Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 97
Tổng truy cập: 1446827
GIÊSU-VUA PHỤC VỤ
Giêsu –Vua phục vụ.
(Trích từ ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Vua, một tước vị đã bị dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền cố vị, giết cả bạn cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong dâm ô với hàng ngàn cung phi. Tai chúng ta vừa nghe tiếng vua, trí chúng ta liên tưởng ngay đến cảnh tượng ghê tởm khủng khiếp đó.
Thế nhưng tại sao chúng ta lại mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Vua Giêsu của chúng ta có như thế không? Hay là cần phải thay đổi tiếng vua thành chủ tịch, tổng thống, quốc trưởng cho hợp thời? Nhưng có thay đổi danh xưng, thì bản chất của những kẻ tham quyền cố vị, háo danh háo sắc chẳng có gì thay đổi. Điều đó đang diễn ra trước mắt chúng ta, vì “ai lấy thúng úp được voi”? đổi danh xưng làm gì, đổi bản chất người mới đáng kể.
Bài đọc I cho thấy dân Do Thái truất phế vua Saolê, một vị vua bất xứng, để chọn Đavit lên thay thế. Hết vua nầy đến vua khác. Vua nào cũng thế thôi. Suốt đời Chúa Giêsu, Ngài chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Ngài không hề làm vua của một quốc gia hày trên một mảnh đất nào. Ngài đã không tỏ vẻ gì là một hoàng đế, là một ông vua. Ngài còn nhất quyết từ chối và lẫn trốn mỗi khi dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua. Cũng có lần người ta gọi Ngài là “Vua Dân Do Thái”, nhưng là để chế nhạo Ngài, như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Lúc đó Chúa Giêsu đang là một tên tử tội bị kết án đóng đinh thập giá giữa hai tên gian ác. Từ dưới chân thập giá, giới lạnh đạo cũng như quân lính và dân chúng đều chế giễu thách thức Ngài. Những lời giảng dạy và những việc Ngài làm để cứu chữa người khác được đưa ra để nhạo báng Ngài: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì ông hãy tự cứu mình đi!” Một trong hai tên gian ác bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu cũng lặp lại lời chế giễu thách thức đó: “Nếu ông là Đức Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu cả chúng tôi nữa!” Trên đầu thập giá của Chúa Giêsu, tấm bảng cáo trạng đã ghi rõ: “Giêsu – Nagiaret, Vua dân Do Thái”. Còn Chúa Giêsu thì vẫn im lặng trước những lời chế nhạo và thách thức của họ. Sự im lặng của Chúa Giêsu cho thấy Ngài không phải là vua theo kiểu người dân Do Thái chờ đợi, một vị vua chính trị giải phóng dân tộc, cũng không phải là vua theo kiểu là người “cướp chính quyền”, tranh giành quyền thống trị của hoàng đế Xêda hay của bất cứ vị lãnh tụ nào trên trần gian nầy. Trước toà án của Tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là Vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian nầy”.
Lúc nầy, đang khi người ta chế nhạo vương quyền của Chúa Giêsu, thì tên ác kia – mà người ta gọi là “tên trộm lành” đã nhận ra vương quyền đích thực của Chúa Giêsu. Anh nhìn nhận Chúa Giêsu là người vô tội, Ngài thạt là Đức Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến cứu độ nhân loại. Anh đã diễn tả lòng tin của anh bằng một lời cầu xin: “Lạy Ngài, khi nào về Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đã xác nhận vương quyền của Ngài bằng cách nhận lời cầu xin của anh: “Tôi nói thật với anh, ngay hôm nay, anh sẽ ở với Tôi trên Nước Trời”.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu là Vua. Vua là người dựng nước, Vua là người cứu nước, Vua là người của dân tộc. Thánh Phaolô đã triển khai ba điểm nầy trong Bài đọc II hôm nay. Chúa Giêsu là Vua, vì Ngài là Con Một của Thiên Chúa Cha. Vương quốc là của Con, là Trưởng Tử của mọi tạo vật, vì Ngài hiện hữu trước mọi tạo thành, mọi sự được dựng nên “nhờ Ngài và trong Ngài”. Như vậy Chúa Giêsu Kitô là đầu toàn thể vụ trụ: vật hữu hình và vô hình, trái đất chúng ta và không gian liên hành tinh, cả những tinh vân cực xa. Sau cùng, Hội Thánh là Thân Thể của Ngài và thế giới người chết cũng là nơi Ngài cai trị như là Trưởng Tử, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Lịch sử sẽ hoàn tất nơi Chúa Kitô, bởi vì toàn thể vũ trụ đang tiến tới chỗ hòa giải trọn vẹn “nhờ Ngài và trong Ngài” và chính máu Ngài đổ ra trên thập giá để thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu.
