Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 68

Tổng truy cập: 1444141

HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY

Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí. Viên đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng của quyển sách cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại nóng. Một nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều bên bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá nào là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại cùng một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy một năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ, bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá. Nhưng thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã để kho tàng tuột khỏi tay ông.

Có một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.

Hạnh phúc chính là viên ngọc quý, là gia tài mà bằng mọi giá mình phải đạt cho bằng được, mình phải bằng mọi cách để bảo vệ, để gìn giữ nó mãi trong cuộc đời của mình.

Nhưng kho tàng hạnh phúc đó ở đâu? Làm sao ta có thể đạt được nó? Có người cho rằng hạnh phúc chỉ có khi người ta có lắm của nhiều tiền. Có người cho rằng hạnh phúc ở trong công danh, sự nghiệp. Điều đó đúng không sai. Nhưng nếu chỉ vì tiền, vì tình, vì công danh sự nghiệp mình bán rẻ lương tâm, đánh mất phẩm giá làm người liệu rằng ta có hạnh phúc hay không? Nếu phải chọn lựa giũa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc vĩnh cửu ta sẽ chọn điều gì?

Có những người vì chỉ muốn có tiền nên gian tham, trộm cắp, lừa đảo. Họ có niềm vui khi có được đồng tiền bất chính nhưng liệu rằng niềm vui đó sẽ tồn tại bao lâu?

Có những người vì tình mà ăn ở bất chính, vụng trộm, chồng chung vợ chạ, liệu rằng có còn xứng đáng vói nhân phẩm của một con người hay không?

Có những người vì địa vị mà chà đạp, hạ bệ, vùi dập người khác liệu rằng họ có được một tâm hồn an bình hay đầy lo âu sợ hãi?

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải có một chọn lựa. Chọn lựa giữa cái vĩnh cửu và cái tạm thời. Chọn lựa trần gian mau qua hay nước trời vĩnh cửu. Chọn lựa một cách dứt khoát không nửa chừng. Vì thà mất một mắt, một tay, một chân mà vào nước trời còn hơn là nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục. Chọn lựa phải có sự đánh đổi. Đánh đổi cả gia tài, những gì mình có để mua lấy nước trời. Như trường hợp người thanh niên giầu có muốn có hạnh phúc, Chúa đã bảo anh: "Hãy bán hết của cải mà cho người nghèo, rồi đi theo tôi". Chọn lựa phải có sự thiệt hơn như Phêrô đã từng hỏi: "Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con sẽ được gì?". Chọn lựa phải có sự liều lĩnh, một ăn cả hai ngã về không. Đem bán hết gia tài để mua thuở ruộng, để mua viên ngọc. Tóm lại, nếu phải đánh đổi vì hạnh phúc nước trời mà mình phải nghèo đói, mất công ăn việc làm, mất cả địa vị xã hội mình vẫn phải đánh đổi. Vì suy cho cùng tiền tài danh vọng chỉ là của đồng lần, nay người mai ta. Nó không dành riêng cho mình, và mình cũng không chiếm hữu nó trọn đời.

Thế nên, người Kitô hữu phải có sự khôn ngoan như Salômôn. Ông không xin cho giầu có hay có đủ tài năng để đánh bại quân thù. Ông xin sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa. Không phải là khôn ngoan thế gian. Khôn ngoan biết chọn lựa theo thánh ý Chúa. Khôn ngoan biết phân định đâu là thiện đâu là ác. Khôn ngoan để hành động theo đúng với luân thường đạo lý, đúng với lẽ phải, đúng với nhân phẩm một con người là "nhân linh hơn vạn vật". Một con người có lý trí, ý chí, tự do chứ không phải hành động theo bản năng và thiếu trách nhiệm về hành vi của mình.

Xin Chúa cho chúng ta sự khôn ngoan để chúng ta đi tìm Nước Trời. Vì Nước trời là một kho tàng quý giá, chúng ta phải bằng mọi cách để đổi lấy cho bằng được. Vì nước trời là viên ngọc quý, chúng ta phải trân trọng và bằng mọi giá gìn giữ và bảo vệ. Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chọn lựa gia tài vĩnh cửu Nước Trời hơn là những của cải trần gian mau qua. Vì "được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào được ích gì? Amen.

 

8. Đầu tư Nước Trời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống con người như đi vào cơn lốc của tiền tài và danh vọng. Con người thật vất vả cạnh tranh để dành giựt từng hạt gạo, từng miếng cơm. Xem ra điều mà con người quan tâm, chính là những nhu cầu của đời sống như: cơm, áo, gạo tiền, và những phương tiện phục vụ cho nhu cầu đời sống. Vì tất cả những điều đó mà con người dám làm mọi sự để có được những thứ ấy. Đây là điều không phải là tội hay có thể nói là rất chính đáng.

Là người chúng ta cũng rất cần những thứ ấy. Chúng ta cũng rất cần tìm cho mình những phương tiện thiết thực ấy. Thế nhưng, là người ky-tô hữu, chúng ta còn có một giá trị cao hơn những danh lợi thú ấy, chính là Nước Trời. Danh lợi thú rồi sẽ qua đi, nhưng Nước Trời thì tồn tại mãi mãi.

Hôm nay, Chúa Giê-su ví Nước Trời như một kho tàng, như viên ngọc quý, đến nỗi để đạt được, thì mọi hy sinh, mọi của cải, kể cả mạng sống, cũng phải đổi lấy cho bằng được viên ngọc Nước Trời.

Trên mạng Internet, người ta đang truyền nhau lời tâm sự của một bác sĩ trẻ bị ung thư. Anh đã viết trên dòng thời gian mình, những lời trần tình để lại cho bạn bè và đặc biệt, là cho giới trẻ. Đó là Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi. Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore. Anh đã phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.

Richard Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi đưa lên mạng, đã gây một xúc động rất lớn.

- “Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe. Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội đòi hỏi. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật và tôi đang trải qua.

Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi, khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được chọn lựa, tôi sẽ sống, là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất.”

