thấy, được thấy, và kẻ tự phụ xem thấy lại hóa đui mù”. Nghe thế họ đã vênh vang cự lại “thế cả chúng tôi cũng đui mù sao?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui, các ông chẳng có tội, nhưng các ông tự phụ: chúng tôi thấy, nên tội các ông còn đó”.

Nhiều lần Đức Kitô đã cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã không mặc khải cho bậc khôn ngoan thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25-26). Đúng như thánh Phaolô giảng: “Thiên Chúa đã dùng sự thấp hèn để làm hạng khôn ngoan bị nhục nhã, đã dùng sự bất lực để làm kẻ kiêu hùng ra hèn hạ. Ngài đã chọn sự ti tiện, khinh bỉ, không không để phá hủi sự cao cả của thế gian để không ai dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1Cr. 1, 27-29).

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta tin theo Chúa là ánh sáng thế gian, đã ban ánh sáng cho con mắt thể xác cũng như tinh thần. Chúa ban ánh sáng thể xác cho con người tìm thấy nguồn tài nguyên phong phú như những đồng cỏ xanh tươi, những suối nước mát để bồi dưỡng cuộc sống hằng ngày (Tv. 22). Chúa ban ánh sáng tinh thần như soi sáng cho Samuel chọn Davit biết sống theo đường lối Chúa chỉ dậy để trở nên thánh vương cao cả dẫn dắt dân Chúa (Sm. 10, 1-13). Nhất là Chúa làm cho chúng ta nên con cái sự sáng nhờ phép Rửa tội như thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng... là lương thiện, công chính và chân thật” (Eph. 5, 8-9).

Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con nhận biết những tội lỗi con, để Chúa thương cứu con như anh mù, khi Chúa hỏi: “Con có tin Con Người không?” con biết mạnh dạn tuyên xưng: “Thưa Ngài, con tin”.

 

3. Người mù

Lạy Chúa, xin cho con được sáng.

Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?

Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.

Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.

Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.

 

4. Người mù

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.

Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.

Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.

Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.

Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.

Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?

 

5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Chúng ta vừa nghe Thánh sử Gioan tường thuật lại phép lạ Đức Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu thái độ của các nhân vật trong câu chuyện này.

1. Thái độ của Đức Giêsu:

Đức Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã làm rất nhiều phép lạ để chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền. Có những phép lạ xảy ra do sự thỉnh cầu của con người. Nhưng cũng có những phép lạ xảy ra do chính Ngài chủ động đến với con người như phép lạ chữa cho người mù hôm nay. Câu chuyện phép lạ bắt đầu bằng sự thắc mắc của các môn đệ: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" (Ga 9,2). Và Đức Giêsu cho biết: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh." (Ga 9,3). Giải thích xong thắc mắc của các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hành động để chữa lành cho anh mù. Tin mừng kể: “Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: ‘Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa.’ Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.” (Ga 9,6-7).

Như vậy, phép lạ đã xảy ra, anh mù đã sáng mắt. Nếu câu chuyện kết thúc ở đây thì đã khá hoàn hảo. Nhưng lòng thương xót của Đức Giêsu còn muốn đi xa hơn. Đó chỉ là phép lạ chữa lành con mắt phần xác. Đức Giêsu còn tiếp tục đồng hành với người mù, giúp người mù sáng cả con mắt đức tin. Như vậy, Đức Giêsu đã thực hiện nơi người mù hai phép lạ cùng một thời điểm: Phép lạ sáng con mắt thể lý và phép lạ sáng con mắt đức tin.

2. Thái độ của người mù:

Bệnh mù lòa có thể do bẩm sinh, có thể do tai nạn hay một nguyên nhân nào đó. Người bị mù thì không thấy ánh sáng, không được nhìn ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp của người thân, không thấy đường đi, không thấy công việc để làm, giảm thiểu hạnh phúc của cuộc đời…Nên họ bị thiệt thòi về nhiều mặt. Ước mong lớn nhất của người mù là được sáng đôi mắt.

Người mù trong câu chuyện Tin mừng hôm nay đã mù từ thuở mới sinh. Chắc chắn anh ta ngày đêm mong muốn được sáng đôi mắt. Lòng mong muốn đó được đáp ứng khi anh gặp được Đức Giêsu. Hay nói đúng hơn là được Đức Giêsu gặp anh. Qua câu chuyện cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với anh. Ngài hành động và mời gọi anh làm theo ý của Ngài. Ngài nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt anh và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa". Đó là một lời mời gọi của đức tin. Tin mừng cho biết: “Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.”

“Ra đi và rửa rồi trở lại.” Đây là thái độ của sự vâng phục trong niềm tin. Nhờ thế mà anh được sáng con mắt. Sau đó, anh đã công khai làm chứng về Đức Giêsu: “Ngài là một tiên tri”(x. Ga 9,17); "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã lấy bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy;”(Ga 9,25).