Chúa Giêsu là Vua, nghĩa là Ngài đã lãnh đạo, mở đường đưa cả loài người vào cõi sống vĩnh cửu, vào Nước Trời. Ngài đã giải thoát loài người khỏi mọi ách thống trị của sự ác và sự chết, để con người được gặp Thiên Chúa, được tham dự vào tình yêu, sự thật và sự sống của Thiên Chúa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Ngài đã chấp nhận bị liệt vào hàng gian ác và đã chết cùng với những kẻ gian ác để đem họ vào cõi sống với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua vũ trụ là Vua cả nhân loại, nhưng Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Chúa Giêsu Vua, ngai vàng là thập giá, vương miện là mão gai, thay cho tiếng hoan hô là những tiếng chữi rủa, thách thách, nhạo cười, đả đảo…
Chắc hẳn không ai thích làm vua kiểu đó. Nhưng thích hay không, chúng ta cũng phải làm vua, vì khi được rửa tội, chúng ta đã là dân tộc vương đế, vương đế theo kiểu Chúa Giêsu: Phải làm vua dục vọng của mình, phải dám lên tiếng bênh vực sự thật, phải dám hy sinh cho những người nghèo khổ. “Ai biết phục vụ anh em, người đó là người chỉ huy”: Phục vụ là cai trị.
Muốn được vào Nước của Thiên Chúa, được làm công dân Nước Chúa, không có con đường nào khác ngoài con đường của “người trộm lành”, đó là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ có tội “Phần chúng ta, thế này là phải lắm”. Tin tưởng: “Còn Ngài có làm gì xấu đâu”, và cầu xin: “Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi’.
Nếu Chúa Giêsu thực sự là Vua của lòng chúng ta, là Vua của đời ta, thay cho các “thần tượng” vua chúa khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa đáp lại vào lúc cuối đời mình: “Ta bảo thật với con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Nước Trời”.
42. Viên đá – McCarthy.
Một lần nọ, hai người lữ khách đi qua một khu rừng khi màn đêm buông xuống. Chỉ trong ít phút, con đường nhỏ hẹp mà họ đang đi trở nên tăm tối. Một bóng tối khủng khiếp bao trùm mọi vật. Kế đó sự việc còn tệ hại hơn, một cơn bão có sấm sét nổ ra trong khu rừng. Ánh sáng của chớp lóe lên kèm theo những tràng sấm làm rung chuyển mặt đất dưới chân họ. Mưa đổ xuống như trút nước trên người họ. Cây cối rung chuyển một cách nguy hiểm. Người thứ nhất coi cơn bão như một tai họa ghê gớm. Mỗi khi có chớp lóe ra, anh ta nhìn lên bầu trời và nguyền rủa. Kết quả là anh ta đi chệch khỏi con đường và lạc vào rừng. Người thứ hai trái lại coi cơn bão như như một ơn lành hóa trang. Mỗi lần tia chớp lóe lên, soi sáng một đoạn đường trước mặt anh, và do đó anh có thể tiến lên từng bước một. Luôn giữ đầu cúi xuống sẵn sàng nhìn cho rõ, anh vẫn luôn theo đúng con đường. Và cứ thế, bước đi từng bước một, anh theo con đường để ra khỏi khu rừng.