Đây không chỉ là lối sống thực dụng của Richard Teo, mà dường như của hầu hết chúng ta. Con người đã quá vất vả lao vào cuộc cạnh tranh tiền tài, mà quên đi một giá trị cao cả hơn tiền tài, chính là sự sống đời đời. Con người đã đầu tư quá nhiều vào những thứ mau qua, mà bỏ qua cơ hội tích lũy gia tài trên trời.

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy can đảm thực hiện một cuộc chọn lựa. Chọn lựa cái vĩnh cửu hơn là những cái mau qua trần gian. Tựa như người nông dân khi ông tìm thấy kho tàng đã can đảm đánh đổi mọi gia sản của mình để chiếm lấy kho tàng dưới lòng đất. Hay như người buôn đá quý, ông đã nhìn thấy giá trị thực sự của viên ngọc đến nỗi ông đã bán đi tất cả để mua được viên ngọc ấy.

Người nông dân hay nhà buôn kia đã nhìn thấy mối lợi rất lớn nơi kho tàng và viên ngọc nên đã không ngần ngại đánh đổi tất cả để có được nó.

Chúa Giê-su cũng cũng ví Nước Trời là những kho tàng, hay viên ngọc rất quý. Chúa cũng bảo chúng ta bằng mọi giá phải chiếm cho được Nước Trời. Vì mọi sự rồi cũng qua đi. Công danh sự nghiệp cũng không kéo dài sự sống của chúng ta. Chúa bảo với chúng ta rằng Nước trời quý hơn và giá trị hơn bất cứ thứ gì chúng ta đang có hay có thể có trong cuộc sống, và Nước Trời sẽ ban cho chúng ta nhiều hơn bất cứ cái gì cuộc sống có thể mang lại cho chúng ta. Nước trời là phần rỗi, là sự sống đời đời của chúng ta, quý giá vô cùng, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm trước hết, tuyệt đối ưu tiên, sẵn sàng hy sinh tất cả để chiếm đoạt cho bằng được, dù phải hy sinh bao nhiêu cũng chưa đủ, chưa xong. Chỉ với một mảnh ruộng, một viên ngọc vật chất, mà người nông dân và nhà thương gia trong Tin Mừng đã bán tất cả gia tài để mua nó. Chúng ta có dám làm như thế đối với viên ngọc Nước Trời không?

Xin cho chúng ta nhận ra giá trị thực sự của Nước Trời là hạnh phúc vô biên để chúng ta can đảm chọn lựa Nước Trời, cho dù có phải hy sinh tiền tài, gia sản, nhưng chúng ta chiếm hữu được một kho tàng vô tận trên quê Trời. Amen.

 

9. Nước Trời như kho tàng - Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền

Có một nhân vật của dòng văn học dân gian mà dường như ai cũng nhớ tên, đó là "Thằng Bờm". Một nhân vật được dựng nên để châm chọc cho tính cách khờ khạo của một ai đó. Và thằng Bờm "khờ" như đến thế này là cùng:

Thằng Bờm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè

Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim

Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim

Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi

Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi

Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.

Có nhiều lối giải thích cho sự khờ khạo của thằng Bờm, nhưng có lẽ sự khờ khạo nằm ở chỗ thằng Bờm không so đo tính toán cao siêu mà chỉ cần no cái bụng là được rồi. Ba bò chín trâu hay ba bè gỗ lim cũng không giá trị so với nắm xôi vì nó giải quyết nhu cầu trước mắt.

Cái dại, cái khờ khạo của thằng Bờm là đã không chịu đáp ứng sự đổi chác quá chênh lệch của lão Phú ông. Phú ông đổi những cái có giá trị, thì Bờm cứ... "chẳng lấy". Đến khi Phú ông đổi nắm xôi, thì... Bờm cười. Cười là đồng ý, là thích chì, là thõa mãn...

Trong sự đổi chác này sẽ có một người dại, hoặc Phú ông, hoặc thằng Bờm. Nhưng chắc chắn có một người vui hơn khi biết cười và không thấy mình thua thiệt, đó là thằng Bờm. Đến đây, chợt nhớ câu thơ tự trào của Nguyễn Bỉnh Khiêm: "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn người đến chốn lao xao".

Người khôn luôn phải tìm kiếm, phải trao đổi cho dù phải ở chốn lao xao nhưng sẽ tìm được viên ngọc quý, tìm được cái mình yêu, mình thích. Để chiếm hữu nó cho dù có phải bán hết gia tài vẫn cảm thấy thích thú vì mình được cái mình vừa ý và toại nguyện. Cái đó có thể là nắm xôi hay cái quạt mo là tùy mỗi người mỗi sở thích khác nhau.

Nước trời được Chúa Giê-su sánh ví như kho tàng được chôn giấu trong thuở ruộng. Có người đã chiếm hữu nhưng lại chôn dấu đi. Ngược lại, người thương gia đã nhận ra giá trị cao siêu nên bán hết tài sản của mình để chiếm cho được kho tàng ấy.

Nhân loại ngày hôm qua và hôm nay vẫn thế! Có người vì danh lợi thú mà họ cất giấu niềm tin của mình để lao theo con đường danh vọng, nhưng cũng không ít người khám phá viên ngọc quý là Nước trời để rồi bỏ lại tất cả sự giầu sang, quyền quý để đi theo Chúa.

Thánh Phanxico Xavie là một điển hình. Sinh trưởng trong một gia đình giầu có, quyền thế. Bản thân lại học giỏi tài cao. Đường công danh sáng lạn. Thế nhưng ngài đã bị đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?” để từ đó cuộc đời Ngài chỉ còn tìm kiếm và phụng sự cho tin mừng Nước Trời.

Thánh Augustino sau những ngày tháng ngụp lặn trong thú vui thế gian và xác thịt, Ngài đã cảm nghiệm sâu xa về hạnh phúc Nước Trời mới là vĩnh cửu còn thế gian là tạm bợ. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối: “lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng” để rồi từ đó Ngài ngụp lặn trong đại dương bao la tình Chúa.

Xin cho chúng ta cũng biết khôn ngoan chọn lựa giá trị vĩnh cửu là Nước trời hơn là những danh lợi thú mau qua. Xin đừng vì những nhu cầu xác thịt mà chôn dấu kho tàng Nước Trời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhận ra Chúa chính là gia nghiệp, là lẽ sống, là phần phúc để biết dùng hết khả năng, trí tuệ hầu đạt được hạnh phúc Nước trời mai sau. Amen.