Khi những người biệt phái cho rằng Đức Giêsu "không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat," thậm chí họ kết án “Đức Giêsu là một kẻ tội lỗi" thì người mù còn khẳng định rằng: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” (Ga 9,25). Rồi anh tiếp tục làm chứng: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (Ga 9,31). Lời khẳng định đó đưa đến kết luận: Đức Giêsu là “người bởi Thiên Chúa mà đến” (Ga 9,33).

Đức tin của người mù còn thể hiện một cách mạnh mẽ ngay cả khi anh bị cha mẹ bỏ rơi. Sau này gặp lại Đức Giêsu, anh còn xác tín rằng: “‘Thưa Ngài, tôi tin.’ Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,38).

Tấm gương của người mù đáng cho mỗi người chúng ta học tập: Một đức tin vững mạnh, một đức tin can đảm trước những nghịch cảnh của cuộc sống.

3. Thái độ của những người Biệt phái:

Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù, những người Biệt phái đã mở một cuộc điều tra nhằm lên án Đức Giêsu, phủ nhận phép lạ Ngài vừa làm. Đây là một thái độ kiêu căng, thể hiện một sự ghen tương không muốn chấp nhận sự thật, không nhìn thấy quyền năng của Thiên Chúa đang thể hiện trước mắt họ. Thậm chí, vì cái nhìn mù quáng nên họ còn muốn kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Họ ghét Đức Giêsu nên họ ghét luôn cả những người có liên hệ, cụ thể là họ ghét luôn cả người mù. Người mù đã trở thành nạn nhân của họ (x. Ga 9,34). Vì thế, họ tìm cách gây áp lực và làm khó dễ cho anh ta. Họ sáng con mắt phần xác nhưng lại mù quáng con mắt thiêng liêng. Mặc dầu vậy, họ còn tự hào là mình rằng “chúng tôi thấy.” Chính vì thế, lời quả quyết của Đức Giêsu thể hiện đúng bản chất của họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘chúng tôi thấy,’ nên tội các ông vẫn còn đó” (Ga 9,41)

Trong cuộc sống hôm nay cũng có nhiều người giống như những người biệt phái này. Họ không làm việc lành, trái lại có ai đó làm việc lành thì họ lại ngăn cản hoặc tìm cách bóp méo sự thật, thậm chí còn bỏ vạ, cáo gian, kết án người vô tội.

4. Thái độ của cha mẹ người mù:

Trước sự rắc rối mà chính con mình gặp phải đáng lý ra hai ông bà phải đứng ra bệnh vực cho con. Đằng này, hai ông bà lại lẫn trốn trách nhiệm không dám nói lên sự thật mà còn đùn đẩy cho con: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”(Ga 9,23). Chính Tin mừng đã cho chúng ta biết lý do vì sao cha mẹ anh ta lại nói như thế: “Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô.”(Ga 9,22). Đây là một thái độ cầu an nên thiếu trách nhiệm với con mình.

Trong cuộc sống hôm nay, cũng có rất nhiều người sống thiếu trách nhiệm không chỉ đối với con cái mà còn đối với Giáo hội và xã hội. Nhiều người cha người mẹ không dám nhận con cái mình vì sợ phải nuôi nấng chăm nom, vì thế chúng ta hiểu tại sao có nhiều người cha người mẹ đành bỏ rơi con cái, thậm chị giết hại con cái ngày từ trong lòng mẹ. Nhiều người con cái không dám nhận cha mẹ mình vì cha mẹ nghèo đói, bệnh tật. Nhiều người không dám đứng lên bênh vực cho công lý và sự thật vì sợ liên lụy đến mình và gia đình mình, sợ ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo.

Vì thế, cảnh bất công, người công chính bị trù dập, việc tốt việc lành bị bóp méo vẫn còn nhan nhãn trong xã hội chúng ta đang sống.

5. Thái độ sống của chúng ta hôm nay?

Suy niệm về thái độ của Đức Giêsu, của người mù, của những người biệt phái và của cha mẹ anh mù, chúng ta thử đối chiếu với thái độ sống của chúng ta như thế nào?

Có khi nào chúng ta sẵn sàng đến để giúp đỡ những người xấu số như Đức Giêsu đã giúp đỡ cho người mù không? Chúng ta có bênh vực cho những người gặp rắc rối trong đức tin như Đức Giêsu bênh vực cho người mù không?

Có khi nào chúng ta can đảm bênh vực cho Chúa, cho Giáo Hội và cho niềm tin của mình giữa thử thách gian nan như người mù không?

Có khi nào chúng ta kiêu ngạo, ghen tuông nên tìm cách từ chối sự thật, thậm chí còn bỏ vạ cho người tốt không?

Có khi nào chúng ta sợ liên lụy đến mình, gia đình mình hay thiệt thòi về của cải vật chất…nên thiếu trách nhiệm với những người thân yêu của chúng ta như cha mẹ của người mù không?

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì chúng con không bị mù con mắt thể lý. Nhưng xét mình lại có lẽ nhiều lúc chúng con vẫn bị mù về con mắt tinh thần. Xin Chúa giúp chúng con biết làm theo lời Chúa dạy để chúng con được luôn sáng con mắt đức tin, con mắt tinh thần. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