Một đôi khi, đó là con đường trong cuộc đời: chỉ có đủ ánh sáng để bước được bước kế tiếp; chỉ có đủ sức mạnh để làm nhiệm vụ hiện nay. Cơn bão có sấm chớp đều như nhau đối với hai người lữ khách. Tuy nhiên, đối với người kia, nó là viên đá dùng để bước qua.
Những người lữ khách ấy nhắc chúng ta nhớ đến hai người gian phi trong câu chuyện Tin Mừng. Cả hai đều bị rơi vào bóng tối khủng khiếp. Trước hết là bóng tối của đời sống tội lỗi của họ. Rồi bóng tối khủng khiếp bao trùm trên núi Canvariô lúc Đức Giêsu bị đóng đinh.
Một người thì nguyền rủa bóng tối. Người kia đã thấy một tia sáng yếu ớt xuyên qua bóng tối. Ánh sáng ấy đến từ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đức Giêsu người bạn của những người tội lỗi, đã đến để tìm và cứu những người lạc mất. Lời xưng tội trong sáng và khiêm nhường đi thẳng vào tâm hồn của Đức Giêsu để rồi anh ta nhận được không những ơn tha thứ, mà còn nhận được chính thiên đàng.
Sau cùng, Đấng duy nhất biết và hiểu chúng ta trọn vẹn là Thiên Chúa. Người là nhà viết tiểu sử mà chúng ta hoàn toàn tín thác vào sự chính xác của Người bởi vì chỉ có Người nhìn thấu suốt tâm hồn chúng ta. Người thấy ở đó những tổn thương và đau buồn, những tì vết và tật nguyền, những hy vọng và khát khao của chúng ta. Đức Giêsu nhìn vào người gian phi và thấy những mảnh vụn đau buồn của đời anh, và động lòng trắc ẩn, thương xót anh.
Người gian phi tốt lành đem lại niềm hy vọng cho tất cả chúng ta, nhưng đặc biệt cho những người mà đến cuối đời không có gì để khoe mình ngoài những việc làm của bóng tối. Cho dù là giờ thứ mười một, người ta vẫn còn có khả năng để ánh sáng mặt trời chiếu vào. Nhờ lòng nhân hậu tuyệt đối của Người, Đức Giêsu biến đổi bóng tối thành ánh sáng. Sự cứu chuộc luôn luôn là một ơn của Thiên Chúa. Người ban một cách quảng đại nhất cho những người (giống như người gian phi tốt lành) biết mình nghèo khó và cầu xin với đôi bàn tay không và tâm hồn trông cậy.
43. Quyền năng tối thượng
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Để diễn tả quyền năng tột đỉnh của Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ, Giáo Hội đã chọn bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai triển về một khía cạnh khác nhau. Năm A với bài Tin Mừng Mát-thêu (Mt 25, 31-46), tôn vinh Đức Vua Giêsu như một vị Thẩm phán tối cao ngự trên ngai toà vinh hiển xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an (Ga 18, 33-37) dùng chính miệng Phi-la-tô tuyên xưng Đức Giêsu là Vua, nhưng là Vua của một “nước không thuộc thế gian”. Từ đó, đưa ra một cái nhìn thần học về uy quyền của Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể và nhập thế để làm chứng cho Sự Thật: Thiên Chúa yêu thương con người đến độ sai Con Một xuống thế chịu khổ hình và chịu chết để cứu độ nhân loại. Năm C với bài Tin Mừng Lu-ca (Lc 23, 35-43) trình thuật Vua Giêsu hiển trị từ trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha để tiêu diệt tội lỗi, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người.