 

10. Thiên Chúa vẫn đang tác động nơi lòng người

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Có nhiều người sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, nhưng thật sự Thiên Chúa vẫn đang tác động nơi lòng mỗi người mỗi ngày. Mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương và dạy dỗ từng giây phút trong cuộc sống.

1. Thiên Chúa lắng nghe con người cầu nguyện

Bài đọc trong sách các Vua quyển thứ nhất hôm nay cho thấy vua Salômôn cầu nguyện, và đã được Thiên Chúa nhận lời. Salômôn đã không xin sống lâu, không xin vàng bạc châu báu, nhưng xin cho được sự khôn ngoan để xét xử dân Ngài.

Đức Yêsu nói: “hãy xin thì sẽ được, tìm thì gặp, gõ cửa thì được mở cho.“ “Nếu người phàm còn biết cho con cái mình những điều tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa không khứng ban Thánh Thần cho những kẻ cầu xin với Ngài sao!” Qua Đức Yêsu người ta nhận biết, Thiên Chúa luôn ban cho những người cầu xin với Ngài điều quý hơn cả điều người ta cầu xin nữa, đó là Thánh Thần Thiên Chúa.

Thiên Chúa không chỉ là Thiên Chúa của người Do Thái, của Kitô-hữu, của người Công Giáo, nhưng còn là Thiên Chúa của cả những người không nhận biết Ngài nữa. Thiên Chúa như người Cha tốt lành, sẵn sàng cho con cái những điều tốt lành người con ao ước cả khi người con chưa xin hoặc không xin nữa; và điều này rất đúng đối với những người ngoại chưa biết Ngài là Cha để cầu xin.

2. Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ

Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma dạy rằng, tất cả đều tốt cho những người yêu mến Thiên Chúa. “Với những kẻ Ngài biết trước, Ngài tiền định cho họ được đồng hình đồng dạng với Con Ngài. Với những kẻ Ngài tiền định, thì Ngài kêu gọi họ, công chính hóa, và rồi tôn vinh họ.” Có một số người cho rằng, những ai Thiên Chúa đã tiền định được cứu độ, thì thế nào cũng được cứu độ nên không cần phải làm gì cả; còn với ai bị tiền định để sa hoả ngục, thì đàng nào cũng sa hoả ngục, có cố gắng đến đâu cũng vậy thôi.

Thật sự, chữ tiền định ở đây không có nghĩa Thiên Chúa định trước ai phải sa hoả ngục hoặc ai được lên thiên đàng, nhưng là “Thiên Chúa biết trước.” “Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa tạo dựng mỗi người và Ngài đã không hỏi ý kiến họ vì lúc đó họ chưa hiện hữu, nhưng Thiên Chúa “không thể” cứu độ ai nếu người đó không đồng ý. Sống ngay lành hay gian ác, được cứu độ hay không, có sống hạnh phúc từng ngày hay không, tùy thuộc mỗi người quyết định.

Thiên Chúa vẫn nói với con người, ngay nơi lương tâm mỗi người. Mỗi người được mời gọi để làm điều tốt lành và tránh điều gian ác qua lương tâm mình, và ai cũng phải vâng lời lương tâm, dù người đó là Kitô-hữu hay không. “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1Ga.4, 8.16). Yêu thương tha nhân là dấu chỉ để biết một người có là môn đệ của Đức Yêsu, có là con cái của Thiên Chúa hay không. Nếu một người không nhận biết Thiên Chúa bằng tuyên xưng ngoài miệng hay qua việc thuộc về một tôn giáo, mà họ sống yêu thương thì họ đã là con cái Thiên Chúa cho dù họ không nhận biết điều đó. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi họ, cho dù họ không nhận biết Ngài. Mỗi người trước khi trở lại và theo đạo, cũng được Thiên Chúa hiện diện và tác động cho dù lúc đó họ chưa được rửa tội.

3. Nước Trời giống như một kho tàng

Nước Trời giống như một kho tàng, giống như người lái buôn đi tìm ngọc qúy, tìm được thì đem bán tất cả những gì mình có để mua được; Nước Trời cũng giống như một cái lưới thả xuống biển bắt được nhiều loại cá… Như vậy, Nước Trời là cái gì rất qúy mà người ta phải ao ước, phải tìm kiếm, phải đánh đổi để được nó.

Phúc cho những kẻ nghèo, vì Nước Trời là của họ. Mỗi một nước, một quốc gia đều có cư dân, đều có một ranh giới, một luật lệ, một chính quyền. Nước Trời là vương quốc có luật lệ là tình yêu, Thiên Chúa là thủ lãnh tối cao, và cư dân là những người tôn thờ Thiên Chúa và sống trong tương quan tình yêu với tha nhân. Nước Trời cũng được hiểu như một trạng thái sống hạnh phúc mà mọi người phải ao ước. Nước Trời gồm những người chọn Thiên Chúa trên tất cả, và đối xử với người khác trong yêu thương.

Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, qua Thánh Thần của Đức Yêsu, nơi những con người đang sống. Nếu mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để Lời Chúa là tiêu chuẩn sống của mình, thì họ sẽ cố gắng sống yêu thương, và như vậy Thiên Chúa là chủ đời họ, và họ sống hạnh phúc. Để được như vậy, họ cũng phải hy sinh, và gần như phải đánh đổi tất cả để được Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, để làm mỗi người thuộc về Nước Trời, thuộc về Vương Quốc của Ngài, thuộc về Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn có tin rằng Thiên Chúa luôn để ý đến bạn, và luôn tác động nơi lòng bạn không? Bạn được gì và mất gì khi xác tín điều này?

2. Bạn thường cầu xin điều gì nhất? Điều đó có thật sự quan trọng không? Bạn có được nhậm lời không? Thái độ của bạn sau đó thế nào?

3. Bạn có tin rằng nếu bạn sống “yêu thương” mọi người, bạn sẽ được yêu thương và qúy trọng không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.

 

11. Viên ngọc quý

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)

Chuyện kể rằng có một thầy khổ tu vào rừng để hành xác, mong được lên cõi thiên đàng. Ngày ngày có một cô gái nhân đức tới để cung cấp trái cây và nước suối cho thầy.

Nhiều năm trôi qua, đã đến lúc thầy phải rời bỏ khu rừng vào hang núi sâu, hoàn thành cuộc hành xác khắc nghiệt. Người con gái chặt củi nước mắt lưng tròng van xin:

- Tại sao thầy không cho con được diễm phúc hầu hạ thầy?

Và thầy tu đã ngồi lại, ở nguyên chỗ cũ.

Thầy ngồi một mình, tháng này qua năm nọ, cho đến khi cuộc hành xác hoàn thành. Vị chúa tể của những con người bất tử xuống báo cho thầy biết rằng thầy đã được lên cõi thiên đàng. Nhưng thầy tu nói:

- Đã lâu rồi tôi không cần thiên đàng nữa!

Vị chúa tể kia liền hỏi:

- Vậy thầy muốn được phần thưởng nào quí giá hơn thiên đàng?

Thầy tu chắp tay nhắm mắt điềm nhiên trả lời:

- Tôi muốn được cô gái chặt củi?

***

“Nước Trời giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,45-46). Người thương gia rất am tường về ngọc, ông biết rõ viên ngọc quý này là vô giá, mà người bán không hề biết, nên ông đã đánh đổi cả gia tài của mình để mua viên ngọc ấy, vì tất cả những gì ông có so với viên ngọc quý ấy cũng chẳng là gì, chẳng đáng giá chi.

Nước Trời đáng quí, đáng trọng, đáng mơ ước là thế, vậy mà thày tu trong câu chuyện trên đây lại bỏ thiên đàng để ở lại với cô gái chặt củi. Viên ngọc quý của ông sau bao nhiêu năm hành xác mới có được lại không phải là thiên đàng vĩnh cửu, mà là một xác phàm hay chết, một thụ tạo nay còn mãi đã biến tan. Thật là ngu lắm thay, dại khờ lắm thay!

Chợt nghĩ lại, đâu chỉ mình thày tu này dại khờ, ngu ngơ! Đâu chỉ mình ông mới “Bỏ hình bắt bóng”.

Những kẻ xem danh vọng, chức quyền là viên ngọc quý, cả đời săn lùng tìm kiếm cho đến hao tâm tổn sức, để rồi nó vỡ tan như bong bóng xà phòng, lại không dại khờ lắm sao?

Những kẻ coi tiền bạc, của cải là kho báu duy nhất trên đời, để bôn ba vất vả thu tích cho thật nhiều mà chẳng nghĩ đến ai, và khi nhắm mắt xuôi tay cũng chẳng mang được một xu về bên kia thế giới, lại chẳng dại khờ lắm sao?

Những kẻ đam mê khoái lạc, ăn chơi cho thỏa thích, họ xem thế gian này là kho báu, là viên ngọc quý, phải thụ hưởng tối đa cho thỏa mãn, cho tràn trề, để rồi khi kết thúc cuộc đời ngắn ngủi, sẽ phải khóc lóc nghiến răng muôn kiếp, lại không phải là kẻ dại khờ lắm sao?

Hãy bỏ đi những chiếc phao thủng mà một lúc nào đó, giữa biển đời lênh đênh chúng ta đã bám víu như một vật cứu sinh an toàn.

Chỉ có những ai sáng suốt nhận ra Đức Giêsu chính là viên ngọc quý, lấp lánh ngời sáng như sao mai trên bầu trời, mới dám bán đi những viên ngọc giả là của cải, danh vọng và khoái lạc trần gian, mà mua lấy mối tình thâm sâu với Người trong cõi đời đời.

Chỉ có những ai xác tín rằng Nước Trời chính là kho báu vô giá, tồn tại đến miên trường, mới “vui mừng bán đi tất cả” những kho tàng phù vân đời này, mà mua lấy kho báu bất diệt trên nơi vĩnh phúc.

Đức Giêsu nói với người thanh niên giàu có: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Nếu Đức Giêsu là viên ngọc quý, là hiện thân của nước Trời, thì người tín hữu phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất mát tất cả, phải từ bỏ mọi sự để được sống với Người, để chọn Người làm lẽ sống, và để được Người, là được tất cả.

Đó là cái nghịch lý chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng: mất đi để được lại, cho đi để được nhận lãnh, chết đi để được sống mãi.

Baeteman có viết: “Cái đáng giá, không luôn là cái chúng ta hiến dâng cho chúa, nhưng luôn là cái gì chúng ta nhân danh Người mà từ chối”.

***

Lạy Chúa, nếu có lần nào chúng con cảm nghiệm được hạnh phúc giả tạo mau qua của kho tàng dưới đất, thì xin cho chúng con một chút ngất ngây hạnh phúc của kho báu trên trời.

Xin dạy chúng con biết luôn chọn chúa là gia nghiệp, là cùng đích và là lẽ sống của cuộc đời chúng con. Amen.

 

12. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ đề: Thiên Chúa luôn ban những sự tốt lành cho chúng ta

"Nước Trời giống như kho báu giấu trong ruộng" (Mt 13,44)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không ý thức điều đó, cho nên nhiều khi chúng ta bi quan chán nản, và mặt khác chúng ta không đáp lại tấm lòng của Chúa.

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến những ơn lành Chúa đã ban, và khơi lên trong lòng mình những tâm tình cảm mến và biết ơn Ngài.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta ít suy gẫm về tình thương của Chúa đối với chúng ta.

Chúng ta ít biết ơn Chúa mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn từ bàn tay rộng rãi của Ngài.

Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (1V 3,5.7-12)

Salomon lên ngôi vua kế vị Ðavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của ông là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa.

2. Ðáp ca (Tv 118)

Thánh vịnh này cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Ngài. Tác giả rất đề cao Luật Chúa:

Luật pháp Chúa quý hơn vàng bạc châu báu

Luật pháp Chúa là nguồn vui sướng

Luật pháp Chúa là phần gia nghiệp

3. Tin Mừng (Mt 13,44-52)

Ðoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn:

Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy.

Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua): Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa: kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.