Ngoài ra, đọc cả 4 sách Tin Mừng sẽ thấy các môn đệ cũng như nhiều người khác đều tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Vua It-ra-en. Đó là những chứng tích minh hoạ cho ngôi vị Vương Giả của Đức Giêsu. Thánh danh Giêsu có nghĩa là “Đấng Cứu Độ” (Mt 1, 21; Lc 2, 11) – Đấng Cứu Độ là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật – mà Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, vậy chẳng phải Người chính là Vua Vũ Trụ đó sao? Một cách cụ thể thì có thể khẳng định ngôi vị Vua Vũ Trụ đã được tiền định từ trước vô cùng, nên trong Cựu Ước đã tiên báo (“Con Người đang ngự giá mây trời mà đến… Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” – Đn 7, 13-14; xc thêm Is 9, 1-6; 52, 7-10).
Cũng đã có một số người chê đạo Công Giáo vẫn còn duy trì chế độ quân chủ (vua làm chủ) lỗi thời, vẫn sùng bái tôn thờ một vị Giáo chủ một triều đại cách đây 2000 năm gọi là Vua Giêsu, thậm chí còn coi vị Giáo chủ ấy là Vua cả vũ trụ. Cái chế độ quân chủ ấy vẫn được tiếp nối đến tận ngày nay và gọi những vị Giáo chủ là Giáo hoàng (hoàng: vua), gọi nơi làm việc của Giáo hoàng là thủ đô (Giáo đô La Mã) và gọi bộ máy hoạt động là triều đình (Giáo triều Rô-ma). Trong khi đó thế giới đã hầu như không còn chế độ quân chủ, mà hầu hết đều theo chế độ dân chủ. Cứ kể xét về mặt từ ngữ, về tên gọi, thì nhận định trên không sai. Nó cũng không khác bao nhiêu với những quan điểm nhận định đánh giá con người qua cái áo, qua bộ cánh (sang trọng hay thấp hèn) và như thế là đã quên mất cái cốt lõi của vấn đề, bởi “cái áo không làm nên thầy tu”.
Danh hiệu vua thực chất chỉ là một cách gọi những người đứng đầu trị vì một quốc gia thời phong kiến, mà về sau được gọi bằng danh xưng khác như: tổng thống, thủ tướng, quốc trưởng, chủ tịch nước v.v… Với Đức Giêsu thì vì Người là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật (điều này không phải chỉ do Người tự xưng – đến nỗi đã bị nhóm Pha-ri-sêu cho là phạm thượng – mà còn được chính Thiên Chúa Cha phán bảo khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, đồng thời Chúa Thánh Thần còn linh hứng, mạc khải cho các Thánh sử, các vị tiên tri, ngôn sứ nữa).
Còn một điều mấu chốt là Đức Giêsu tuy được tôn xưng là Vua Vũ Trụ, nhưng Người không hề sống như kiểu các ông vua phong kiến hay các ông trị vì quốc gia hiện đại (hét ra lửa, mửa ra khói). Người đã hành xử vương quyền bằng cách “không ngựa xe đưa rước, không võng gấm lọng vàng, không tiền hô hậu ủng”, mà đến với những người nghèo hèn, bệnh tật, tội lỗi. Người thu nhận môn đệ nơi những giai cấp thấp cổ bé miệng (chài lưới, nông phu, lao động…), hoặc bị xã hội lên án là tội lỗi (người thu thuế). Một ông vua mà lại quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, đầy tớ của mình, rồi còn nói “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15). Và những Lời Người giảng dậy thì toàn là khuyên bảo ăn ngay ở lành, thật thà công chính, khiêm nhường bác ái, thậm chí còn dậy người ta yêu thương cả kẻ thù (Mt 5, 43-44). Người không chỉ dậy bằng Lời, mà bằng hành động, bằng việc làm, bằng chính cả sinh mạng của Người khi bị treo trên thập giá cho đến chết để đền thay tội lỗi loài người. Trước khi chết treo trên thập tự, Người còn cầu xin Chúa Cha tha cho kẻ đã đóng đinh mình: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 34). Đức Vua Giêsu là như vậy đó.
Rõ ràng Đức Giêsu Ki-tô chính là “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình” (Cl 1, 15-16). Người là Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, muôn loài; như vậy Người là chủ muôn loài, chủ vũ trụ (Vua vũ trụ) cũng là lẽ đương nhiên. Đó là xét về mặt danh nghĩa, nhưng còn mặt thực chất của vấn đề, và cũng là điều quan trong nhất, ấy là Người đã vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu chuộc nhân loại. Không cần nói đến những phép lạ, những linh hứng, mạc khải, mà chỉ cần suy niệm vào chính cuộc đời trần thế của Người (từ cách sống, cách giảng dạy, cách chữa trị bệnh nhân, đến chính việc hy sinh cả tính mạng mình vì yêu thương loài người tội lỗi), cũng đủ để xác tín Người chính là Vua – VUA TÌNH YÊU. Và chính điều này một lần nữa khẳng định Đức Giêsu Ki-tô thật sự là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là VUA VŨ TRỤ vậy.
Ôi! Lạy Chúa! Từ xưa đến nay, chúng con vẫn luôn xưng tụng Đức Giêsu là Vua của loài người, của vũ trụ, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Tuy nhiên, hành động của chúng con, cách cư xử và đời sống của chúng con dường như lại đi ngượic với những lời chúng con tuyên xưng. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí Tình Yêu cho chúng con, để chúng con đủ can đảm sống đúng những điều chúng con tuyên xưng. Ôi! Lạy Chúa! Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng con xin tuyên xưng từ ngay trong bản thân, trong gia đình chúng con, qua chính cách sống và hành động của chúng con: Đức Giêsu Ki-tô là Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, Người chính là Vua Vũ Trụ, Vua của mỗi người, mỗi gia đình chúng con.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Ðức Kitô là người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Ðấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Giêsu Ki-tô, Vua Vũ Trụ).
44. Nhân từ kêu gọi nhân từ – McCarthy.
Vào một đêm khuya ở Dublin, một cô y tá vội vã đi dọc theo một bến cảng để đón xe buýt, bỗng cô thấy một thanh niên đang nằm trên vỉa hè ngay phía trước cô. Anh ta có vẻ bị bệnh hoặc bị thương. Cô dừng lại để xem cô có thể giúp gì cho anh ta. Nhưng khi cô cúi xuống, anh ta nhảy dựng lên và giật cái túi xách của cô. Cô ghì chặt lại. Sau đó một cuộc chiến đấu xảy ra. Đến một lúc nào đó, hai cặp mắt gặp nhau. Thình lình, người thanh niên buông ra và nói: Ồ, cô có phải là y tá O’Reilly!”
Họ bắt đầu chuyện trò thân mật. Thì ra trước đó ít lâu, anh ta phải vào bệnh viện vì bị gãy chân, và y tá O’Reilly đã rất tử tế với anh ta. Anh hỏi cô định đi đâu. Cô nói cô định đón xe buýt. Anh ta đưa cô đến trạm xe buýt và chờ cho đến khi xe buýt đến. Rồi xin lỗi những gì đã xảy ra, anh ta nói lời chào.
Đó là một câu chuyện có thật. Nó dạy chúng ta điều gì? Có lẽ bài học chính là: Người ta không bao giờ hoàn toàn đánh mất mình trong điều xấu chừng nào người ta còn nhận ra lòng nhân từ và đáp lại nó.
Một đôi khi chỉ cần nhìn sự nhân từ tỏa sáng nơi một người khác đủ để người ta khám phá ra sự nhân từ ấy nơi chính mình. Một kỷ niệm tốt đẹp sẽ cứu được một số tính cách vào những lúc quyết định. Sự thấu cảm là điều kêu gọi một người quay lưng lại bóng tối.