4. Bài đọc II (Rm 8,28-30)

Thánh Phaolô nói đến tình thương Thiên Chúa đối với kẻ mến yêu Ngài:

Ngài giúp họ được sự lành

Ngài kêu gọi họ nên thánh

Ngài tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con của Ngài.

Ngài kêu gọi họ và sẽ ban cho họ được vinh quang.

IV. Gợi ý giảng

1. Thương thì cho

Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.

Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển. Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu, nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.

Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình.

Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho.

Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất, có ích cho chúng ta nhất. Ðó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.

2. Ơn khôn ngoan

Bài đọc 1 khiến chúng ta nhớ lại những chuyện về những lời ước: một vị thần tiên cho hai vợ chồng nghèo 3 điều ước. Chồng ước một thứ, vợ ước một thứ ngược lại, cuối cùng họ đã sử dụng hết 3 điều ước nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.

Chuyện vua Salomon cũng thuộc loại đó, nhưng ý nghĩa lại rất khác. Vua Salomon xem ra "dại" nhưng thực ra là quá "khôn". Chúa đã bảo ông: "Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Ông dại quá, không xin giàu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh... mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên thực ra ông quá khôn, bởi vì khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh... và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.

Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.

Khôn ngoan là gì? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: "Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan"

Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:

Nhiều người ham tiền. Ðối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này... Vậy, người suốt đời lo kiến tiền và chạy theo tiền là người dại.

Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi Danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng... Cho nên hám danh cũng là dại.

Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.

Một câu chuyện: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.

Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích "Phúc")

3. Bỏ để được

Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.

Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Ðương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.

Qua bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc của cái mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.

Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?

4. Chuyện minh họa

a/ Tìm lại được kho báu của mình

Một viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng, vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.

Thế rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình, những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp đều biến đâu mất hết.

Biến cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.

b/ Kho tàng chôn dưới đất

Một anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu. Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.

Vị chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại: Tôi cũng vừa có một giấc mơ, trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.

Nghe xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở đó có một kho vàng.

Lời bàn: Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim người đó.

c/ Kho tàng bị quên lãng

Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng. Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.

Về sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Ðó chính là bức tranh nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.

Lời bàn: Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Ðừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.

V. Lời nguyện cho mọi người

CT: Anh chị em thân mến

Nước Trời quả là một kho tàng vô giá, một viên ngọc quý báu mà bất cứ người khôn ngoan nào cũng đều nhất quyết chiếm cho bằng được. Với ước mong chiếm hữu được Nước Trời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.

1. Chúa đã trao phó cho Ðức Thánh Cha nhiệm vụ săn sóc Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Người được lòng tin mạnh mẽ / lòng trông cậy vững vàng / và lòng yêu mến thiết tha.

2. Xưa Chúa đã lưu lạc nơi đất khách quê người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa an ủi đỡ nâng / những kẻ đang phải sống xa gia đình / xa quê hương yêu dấu của mình.

3. Giáo lý của Chúa thật quý báu và cần thiết biết bao / cho đời sống đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chuyên cần học hỏi giáo lý của Chúa / để nhờ đó mà hiểu biết yêu mến Chúa nhiều hơn.

4. Muốn được vào Nước Trời / người tín hữu phải từ bỏ những gì không phù hợp với lề luật Chúa / chấp nhận hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chọn con đường hẹp là con đường dẫn đến cõi trường sinh.

CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con được phúc làm con Chúa, được Hội Thánh là mẹ chăm sóc, được Tin Mừng Chúa hướng dẫn trong cuộc sống thường ngày. Xin cho cuộc đời chúng con là một lời cảm tạ Chúa không ngừng. Chúng con cầu xin nhờ...

VI. Trong Thánh Lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hứa "Hãy xin thì sẽ được". Ngài còn dạy chúng ta những điều tốt nhất cần phải xin trong Kinh Lạy Cha. Trong tâm tình con thảo, chúng ta hãy sốt sắng xin những điều ấy trong lời kinh sau đây.

VII. Giải tán

Chúng ta sung sướng biết mình đang sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chớ gì tâm tình này luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta suốt cả tuần này.

 

13. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông

Từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài.

Chúng ta có thể dựa vào lời khẩn nguyện tuyệt vời của vua Sa-lô-môn để đưa ra chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay: xin ban cho con “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để nhận ra rằng ngay từ thuở đời đời, vì yêu thương Thiên Chúa tiền định cho con nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài. Đó là giá trị khôn sánh mà mỗi người Kitô hữu phải đạt cho bằng được.

1V 3: 5, 7-12

Để có đủ sức cai trị dân Thiên Chúa, vua Sa-lô-mon khẩn cầu Thiên Chúa cho ông có được “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái”.

Rm 8: 28-30

Trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu biết rằng Thiên Chúa tiền định cho họ trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài và làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho những ai yêu mến Ngài.

Mt 13: 44-52

Trong Tin Mừng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta biết nhận ra giá trị khôn sánh của Nước Trời và sẵn sàng hy sinh mọi sự để sở hữu cho bằng được Nước Trời.

BÀI ĐỌC I 1V 3: 5, 7-12

Vào năm 970 trước Công Nguyên, vua Sa-lô-mon lên ngôi kế vị cha mình là vua Đa-vít. Lúc đó, ông chỉ là “một thanh niên bé nhỏ”, như chính ông thân thưa với Chúa về mình trong lời cầu nguyện của ông. Theo sử gia Giô-sê-phút, khi lên ngôi, vua Sa-lô-mon ở độ tuổi mười bốn; còn theo truyền thống kinh thánh, vua ở độ tuổi mười hai.

1. Giấc mộng của vua Sa-lô-mon:

Vua đến thánh địa Ghíp-ôn, cách Giê-ru-sa-lem khoảng chín cây số về hướng tây-bắc, để tế lễ Thiên Chúa, vì lúc đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem chưa được xây dựng, vì thế đây là nơi cao trọng nhất. Đêm sau đó, vua có một giấc mộng.