Nếu đêm hôm ấy, một người phụ nữ khác đi dọc theo bến cảng thì người thanh niên sẽ không hành động như thế. Anh ta sẽ cướp giật người ấy và không cảm thấy hối hận vì đã làm thế. Nhưng vì là một người mà bản thân anh có kinh nghiệm là một cô y tá tốt lành, anh không thể tìm thấy điều gì làm anh đối xử tồi tệ với cô. Lòng nhân từ của cô làm cho anh ta thấy điều xấu anh đang làm. Điều gì còn quan trọng hơn nữa: sự việc làm cho anh ta nhận thức khả năng của mình về lòng nhân từ. Nó đánh thức chút nhân từ vẫn còn sót lại trong anh.
Câu chuyện trên nhắc chúng ta đôi điều về sự gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các gian phi trên núi Canvariô. Một gian phi đã hoàn toàn lạc mất trong bóng tối của điều xấu đến nỗi không còn thích ánh sáng. Người kia nhận ra ánh sáng của lòng nhân từ của Đức Giêsu và đáp lại lòng nhân từ ấy.
Người gian phi tốt lành nhận ra rằng Đức Giêsu vô tội. Và hơn thế nữa, người ấy còn bênh vực Người trước người gian phi kia. Anh ta là người duy nhất làm chứng về sự vô tội của Đức Giêsu. Lòng nhân từ của Đức Giêsu làm cho anh nhìn thấy cuộc đời anh ta quả là xấu nhưng cũng đánh thức lòng nhân từ đã mất của anh ta. Anh ta quay về với Đức Giêsu, nhận biết rằng Người là Đấng duy nhất có thể giúp anh trong phút cuối cùng của đời mình. Và Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu là vua, nhưng là một loại vua lạ lùng. Người đã đến không phải để chinh phục mà để hoán cải, không phải để thống trị nhưng để giải phóng, không phải để chỉ huy nhưng để phục vụ. Người đã chết như một tội phạm, nhưng trị vì từ trên thập giá. Người đáp lại điều xấu nhất với điều tốt nhất trong Người. Tại sao Người không phản ứng lại những kẻ xử Người? Thi sĩ Seamus Heaney nói về thứ “quyền lực không được thi hành bằng quyền lực”.
Tất cả những gì chúng ta có thể làm là lặp lại lời thánh Phaolô đã nói: “Hãy cảm tạ Chúa Cha, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được tha thứ tội lỗi”.
CÁCH TIẾP CẬN KHÁC
Câu chuyện về người gian phi sám hối trên núi Canvariô làm nổi lên một vấn đề quan trọng: Có phải người ta chết theo cách người ta đã sống? Và câu trả lời dường như là: Không nhất thiết như thế. Có những người đã sống một đời sống như trong địa ngục nhưng lại có cái chết rạng rỡ. Ân sủng của Thiên Chúa không liên quan gì đến công nghiệp.
MỘT CÂU CHUYỆN
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ ở Calcutta, mẹ đã nhặt được một người đàn ông ở một rãnh nước và đưa ông ta về nhà nuôi người hấp hối. Trước khi chết, ông ta nói với mẹ: “Tôi đã sống như một con vật nhưng tôi đã chết như một thiên thần, được yêu thương và chăm sóc”. Mẹ Têrêxa nhận thấy sự cao cả của ông ta, người có thể nói được như thế và có thể chết mà không trách móc hoặc chửi rủa một ai. Mẹ cảm thấy mình được đặc ân đã có thể giúp ông ta sống những giờ phút cuối đời trong sự cảm nhận mình được yêu thương và quý trọng.
MỘT MINH HOẠ
Những cảnh hoàng hôn đẹp nhất không phải xảy ra khi bầu trời không có mây nhưng xảy ra khi có vài đám mây trong bầu trời. Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời và làm ánh sáng toả lan qua bầu trời, một đôi khi với những màu sắc kỳ ảo.
Ở Mỹ, có một ngày tháng tám lạ lùng. Suốt buổi sáng có sấm chớp và những cơn mua ngắn nặng hạt. Suốt buổi chiều trời nóng và ẩm. Buổi tối thì tối đen và khốn khổ. Tuy nhiên, khi màn đêm buông xuống một ngày tồi tệ thì một cảnh tượng rất đẹp xảy ra. Đó là một trong những buổi hoàng hôn đẹp nhất mà người ta vẫn mong ước ngắm xem. Và như thế ngày tháng tám với thời tiết xấu ấy kết thúc trong cảnh đẹp.
Nó nhắc chúng ta nhớ đến điều đã xảy ra với người gian phi tốt lành trên núi Canvariô. Khi bức màn đã buông xuống trên đời sống tội phạm tăm tối của anh ta. Một điều gì đó đã khiến anh ta bênh vực Đức Giêsu và đây là lời bênh vực duy nhất trên núi Canvariô. Rồi anh ta quay về Đức Giêsu và nói: “Ông Giêsu ơn, khi ông vào Vương Quốc của ông, xin nhớ đến tôi”. Và Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Người gian phi tốt lành đã sống một đời tồi tệ, tuy nhiên, nhờ gặp gỡ với Đức Giêsu, anh ta đã tìm thấy yêu thương, bình an và hy vọng vào lúc cuối đời. Câu chuyện về anh dạy chúng ta rằng không có sự gì quá trễ. Đức Kitô Vua có thể làm cho sự kết thúc đen tối nhất toả sáng niềm hy vọng. Người có thể biến đổi sa mạc thành khu vườn, và gỉ sắt thành vàng ròng.
45. Alpha & Omega - P.Trần Đình Phan Tiến
Kinh thưa quý vị! Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể và tôn thờ một Vị Vua, một Vị Vua đích thực, Người là Vua Sự Thật, Vua Tình Yêu, Vua Sự Sống. Vâng, Vị Vua ấy là” Giêsu Nzaret”, một Vị Vua mà trong bối cảnh Tin Mừng hôm nay (Lc 23,35-43) cho chúng ta thấy về “Người Tôi Tớ của Giavê”. Có nghĩa là: Vị Vua mà chúng ta tôn thờ không phải ở trên ngai vàng, mà là ở trên một “cái ngai cao hơn ngai vàng”, vâng, cái ngai ấy chính là “Thập giá”. Thập giá là một hình phạt cao nhất dành cho tội nhân của người Dothai, nhưng Vua Giêsu đã chọn lấy, dù Người vô tội, đó là một bản án bất công nhất, vì một án phạt nặng nhất lại dành cho một “Con Người “vô tội. Nhưng đối với Vua Giêsu là một bản án “vì tình”, bởi vì Người là” Vua Tình Yêu”.
Đoạn Tin Mừng (Lc 23,35-43) hôm nay là đoạn Tin Mừng diễn tả một mầu nhiệm chóp đỉnh của sự đau khổ. Mầu nhiệm ấy gọi là mầu nhiệm Thập giá, bởi vì từ cổ chí kim và mãi mãi, duy nhất trong lịch sử loài người, không có một cảnh tưởng nào hãi hùng, khinh khiếp bằng cảnh tượng Thập giá. Vì nơi đó, đã thỏa mãn cơn điên loạn, sự độc ác, sự căm thù, sự ích kỷ, sự nhỏ nhen thâm độc nhất của loài người, tất cả cũng chỉ vì muốn thỏa mãn tính người, tính ngạo mạn của satan, phủ nhận chân lý, muốn xóa mờ tình yêu của Thiên Chúa, muốn khỏa lấp Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với người công chính. Vì thế, thảm cảnh Thập giá đã xảy ra, nhưng tình yêu đã chiến thắng. Vì Thiên Chúa là tình yêu.