Giấc mộng đóng một vai trò quan trọng tại các dân tộc thời xưa. Các Pha-ra-ô Ai-cập và các vua miền Lưỡng Hà Địa đều có bên cạnh mình những nhà giải điềm mộng báo. Ở Hy-lạp, các tín đồ ngủ trong các đền thánh với hy vọng là mình nhận được một sứ điệp từ thần linh trong khi ngủ. Dân Ít-ra-en chắc hẳn cũng đã biết những mặc khải thần linh được truyền đạt trong những giấc mơ. Chúng ta đọc thấy nhiều ví dụ như vậy trong thời các tổ phụ như tổ phục Gia-cóp hay nhất là tổ phụ Giu-se. Thật đáng cho chúng ta ghi nhận rằng cách thức mặc khải này rất hiếm trong thời kỳ trào lưu ngôn sứ và chỉ tái xuất hiện trong các sách khải huyền vào những thế kỷ muộn thời hơn.

2. Lời khẩn nguyện của vua Sa-lô-mon:

Sa-lô-mon bày tỏ một sự khôn ngoan trước tuổi. Vua không cầu xin cho mình được trường thọ, được giàu sang hay được quyền lực, nhưng “một tâm hồn biết lắng nghe” và “biết biệt phân phải trái” để vua có đủ sức cai trị dân Ngài, “một dân đông đúc, không kể xiết, cũng không đếm nổi”.

Như người cày thuê gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia bất ngờ tìm được ngọc quý trong Tin Mừng hôm nay, vị vua trẻ biết nhận ra đâu là những giá trị đích thật. Đức Chúa đã nhận lời cầu xin của vua, vì thế, vua đã cai trị dân Ngài một cách khôn ngoan (ít ra trong giai đoạn đầu của triều đại mình). Trong giấc mộng, nếu vua không xin sự giàu sang phú quý, hay quyền lực, tuy nhiên, Thiên Chúa cũng ban cho vua những điều đó.

3. Tính chất thần học của chuyện tích:

Chuyện tích không có tính chất lịch sử theo nghĩa nhặt. Quả vậy, các nhà biên soạn hai sách Các Vua đã tra cứu những tài liệu và đã thu thập những truyền thống miệng, suốt thời gian làm việc nghiêm túc; nhưng nỗi bận lòng hàng đầu của họ là vấn đề thần học. Vì thế, chuyện tích về giấc mộng của vua Sa-lô-mon cho thấy hai khía cạnh quan trọng.

Trước tiên, chuyện tích này nhấn mạnh tính chất đặc biệt của vương quyền Ít-ra-en. Vương quyền này thuộc trật tự “ân sủng”. Chúng ta biết rằng dân Thiên Chúa đã từ lâu không muốn tôn một người trần thế lên làm vua của mình. Đối với họ, chỉ duy một mình Đức Chúa là vua của họ. Tuy nhiên, vì những hoàn cảnh đã dẫn họ đến thể chế quân chủ; nhưng để thể chế quân chủ này được tín nhiệm, điều quan trọng là vị quân vương phải nhận ra mình chỉ là người trung gian giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Chúng ta nên lưu ý rằng trong lời khẩn nguyện của mình, vua Sa-lô-mon không nói “dân của tôi”, nhưng “dân của Ngài”. Về vấn đề này, giấc mộng ở Ghíp-ôn đáp ứng mọi thỏa mãn và mặc lấy tinh cách của việc Thiên Chúa trao quyền.

Thứ nữa, tước vị con vua Đa-vít cao quý được ban tặng cho vua Sa-lô-mon cũng như triều đại vinh quang của vua hiển nhiên là lời đáp trả của Thiên Chúa, Đấng, ngay từ khởi đầu triều đại của vua này, cầm tay vị vua bé nhỏ để hướng dẫn vận mệnh của vua. Như vậy, khi đọc lại lịch sử này, người thuật chuyện có thể phát hiện ở đây là Lịch Sử Thánh.

BÀI ĐỌC II Rm 8: 28-30

Đoạn văn này là phần kết của chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma. Phần này được kết thúc với lời ca ngợi về tình yêu của Thiên Chúa. Đây là bản văn khó vì tự nguồn gốc nó là những suy luận thần học về tiền định.

1. Vấn đề:

Phải hiểu những lời này của thánh Phaolô: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Con của Người, để Đức Kitô làm trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc” như thế nào?

Trước tiên, chúng ta nên đặt đoạn văn này trở lại mạch văn của nó. Trong một cái nhìn khái quát, thánh Phaolô lấy lại sự phát triển của mình trên ơn công chính hóa nhờ đức tin và trên sự vinh quang của những người được tuyển chọn. Khởi điểm lập luận của thánh nhân là ý định rộng lớn của Thiên Chúa về nhân loại. Từ ngữ “ý định” (prothesis) luôn luôn được thánh Phaolô dùng theo nghĩa phổ quát chứ không hạn định. Một mặt, vị tông đồ nhấn mạnh Thiên Chúa gọi và con người được gọi. Đằng khác, về phía Thiên Chúa, Ngài “biết trước”, còn về phía con người, họ có “ơn gọi”; giữa Thiên Chúa và con người, có “sự tự do”. Cứu cánh của con người là ơn gọi, chứ không là tiền định. Không có bất kỳ chỗ nào dành cho việc tiền định phải chịu kết án cả.

2. Tình yêu của Thiên Chúa:

Đây là đề tài chủ đạo. Tiếng gọi của Thiên Chúa là tiếng gọi phát xuất từ tình yêu. Con người đáp trả tiếng gọi của Ngài, tức là “những ai yêu mến Người”, sẽ thấy rằng “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ơn ích cho họ”. Ơn ích hiển nhiên là ơn cứu độ chung cuộc, nhưng chắc chắn cũng là ơn ích tinh thần đối với thời hiện tại. Từ ngữ “mọi sự”, đối lập với “ơn ích”, chỉ những thăng trầm của thế giới, cũng như những gian nan thử thách mà mỗi người phải chịu. Khi hướng dẫn các biến cố, Thiên Chúa muốn cứu độ những ai yêu mến Ngài, đôi khi Ngài dùng những phương cách gây sửng sốt.

Ngay cả khái niệm yêu mến ở nơi những lời: “Những ai Người đã biết từ trước” luôn luôn có một âm vang của việc tuyển chọn phát xuất từ tình yêu. Sự kiện Thiên Chúa biết từ trước này không là một sự chọn lựa cho bằng cái nhìn của Thiên Chúa. Qua thời gian, Ngài phân định những ai đáp trả tiếng gọi của Ngài nhờ đức tin.

3. Nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài:

Một lần nữa, thánh Phaolô đặt sự lạc quan của mình rõ ràng trên chương thứ nhất của sách Sáng Thế. Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài; người Kitô hữu, trở nên con cái của Ngài, được ân sủng nhào nắn, được tiền định trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, cũng như Chúa Con đồng hình đồng dạng với Chúa Cha. Khi hiệp nhất với Đức Kitô, con người được “phục hồi hình ảnh và họa ảnh nguyên thủy” của mình.

Tiếp đó, thánh Phaolô trở về khởi điểm của mình (kỹ thuật văn chương bao hàm). Thánh nhân vạch lại những giai đoạn cứu độ: tiếng gọi của Thiên Chúa, câu trả lời của con người nhờ đức tin, ơn công chính hóa và vinh quang. Chúng ta lưu ý rằng thánh Phaolô đặt vinh quang tương lai ở thì quá khứ: “Người đã cho hưởng vinh quang” để diễn tả một điều chắc chắn. Về việc dùng thì quá khứ để diễn tả điều chắc chắn trong tương lai này, chúng ta gặp thấy một ví dụ khác trong Tin Mừng Mác-cô về việc cầu nguyện, ở đó Đức Giêsu nói: “Tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11: 24).

Vì thế, theo thánh Phaolô, nếu có tiền định, thì không gì khác hơn là Thiên Chúa yêu mến chúng ta từ muôn thuở. Niềm hy vọng này đem lại cung giọng đầy lạc quan cho toàn bộ chương 8 này: ý định của Thiên Chúa chính là hướng dẫn con người đến vinh quang, đó là cho Con của Ngài trở nên “trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc”.

TIN MỪNG Mt 13: 44-52

Vào Chúa Nhật này, chúng ta hoàn tất bài diễn từ dài về các dụ ngôn của Đức Giêsu.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại ba dụ ngôn mới: dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý rất gần giống nhau, còn dụ ngôn chiếc lưới rất gần với dụ ngôn người gieo giống và dụ ngôn cỏ lùng.

1. Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý:

Hai dụ ngôn này được biệt phân rất rõ nét với các dụ ngôn trước đó. Các dụ ngôn trước liên quan đến việc loan báo Nước Trời và sự phát triển thần kỳ của nó. Các dụ ngôn đó chủ yếu là thể văn “miêu tả”. Còn Dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý là những “lời khuyến dụ” được gởi đến cho từng cá nhân, mang tính khẩn trương và quyết liệt, nhằm biến đổi đời sống. Nếu chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào vương quốc của Ngài và Đức Giêsu là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến đó, lúc đó việc chúng ta kết hiệp với Đức Kitô là ngay tức khắc, không thể nào chần chừ được nữa. Vì thế, việc chúng ta từ bỏ mọi sự cho điều cốt yếu duy nhất này, là chuyện dể hiểu. Với sự hiện diện của Đức Kitô, Nước Trời có mặt ở đây rồi. Kho báu hay ngọc quý này ở trong tầm tay của chúng ta. Việc từ bỏ mọi sự để sở hữu cho được kho báu hay ngọc quý này là niềm vui lớn lao, niềm vui của sự tự do vì được giải thoát khỏi những điều bất tất.

2. Dụ ngôn chiếc lưới:

Dụ ngôn chiếc lưới mô tả rất thực nghề đánh cá. Đây cũng là là dịp, là cơ hội để các môn đệ sống lại những kỷ niệm xưa kia của mình khi họ còn là những ngư phủ trên biển hồ Ga-li-lê. Dụ ngôn này lập lại những chủ đề của dụ ngôn cỏ lùng. Ngư phủ thả chiếc lưới xuống biển, như người nông dân gieo những hạt giống trên cánh đồng. Lưới dần dần đầy cá, nhưng phải đợi mẽ cá hoàn tất để chọn lựa cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vất đi. Cũng như người gieo giống chờ đợi mùa gặt để thu những hạt lúa tốt vào kho lẫm, còn cỏ lùng thì nhổ, bó thành bó mà đốt đi. Các Tông Đồ đã là những ngư phủ lưới người – và Giáo Hội nối tiếp bước chân của các ngài. Giáo Hội phải biết kiên nhẫn. Trong phần kết của dụ ngôn này, số phận dành bọn ác nhân được diễn tả theo cùng những ngôn từ như trong phần kết dụ ngôn cỏ lùng.

Để kết luận, thánh Mátthêu gợi lên một kinh sư trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Vì có được một kiến thức Kinh Thánh rất phong phú, người kinh sư biết giá trị của những thiện hảo mà Luật Mới đem đến. Lý tưởng này biểu thị rất rõ nét lý tưởng của Tin Mừng Mátthêu đến mức chúng ta có thể nhận ra ở đây chữ ký kín đáo của thánh nhân.

 

14. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Khi người ta nghe vùng nào có vàng, ngưới ta tấp nập tới tìm vàng, bất chấp mọi sự, liều cả mạng sống. Chúng tôi đã thấy những người đi tìm vàng ở Kampuchia, trong rừng sâu. Họ trở về mang theo cơn sốt rét rừng và sau đó họ chết. Nhưng người nầy chết, người khác tiếp tục.

Con người là thế.

Nghe ở đâu có nguồn lợi là đổ xô đi tìm, tranh nhau giành giựt, nhiều khi đánh nhau đổ máu.

Tranh nhau để tìm một nguồn lợi vật chất, nhiều khi cũng chưa chắc là có, người ta cũng không nệ công khổ.

Chúa Giê-su loan báo cho chúng ta biết một kho tàng quí báu hơn, quí nhứt trên đời, và có thật, nhưng không mấy ai lưu ý: đó là Nước Trời.

Đa số người công giáo, tuy tin có thiên đàng, hỏa ngục, nhưng đó chỉ là những hình ảnh mờ nhạt, không tác động vào tư tưởng và cuộc sống. Đa số không sợ hỏa ngục cũng không ham thiên đàng. Chúng ta chỉ chú trọng đến những gì trước mắt, những gì thấy được, những gì có lợi hôm nay mà quên rằng thế giới vật chất này sẽ qua đi, tan biến thành tro bụi. Những trận động đất tàn phá cả một vùng rộng lớn, cũng không cho họ thấy được thế giới vật chất nầy chỉ là tro bụi.

Chúng ta quên rằng thế giới vô hình, dù không thấy được, không nắm được trong lòng bàn tay, vẫn vững chắc hơn thế giới vật chất. Chúng ta là người công giáo phải là chuyên viên của thế giới vô hình, thế giới thiêng liêng.

Chúng ta chưa khám phá được “kho tàng Nước Trời”. Chúa Giê-su nói rõ: “Người nào tìm được kho báu chôn trong thửa đất…”

Kho báu Nước Trời nầy được chôn giấu chứ không dễ tìm. Chúng ta biết có một kho báu đang được chôn giấu trong thửa đất nhân loại nầy. Chính Chúa Giê-su đến trong trần gian đã nói rõ như thế. Nhưng chúng ta có cố công đi tìm như người ta đi tìm vàng không? Và tìm như thế nào? Với tất cả cố gắng và khả năng, hay chỉ lơ là, mong chờ may mắn như chờ trúng số độc đắc thôi sao? Nếu như thế thì muôn đời chúng ta cũng không thể tìm được. Chỉ là mơ mộng thôi.

Kho báu, không phải là một cái gì vật chất mà là chính Chúa Giê-su, Chúa chúng ta.

Không có gì quí hơn Chúa chúng ta, vì Ngài là Tình Yêu, tình yêu hy sinh đến liều mạng, đến tận cùng.

Kho tàng tình yêu đó được dành cho chúng ta. Chúng ta hãy tìm kiếm kho tàng tuyệt vời ấy.

“Ai tìm sẽ gặp”. Chúa đã nói như thế.

Tìm ở đâu?

Nơi thửa đất Tin Mừng.

Chúa Giê-su là Lời, là Ngôi Lời Thiên Chúa. Tìm nơi lời giảng dạy của Ngài. Lời đây không phải là những chữ viết trên giấy, mà chính là những lời chứa đựng trong tiếng nói, hành động của Ngài, mang lấy tất cả tình yêu của Ngài. Ngài là Ngôi Lời nhập thể. Ngài là Lời vô hình đã trở thành xác thịt. Mỗi hành động của Ngài đều mang một ý nghĩa.

Sinh ra trong hang đá, nghèo hèn, bị bỏ rơi, phải chăng đó là một hoàn cảnh ngẫu nhiên? Đó là một lời nói không âm thanh nhưng hết sức rõ rệt.

Chết trên thập giá. Phải chăng chỉ là thất bại của một con người bị lên án tử hình vì đã tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, con người phạm thượng bị lên án?

Đó là tình yêu, là kho tàng tình yêu cho mọi thế hệ…

Hãy tìm và không thôi đi tìm. Chúng ta sẽ khám phá ra “sự phong phú khôn lường của Thiên Chúa.” Thánh Phao-lô đã chẳng nói; “Giữa anh em, tôi không muốn gì khác ngoài Chúa Giê-su Ki-tô, và là Chúa Ki-tô chịu đóng đinh thập giá!”

Thánh nhân đã tìm được kho tàng muôn thuở.

Thánh Phan-xi-cô nghèo thành Atsidi đã tìm được Chúa Giê-su nghèo.

Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã tìm được Chúa Giê-su Tình Yêu. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã tìm được Chúa Giê-su bị bỏ rơi nơi hè phố Calcutta.

Dụ ngôn nói rõ: “Tìm được kho báu, người ấy vui mừng, về bán cả gia sản để mua thửa đất ấy”.

Chúng ta hãy cố gắng tìm kiếm. Thành công đang chờ đợi chúng ta bên kia những cố gắng hằng ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ được niềm vui mà thế gian không thể có được.

Chúa Giê-su không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Chúng ta thiếu một điều: “Hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến đây theo Ta”.Chúng ta thiếu một điều, một điều cực kỳ quan trọng. Chúng ta không dám liều, không dám chọn “kho báu Nước Trời” vì chúng ta sợ mất của cải trần gian. Và đó là “nỗi buồn vô tận” của chúng ta, vì chúng ta còn quá nhiều bám víu trần gian.

Các thánh, tất cả các thánh đều dám liều… buông bỏ tất cả.

Tại sao cá thánh tử đạo dám đưa đầu cho người ta chém? Dám chịu đựng ngục tù, hình khổ và chết thê thảm? Tại sao trong thế giới hôm nay đấy hấp dẫn và giàu sang, vẫn có những người buông bỏ tất cả để săn sóc những người phong cùi, những người bệnh Aids, những người bị thế gian bỏ rơi? Tại sao? Sức mạnh nào đã đưa họ tới những con đường lạ lùng đó?

Tất cả chỉ vì Giê-su. Họ đã tìm được kho báu độc nhất của đời họ. Đối vớ họ. Giê-su là tất cả. Họ cho không cuộc đời trong hân hoan, không nhăn nhó.

Thánh Phan-xi-cô khó nghèo đã tràn vui khi nhìn mặt trời và ca lên bài ca tán tụng. Mẹ Tê-rê-xa Calcutta đã vui tươi khi ôm các trẻ em phong cùi trong vòng tay âu yếm của Mẹ.

Tất cả trở thành niềm vui ca ngợi cho những ai đã buông bỏ tất cả, để chỉ còn tay không để ôm ấp kho báu tuyệt vời là Giê-su.

Chúa Giê-su đã cho đi đến tận cùng. Những người đã tìm được Ngài cũng cho đi đến nỗi không còn gì để cho.

Niềm vui dâng hiến đó, thế gian nào biết được!

Kho báu của chúng ta là Giê-su bất tận!

Phải, đời chỉ vui khi đời được dâng hiến trọng vẹn.

Chúa Giê-su nơi bàn thánh hôm nay, chính là kho báu, là “viên ngọc quí” được chôn vùi trong tấm bánh yêu thương.

Chúng ta chờ đợi gì khi Ngài đến mang cho chúng ta niềm vui bất tận của Ngài?

home Mục lục Lưu trữ