Lời lẽ sỉ nhục Đức Kitô, là lời lẽ thách thức Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa không theo bất cứ thế lực nào, bất cứ lời lẽ nào, vì Ngài là Thiên Chúa. Một ý nghĩa chân lý là nếu Thiên Chúa theo tư tưởng của loài người thì không có mầu nhiệm ơn Cứu Độ. Vì: “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của loài người bấy nhiêu” (Isaia 55,9). Nên Đấng Cứu Thế Kitô phải chịu khổ hình và treo lên, vì chương trình cứu độ của Thiên Chúa chính là Thập giá Đức Kitô. Khi nhân tính biểu lộ trọn vẹn sự hữu hình trong mầu nhiệm tử nạn, đồng thời cũng là lúc Thiên Tính biểu lộ trọn vẹn quyền phép cao cả của Thiên Chúa, và giá trị siêu nhiên cùng với ơn Cứu Độ được hình thành nơi Đức Kitô- Giêsu.
Vinh quang Thiên Chúa không dừng lại nơi Thập giá, mà là vinh quang của Thiên Chúa chính là sự Phục Sinh của Đức Kitô. Thập giá, nơi biểu lộ tình yêu, chứ không phải nơi biểu lộ quyền năng, Thập giá, nơi biểu lộ án phạt mà nhân loại phải chịu. Nhưng, kẻ có tội, thì mất quyền tha thứ, mất quyền tự do, không thể cứu người khác được. Nên chi, theo lẽ tự nhiên là thế, Thiên Chúa phải dùng lẽ tự nhiên bởi một Người vô tội, là Đấng Cứu Thế, có nghĩa là Kitô. Đấng vô tội chịu mức án của kẻ có tội, như vậy mới có giá trị “cứu” kẻ có tội. Xét theo lẽ tự nhiên, đó là sự bất công, nhưng theo lẽ siêu nhiên, thì đây là Hy Lễ Cứu Chuộc. Như vậy, Thập giá là Hy Lễ Cứu Chuộc. Mà Hy Lễ ấy được một Con Người vô tội thực hiện, thì có giá trị vô song. Nhưng mầu nhiệm Cứu Chuộc không dừng lại nơi Thập giá, mà là bước qua Thập giá (không phải theo nghĩa đen là “quá khóa”), mới đến Vinh Quang của Thiên Chúa
Đức Kitô là Vị Vua không tự tìm vinh quang cho mình, mà là “Vị Vua” tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Nơi trần gian, con người tìm gì? Chắn chắn là tìm vinh quang trần thế. Vinh quang trần thế chắc chắn không phải là vinh quang Nước Trời. Vì vậy, con người trần thế muốn tìm vinh quang thế trần, thì họ phải tôn thờ những thứ “vua” của trần thế. Còn thần dân của Nước Trời, thì phải tôn thờ “Vua Giêsu”, là Vua trên các Vua, Chúa của các chúa. Đó là hợp lẽ.
Theo trần gian, người nào tài giỏi về một điều gì đó, thì người ta gọi là vua, như vua dầu lửa, vua xe ơi, vua caphê, vua bóng đá v.v.... Nhưng tất cả những vị vua đó chỉ tìm vinh quang cho họ, chứ không tìm vinh quang cho Thiên Chúa. Ai tìm vinh quang cho Thiên Chúa là thần dân trong Nước Của Vua Giêsu, Vị Vua của chân lý, tình yêu và sự thật.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến thế gian không tìm vinh quang của trần thế, mà là đã chọn Thập giá là vinh quang cho Hy lễ Cứu Chuộc. Xin thương cho chúng con biết tôn thờ sự thật ấy, là vinh quang vĩnh cửu cho chúng con, vì Chúa là Vua mà chúng con tôn thờ. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam