Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 79

Tổng truy cập: 1446699

GẶP GỠ ƠN CỨU ĐỘ

Gặp gỡ ơn cứu độ – Lm. FX Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Phần thứ tư (phần cuối của hành trình lên Giêrusalem) được tác giả Luca trình bày trong phân đoạn 18,15–19,28: phần này tương ứng với bài tường thuật về hành trình của các Tin Mừng Nhất Lãm. Nhưng trong khối chất liệu này, ngài thêm vào câu truyện cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Dakêu, thủ lãnh người thu thế ở Giêrikhô. Ngài thấy khối người bị đẩy ra bên lề xã hội Paléttina này cũng là “cái đã mất” mà Đức Giêsu đến để cứu.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành năm đơn vị:

1) Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (19,1);

2) Giới thiệu Dakêu trong quan hệ với Đức Giêsu (19,2-4);

3) Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (19,5-7):

– Đề nghị của Đức Giêsu (cc. 5-6),

– Phản ứng của dân chúng (phản đối Đức Giêsu) ( c. 7);

4) Dakêu chủ động hoán cải (19,8-9):

– Đề nghị của Dakêu (c. 8),

– Phản ứng của Đức Giêsu (trả lời cho dân chúng) (c. 9);

5) Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (19,10).

3.- Vài điểm chú giải

– Giêrikhô (1): Giêrikhô là chặng cuối trước khi “lên” Giêrusalem. Thành này nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoăc các sĩ quan, binh lính Rôma.

– Dakêu (2): Tiếng Híp-ri là zakkai, có nghĩa là “trong sạch và vô tội” (x. Er 2,9; Nkm 7,14).

– người thu thuế (2): x. 3,12. Tên gọi này dịch từ tiếng Hy Lạp telônês (do từ telos có nghĩa là “thuế”); La-tinh: publicanus (Ngày xưa, các cố Tây dịch là “người púp-li-ca-nô” do lấy từ chữ La-tinh publicanus (do chữ publicus có nghĩa là “tiền của công”); Pháp: collecteur d’impôts, Anh: tax collector. Nền hành chánh Rôma qui định nhiều loại thuế: thuế thổ trạch, thuế động sản, thuế gián thu, đặc biệt đánh trên việc nhập cảng muối. Những “người thu thuế” thường được giao cho nhiệm vụ thu khoản thuế cuối cùng này. Vì thế họ thường có mặt tại các trạm quan thuế (Caphácnaum: Mc 2,14; Giêrikhô: Lc 19,2). Vì do nghề nghiệp, họ phải tiếp xúc thường xuyên với mọi hạng người, kể cả người ngoại giáo, nên họ bị coi là những người ô uế. Quy định mức thuế là quyền của chính quyền, nhưng thường được người thu thuế áp dụng cách võ đoán, nên họ bị dân chúng khinh bỉ, và danh từ “người thu thuế” tương đương với “hạng tội lỗi” công khai (x. Mt 9,10-11; Mc 2,16; Lc 5,30; 7,34; 15,1; 19,2-7), hạng ngoại đạo (x. Mt 18,17; 21,31), và hạng trộm cướp (x. Lc 3,2t). Một người Do Thái đạo đức tuân giữ lề luật thì chẳng có gì phải giao dịch với người thu thuế. Dakêu “đứng đầu những người thu thuế” (architelônês), tức là ông phụ trách cả vùng. Như thế, Dakêu càng ở bên lề cộng đồng Do Thái hơn nữa.

– tìm cách để xem cho biết… (3): Dakêu là người giàu có và có địa vị cao, nhưng trong lòng ông vẫn không cảm thấy thỏa mãn. Hai động từ “tìm” (HL: zêtein) và “xem” (HL: idein) cho dù không có tầm mức quan trọng như trong TM Gioan, vẫn cho thấy là Dakêu không chỉ tò mò muốn “xem cho biết” (như kiểu nói của chúng ta). Đây là một “cuộc điều tra mang tính Kitô học” của một người tội lỗi công khai đối lại với thái độ lãnh đạm và thù nghịch của giới lãnh đạo dân Chúa.

– cây sung (4), tiếng Hy Lạp là sykomorea. Đây là loại cây có thân thấp, các cành ngang cứng chắc.

– phải ở lại (5): Câu này dịch sát là “hôm nay điều cần thiết đối với tôi là ở lại nhà ông”. Động từ Hy Lạp dei diễn tả một điều nằm trong chương trình, ý muốn của Thiên Chúa, nằm trong sứ mạng của Đức Giêsu (x. 2,49; 4,43; 12,12; 13,33; 15,32; 22,37; 24,44).

– mừng rỡ (6): do động từ Hy Lạp chairein. Lc là Tin Mừng về niềm vui (Dacaria: 1,14; Đức Maria: 1,28; bà con Gioan Tẩy Giả: 1,58; Đức Giêsu chào đời: 2,10; Đức Giêsu: 10,20; đám đông: 13,17…). Đây là niềm vui do Đấng Mêsia mang đến.

– nhà người tội lỗi (7): Luật luân lý cấm vào nhà kẻ tội lỗi.

– phân nửa tài sản của tôi (8): Mức bồi thường này vượt qua mức Luật đòi hỏi (x. Xh 21,37; Ds 5,5-7; Lv 5,21-24: trả lại món tài sản đã lấy cộng với 1/5 giá trị món đó).

– Đức Giêsu nói về ông (9), có nghĩa là Đức Giêsu nói với những người khác. Tập tục Đông phương cho phép người ta tự do ra vào nhà một người và vây quanh bàn ăn của những khách được mời (x. 7,37).

– Hôm nay (9, cả c. 5; HL: sêmeron, x. 2,11; 4,21; 13,32.33; 23,43): Đây là từ ngữ quan trọng của TM Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26).

4.- Ý nghĩa của bản văn

Ghi chú về chuyến đi của Đức Giêsu (1)

Đến Giêrikhô, chuyến đi của Đức Giêsu lên Giêrusalem đã đến chặng cuối cùng. Tại đây người ta bắt đầu chuyến đi lên: từ thung lũng sông Giođan, người ta băng qua sa mạc Giuđa để đến Giêrusalem. Toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu sau này được Phêrô mô tả: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó” (Cv 10,38). Điều này đặc biệt đúng cho những điểm cuối cùng: mỗi chặng lại trở thành mộtchặng để trợ giúp và cứu chữa. Gặp anh mù ngồi bên vệ đường tin tưởng kêu cầu: “Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin thương xót tôi!”, Đức Giêsu đã cho anh xem thấy, ban khả năng ca tụng Thiên Chúa và đi theo Người (18,38). Gặp Dakêu ngồi trên một cây sung bên lề đường để nhìn xem Người, Đức Giêsu cho ông cơ hội tiếp đón Người về nhà và hoán cải, tức nhận được ơn cứu độ. Dù hoàn cảnh hai người rất khác nhau, cả hai đã được Thiên Chúa trợ giúp nhờ trung gian Đức Giêsu.

Giới thiệu Dakêu trong quan hệ vớiĐức Giêsu (2-4)

Dakêu là mộtngười giàu có. Nhưng trong tư cách là thủ lãnh của những người thu thuế, ông thuộc về hạng người bị xã hội Do Thái khinh bỉ. Do nghề nghiệp, vì họ phải thường xuyên liên hệ với mọi hạng người, kể cả ngoại giáo, họ bị nhiễm uế. Và bởi vì xã hội thường gán cho người thu thuế tính tham lam và những lối cư xử không công bình (x. 3,12t), Dakêu bị ghét bỏ và khinh bỉ. Một người Do Thái tuân giữ Lề Luật nghiêm túc thì không có gì phải liên hệ với người thu thuế cả. Do đó, Dakêu đứng ở bên lề cộng đồng. Ông là người giàu có và có địa vị cao, nhưng ông không được những người có thế giá trong xã hội trân trọng.

Ông hết sức ao ước được gặp Đức Giêsu. Ước muốn này có thể phần lớn được nhen lên do tính tò mò. Dù sao ước muốn này đã thúc đẩy ông tìm mọi cách để thấy được Đức Giêsu. Tuy nhiên, dân chúng đi theo Đức Giêsu thì quá đông mà vóc người ông thì thấp bé. Nhưng Dakêu có óc sáng tạo: ông chạy đi trước và leo lên mộtcây sung. Chạy và trèo lên cây là những chuyện chỉ hợp với các trẻ em, chứ không phù hợp với tư cách mộtngười giàu có; nhưng Dakêu chấp nhận trở thành lố bịch để được thấy Đức Giêsu, điều này cho thấy ông ao ước thấy Người đến đâu!

Đức Giêsu chủ động gặp Dakêu (5-7)

Trong khi mọi người khác không màng tới Dakêu đang ở trong thế rất khôi hài, Đức Giêsu đã bày tỏ sự quan tâm đến ông bằng những cử chỉ và thái độ rất đơn giản, rất “người”: “đi tới chỗ ấy”, “nhìn lên”, “nói với ông”. Người còn cho hiểu đấy không chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, mà là một cuộc gặp gỡ nằm trong ý muốn của Thiên Chúa (“hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”), nằm trong sứ mạng của Người. Cái “ngày hôm nay” mà Đức Giêsu nhắc tới không chỉ là một chi tiết chỉ thời gian, mà là một chặng trong hành trình ban ơn cứu độ mà Người đã khai mạc tại Nadarét (x. 4,18-22). Trong cuộc hành trình này, Người quan tâm ưu tiên tới những người nghèo, và cả những người tội lỗi.

Nỗi băn khoăn, căng thẳng của Dakêu biến thành niềm vui: không chỉ là sự thỏa mãn, sự thoải mái về thể lý, mà là việc tham dự vào hạnh phúc do Đấng Cứu thế mang đến. Nhờ gặp gỡ Đức Giêsu, ông được giải thoát khỏi các lầm lỗi, hoang mang, và lòng được chan hòa bình an và niềm vui. Đi ngược lại mọi chỉ trích, và một cách rõ ràng, Đức Giêsu cho mọi người thấy rằng không ai bị loại khỏi ơn cứu độ Người ban. Người cũng cho thấy Người từ chối mọi kiểu đánh giá tổng quát về một hạng người.

Dakêu chủ động hoán cải (8-9)

Bữa tiệc tại nhà Dakêu là một cử hành thống hối, đưa tới một sự hiệp thông huynh đệ. Qua bữa tiệc, Dakêu hiểu là ông được kêu gọi đi vào hiệp thông với Thiên Chúa. Bởi vì Đức Giêsu đã chấp nhận con người thật của ông, bởi vì ông được mời gọi sống như thế, Dakêu chẳng phải tránh né gì nữa, trái lại ông vui mừng đón tiếp Người về nhà và bày tỏ quyết định đổi mới cuộc đời. Ông đã trả lời thắc mắc: “Thế thì ai có thể được cứu?” (18,26) khi Đức Giêsu nhận định: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao” (18,24). Dakêu giàu có đã nhận được ơn cứu độ nhờ trung gian Đức Giêsu (19,9), bởi vì ông không chỉ bằng lòng với việc trông thấy Đức Giêsu, mà còn hành động theo ý muốn của Người nữa. Trong ngày hôm ấy, Dakêu đã cảm nghiệm một sự biến đổi lạ thường. Đó chính là điều được Đức Giêsu diễn tả trong câu tuyên bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu ông Abraham”. Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu đã bác bỏ nhận định của mọi người: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”. Phán đoán của đám đông là một phê phán quá cứng rắn. Qua lối cư xử của Người, Đức Giêsu loại bỏ sự cứng rắn đó và cho thấy rằng thái độ của Thiên Chúa hoàn toàn khác với thái độ của đám đông.

Ghi chú về sứ mạng của Đức Giêsu (việc Ngài “đến”) (10)

Những lời Đức Giêsu kết luận (c. 10) có thể khuyến khích mỗi người bởi vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Người không đến để kết án hoặc loại trừ. Lại chính những kẻ bị lạc, những kẻ sai lầm mà Người đã muốn tìm và cứu chữa; chính là những kẻ đang đi vào ngõ cụt mà Người muốn dẫn ra.

+ Kết luận

Bản văn với câu kết luận (c. 10) không những tóm tắt giai thoại về Dakêu, mà còn làm nổi rõ hơn nữa cứu-độ-học của toàn thể cuộc hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như của TM Lc: trong tư cách là Con Người, Đức Giêsu đã đến để tìm và cứu những gì đã mất, và như thế là gợi ý tới câu Ed 34,16 trong đó Đức Chúa tự mô tả mình như là Người mục tử: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng”.

Khi đọc bản văn này, ta cũng nhận ra những ý nhắc lại các đoạn khác trong TM III: những yếu tố thuộc lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3,10-14); dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (18,9-14); người thủ lãnh giàu có (18,18-23); anh mù (18,35-43). Dakêu được giới thiệu như là mộtngười giàu gương mẫu đã hiểu sứ điệp cũng như mối quan tâm của Đức Giêsu đối với người nghèo, nên đã biết lấy những quyết định tương xứng. Bản văn cũng cho thấy có những điểm gặp gỡ với giai thoại anh mù: Dakêu đã thực hiện những bước không thông thường để nhìn thấy Đức Giêsu khi Người đi ngang qua. Hai bản văn cuối cùng này trực tiếp đưa độc giả đi theo Đức Giêsu vào Giêrusalem trong tư cách là “Con vua Đavít” để thực hiện chương trình cứu lấy những gì đã mất.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Dakêu đã bị xã hội đẩy ra bên lề và khép lại với chính ông. Nhưng ông đã không chịu ở lại trong vòng tròn khép kín mà xã hội đã nhốt ông vào, đó là thế giới của tiền bạc và những quan hệ không lương thiện; ông tìm cách “thấy” Đức Giêsu, và thế là ông được cứu. Khép kín vào chính mình, con người không bao giờ thoát khỏi tội lỗi của mình; muốn được cứu, ta cần phải mở ra với Đức Giêsu. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta hiểu: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta đến với Người, nhưng Người cũng chờ đợi chúng ta sẵn sàng đón tiếp Người vào nhà.
  2. Trong bất cứ cộng đoàn nào, bao giờ cũng có những người sợ đến gần những “người thu thuế”, những “kẻ tội lỗi”, những người không có danh thơm tiếng tốt… Bạn thử hình dung xem mình đang nghĩ về người khác thế nào? Đức Giêsu không làm như thế. Người đã nắm lấy bàn tay Dakêu đang rụt rè đưa ra về phía Người. Người lấy sáng kiến và đặt Dakêu trên mộtnẻo đường mới.
  3. Tất cả những thái độ và lời nói rất “người” (sự quan tâm, cử chỉ thân ái, lời nói dịu dàng…) có thể đưa người khác đến những biến đổi rất “thánh”. Môn đệ Đức Giêsu phải sống thế nào để bằng sự hiện diện và lối sống của mình, ngày “hôm nay” của Thiên Chúa xuất hiện cho anh chị em mình. Hôm nay Đức Giêsu vẫn đang ban ơn cứu độ qua Lời Người, các bí tích, qua Giáo Hội. Nếu bạn là thừa tác viên Lời Chúa hoặc bí tích, bạn đã có ý thức về cung cách cử hành thế nào để Đức Giêsu đến được với anh chị em của bạn?
  4. Tấm gương của người môn đệ chính là thầy Giêsu: Người đã không ngại bị đánh giá tiêu cực để khỏi phản bội sứ mạng cứu thế. Người môn đệ của Đức Giêsu sẽ có những lúc phải chọn lựa như thế. Tuy nhiên, ngay trong đời thường, qua các sinh hoạt nghề nghiệp, thăm viếng, có khi nào bạn nghĩ là bạn sinh hoạt, thăm viếng theo ý muốn của Thiên Chúa?

 

  1. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

CUỘC HOÁN CẢI CỦA ÔNG GIAKÊU

Chúng ta đã thấy những liên hệ chặt chẽ gắn liền trình thuật này với trình thuật trước. Lần này hoạt cảnh diễn ra khi Chúa Giêsu đi ngang qua Giêricô. Nhân vật ở đây không phải là kẻ vô danh và ông ta nổi bật trước hết bởi hai điểm trong địa vị xã hội của ông ta, làm cho độc giả do dự không biết phần cuối cùng của câu chuyện sẽ ra sao. Giakêu thuộc thành phần những tội nhân công khai và những người thu thuế (ông lại đứng đầu những người thu thuế), một nhóm người mà Chúa Giêsu giao du và hay dùng bữa với (5,29tt; 15,1tt); ông là một trong những người mà Luca đưa ra như một mô hình của tội nhân ăn năn sám hối (18,13-14). Nhưng phần khác, ông ta giàu có và chúng ta đã nhận thấy, như ở 18,18-27 về một thủ lãnh rất giàu, trở ngại mà tiền bạc gây ra cho lời đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng.

Nhưng trở ngại đầu tiên mà Giakêu gặp chính là sự hiện diện của đám đông (cc.1-6). Như ở 18,39, họ chắn mất tầm nhìn của ông và, bởi lẽ ông lùn (một nét về thể lý) họ làm cho ông không thấy được Chúa Giêsu là ai và dĩ nhiên, Chúa Giêsu cũng không trông thấy ông. Như một đứa con nít, ông thủ lãnh thu thuế chạy leo lên một cành cây: ông biết đúng lúc điều phải làm, tuy rằng không hợp với địa vị xã hội và phẩm giá của ông. Kết quả vượt quá một cách ấn định lúc khởi đầu: và kìa Chúa Giêsu nhìn lên. Sáng kiến đầu tiên của Ngài được nối tiếp ngay bằng một sáng kiến thứ hai. Ngài tự ý muốn đến nhà ông Giakêu. Dù sao, ông này không chỉ ước ao nhìn thấy Chúa Giêsu chứa đựng những thông tin thần học quan trọng khác. Việc Ngài dùng bữa tối và qua đêm tại nhà người thủ lãnh những người thu thuế là thuộc về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa (Tôi phải…). Và hôm nay của cuộc viếng thăm này –được nhấn mạnh do việc lặp lại động từ vội vàng- cho thấy loé lên một “hôm nay” khác, là chính “hôm nay” của ơn cứu độ (x. 4,21; 5,26). Có điều gì đó làm ông Giakêu mừng rỡ!

Chính lúc đó, nổi lên một chướng ngại mới phải vượt qua (cc. 7,10). Việc Chúa Giêsu vào trọ một người tội lỗi gây ra một phản ứng: mọi người xầm xì, phản đối chống lại cách hành xử của Chúa Giêsu, như vậy là họ lặp lại thái độ của các người Pharisêu và kinh sư trước hai hoàn cảnh giống hệt nhau (5,30; 15,2). Những người này cũng làm trước những gì là phản ứng của các Kitô hữu ở Giêrusalem lúc chống lại phêrô khi trách ông đã vào nhà những người không chịu cắt bì và đã ăn uống với họ (Cv 11,2-3). Điều ấy có nghĩa là sứ điệp của câu chuyện Tin Mừng không mất đi tí nào tính cách thời sự trong Giáo Hội sau này.

Lần thứ hai, Giakêu quyết liệt và tức khắc làm điều phải làm. Điều này liên hệ với tiền bạc và ở hai mức độ. Nói với Chúa và trong khi nhận biết Ngài là Chúa –như người mù (18,41) và khác với ông thủ lãnh giàu có chỉ bằng lòng với “Thầy nhân lành” (18,18)- ông tuyên bố trước hết sẽ chia phân nửa tài sản của ông cho người nghèo. Ông không theo lời khuyên hãy cho tất cả (x. 18,22), nhưng ông cam kết san sẻ cách đúng mức, theo đòi hỏi của Gioan Tẩy Giả (x. 3,11-12); ông cũng phải đền gấp bốn, dựa trên phần gia tài con, cho những ai ông đã làm thiệt hại (x. Xh 21,37). Bố thí tới mức độ lớn lao như thế và đền bù những thiệt hại đã gây ra, đó là dấu chỉ của một cuộc hoán cải hoàn toàn. Tương phản với thái độ của ông nhà giàu thật là rõ rệt (x. 18,23).

Ở câu 9, Chúa Giêsu vừa muốn nói với Giakêu, đã trở thành một tội nhân biết sám hối, vừa muốn nói cho tất cả những ai không chịu đựng nổi việc Ngài đón nhận lòng hiếu khách của một người thu thuế. Một lần nữa Ngài nói đến ngày hôm nay; đó không còn chỉ là ngày hôm nay của việc trú ngụ tạm thời của ngài trong một ngôi nhà, nhưng là ngày hôm nay của ơn cứu độ cho tất cả những ai sống trong nhà đó. Điều ấy căn cứ trên việc Giakêu thuộc về dòng dõi Abraham: khi ban ơn cứu độ cho người đứng đầu những kẻ thu thuế, Thiên Chúa đã trung thành với lời hứa cùng tổ phụ các kẻ tin (x. 1,55-73). Giakêu đã kể như bị loại trừ đằng sau rào cản của đám đông, một mình lẻ loi trên cây; điều mà ông quyết định làm với số của cải của ông chứng tỏ ông thuộc về dân của Thiên Chúa. Cuối cùng, Chúa Giêsu nhắc lại đâu là sứ mệnh của Ngài. Chắc hẳn, Ngài nói bằng những từ ngữ gần gũi với những từ đã dùng ở 5,22. Nhưng ở đây, Ngài thân mật ám chỉ tới Ed 34,16, theo đó chính Thiên Chúa đi tìm con chiên bị lạc mất. Công việc của Chúa Giêsu không khác gì công việc của Thiên Chúa (xem đã có ở 15,7).

Cách thức mà đạo Do Thái theo nhóm Pharisêu quan niệm về ơn tha thứ được diễn tả như sau: “Yom Kippour – Ngày đền tội” dịp lễ long trọng, trong dịp đó con người có thể được Chúa tha thứ, xem Lv 16- mang lại ơn tha thứ cho những tội mà con người đã xúc phạm đến Chúa, nhưng đối với những lỗi lầm mà con người xúc phạm đến người lân cận Yom Kippour không thể mang lại ơn tha thứ bao lâu người này chưa được người lân cận của mình tha thứ, chưa đền bù sự thiệt hại luân lý vật chất mà mình đã gây ra (Misnha Yoma VIII, 9). Đối với Luca, ơn cứu độ được Thiên Chúa ban, là sáng kiến của Thiên Chúa (x. 18,27); nhưng để ơn cứu độ trở thành hiện thức thì con người cần phải đón nhận bằng việc hoán cải. Và điều này được diễn tả cách thiết yếu bằng một hành động cụ thể đối với người khác, và đặc biệt là đối với người nghèo. Ở đây, nhân danh Chúa, sáng kiến đã có được nhờ Chúa Giêsu là vị khách từng đến thăm nhà ông Giakêu, ông này đã đáp lại cách thích hợp, không những là đón nhận Chúa Giêsu (c.6) mà còn là mở lòng để đón nhận ơn cứu độ bằng việc sám hối nữa (c.8).

 

  1. Chú giải của Noel Quesson

Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy.

Giê-ri-khô, một địa danh bất thường trong môn địa lý của hành tinh này: thành phố thấp nhất của trái đất; thấp hơn mặt nước biển 250 mét! Khi những người sống ở mức thấp đó; ngay khi họ quyết định đi từ nới họ ở, họ chỉ có thể đi lên cao; Giakêu sẽ khởi hành ở chỗ rất là thấp.

Giê-ri-khô, một biểu tượng cho nhân loại già nua: nó là một trong những thành phố cổ nhất trái đất; có những di tích mà số tuổi lên đến tám ngàn năm trước Đức Giêsu Kitô. Khi Abraham dẫn đàn súc vật đi ngang qua thì nơi đó đã là một thành phố có số tuổi hơn sáu ngàn năm; Giakêu sẽ rất giống với nhân loại từ muôn thuở.

Giêrikhô thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem. Đối với Đức Giêsu ngày hôm đó là một ngày leo dốc mệt nhọc! Đồi cái Sọ (tiếng Do Thái là Golgotha) ở đàng kia, gần cổng Épraim, cách đó hai mươi kilô mét, ở đầu một con dốc dài bất tận và ở đó cao hơn một ngàn mét so với ốc đảo Giêrikhô.

“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” Giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình cuối cùng.

Đức Giêsu hoàn toàn sáng suốt về điều đang chờ đợi Người trên kia, ở Giêrusalem. Hôm qua có lẽ hoặc hôm kia, Người đã gọi riêng các bạn hữu. Người đã loan báo cho họ điều sắp xảy đến: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn tất. Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống lại” (Lc 18, 31.34). Nhưng thánh Luca nói với chúng ta, mười hai Tông Đồ của Đức Giêsu không hiểu gì cả. Chỉ mình Đức Giêsu sáng suốt, lòng tràn ngập những mối suy tư.

Ở đó có một người tên là Giakêu

Phải chăng là sự hài hước? hoặc là sự chế giễu? Cái tên “Zakkay” này trong tiếng Do Thái có nghĩa “Người Thanh Khiết, Người Công Chính”. Con người tội lỗi công khai ấy lại có tên “thanh khiết, trong sạch” làm chúng ta nghĩ tới một kẻ lừa bịp ác tâm mà người ta đặt cho biệt danh là “người vô tội, dịu dàng”!

Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.

Ai mà biết được ông ta sẽ không mang tên thật của mình… vào lúc cuối.

Ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.

Giakêu, người tội lỗi bởi nghề nghiệp, trong lúc này đúng ra đáng có cái tên “kẻ bị tuyệt thông”. Một con người ghê tởm, bị mọi người ghét bỏ. Phục vụ cho đoàn quân chiếm đóng La Mã. Thỏa hiệp với ngẫu tượng, Hoàng Đế Bóc Lột! Kẻ bóc lột những người nghèo! Một Thủ trưởng vô liêm sỉ của những người thu thuế, đã thu những món lại to lớn khi bỏ đói dân nghèo và phô trương sự giàu sang, xa hoa trong ngôi biệt thự sang trọng nhất thành phố. Cách đó ít lâu Đức Giêsu đã nói về điều đó: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Lc 18,25).

Giakêu, một con người bị tránh xa như bệnh dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với hạng người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.

Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó.

Một chuỗi những “biểu tượng: A! ông ta lùn quá lùn nên không nhìn thấy Đức Kitô; đám đông thù nghịch; cả một dư luận phải vượt qua, để xem Đức Kitô; leo lên một cây (cây nào lạ lùng bằng cây thập giá!) để xem Đức Giêsu. Những sự giải thích tượng trưng không làm mất đi sử tính của các chi tiết cụ thể: người ta phải nhớ lại ở Giêrikhô, vào thời của Luca đã xảy ra một biến cố khó tin là sự hoán cải của ‘kẻ đứng đầu những Người thu thuế’. Vả lại mọi chi tiết hoàn toàn tự nhiên. Lúc mới vào thành phố, Đức Giêsu đã chữa lành một người mù (Lc 18, 35.42). Tiếng vang của việc chữa lành này lan ra nhanh chóng như vệt thuốc súng. Người ta biết rằng Giakêu đã có ước muốn “xem” Đức Giêsu đó, leo lên một cây sung dưới ánh mắt châm biếm của đám đông; mà không còn quan tâm đến phẩm giá của một thủ trưởng nhân sự Tổng Kho Bạc của Đế quốc!

Tôi thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu, bất chấp sự chế giễu đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do Thái và có lẽ cái áo choàng La Mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường? Vì tính tò mò chăng? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng? ông ta đã sống để đếm tiền và khuấy động thành phố của ông. Mọi người tránh xa ông; ông biết rõ tại sao: nhân danh pháp luật, ông bức bách họ. Nhưng rồi khi người ta nói Đức ‘Giêsu đi qua đó và Người là bạn của những người không được ai yêu thương. Lúc đó, ông giữ cửa kho bạc đã leo lên một cây đang trổ hoa để xem Đức Chúa.

Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông

Người ta có thể gọi chỗ ấy là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xảy ra nếu như Đức Chúa đã không ngước mắt nhìn lên người ở trọ lạ lùng, trên cây sung. Tôi ở yên một lúc để tưởng tượng, để chiêm niệm hai ánh mắt gặp nhau đó. Đức Giêsu và ông Giakêu đang nhìn nhau!

Chúng ta tiếng rằng chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, trong khi mà chính Người “tìm kiếm” chúng ta trước, tự muôn đời! ôi chào! Ngày hôm đó, Đức Giêsu đã phải sung sướng hạnh phúc! Còn vài cây số nữa là đến Giêrusalem, còn vài ngày nữa là cuộc khổ nạn được hiến dâng để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc cao đẹp nhất của Người sẽ thành công? Mọi nỗi chơi vơi cô quạnh của thập giá mọi hình phạt mà Người sẽ gánh trên lưng, mọi vết thương xé ra ở tay chân đẫm máu của người. Người biết, biết chắc chắn là điều đó có ích. Người đã cứu thế gian, khi tiến lên ‘Giêrusalem’. Giakêu là hoa trái đầu mùa. Hỡi hạn, là người tội lỗi, bạn đã được Thiên Chúa tạo dựng chỉ để ‘xem’ khuôn mặt của Người. Hỡi bạn, là người tội lỗi, hay nhận ra mình được tha thứ khi ánh mắt bạn gặp ánh mắt của Đấng yêu thương bạn.

“Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”

Qua những lời ấy, chúng ta đoán ra rang chính Đức Giêsu đã tìm kiếm Giakêu. Mọi sụ diễn ra như thể Đức Giêsu đã dự kiến hành động của Người: Đức Giêsu được mời đến nhà ông và ông được ưu tiên chọn lựa đối với mọi người khác ở Giêrikhô. Người đã chọn lựa kẻ thấp hèn nhất, kẻ bị khinh bỉ nhất.

Đó là cách mà Đức Giêsu dùng để yêu cầu một người nào đó phục vụ Người để rồi Người ban cho họ một ân sủng của bậc đế vướng: hoàng tử trở thành người ăn xin để ban cho mà không làm thương tổn.

Đức Giêsu dường như chỉ là một người giảng thuyết lưu động tìm một bữa ăn và một ‘cái giường để nghỉ qua đêm. Và thân mật biết bao trong sự vội vàng ấy! “Này ông Giakêu xuống mau đi!” như thể Đức Giêsu muốn nói: Này ông Giakêu, tôi rất đói, mau lên nào! Cũng thế, Đức Giêsu đã xin nước uống của một phụ nữ Samari bị bỏ rơi, bên bờ giảng. Cũng thế Người đã chấp nhận việc xức dầu thơm của người đàn bà tội lỗi nhân ông Simon, một người Pharisêu.

Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.

Sự vội vàng khi ông từ cây nhào bổ xuống tương ứng với sự vội vàng của Đức Giêsu.

Niềm vui là dấu chỉ sự gặp gỡ với Đức Giêsu. Một khoảnh khắc vui mừng và hân hoan ngắn ngủ, kể từ Bài ca Ngợi khen (Magnificat) của Đức Maria qua niềm vui của hai môn đệ trở về Emmau.

Còn bạn, là người tội lỗi, bạn có những lúc vui mừng không?

Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”

Đức Giêsu đã từng đòi hỏi không được gây ra những cớ làm cho người ta vấp ngã (Lc 17,1.3) nhưng chính Người đôi lúc không ngần ngại gây ra bởi những thái độ không phù hớp với dư luận của thời đại Người; đặc biệt vì lòng nhân từ khác thường của Người đối với những tội lỗi! Đức Giêsu là “Cứu Chúa” đến độ làm người ta vì thế mà khó chịu. Người tha thứ đến độ gây cớ vấp ngã cho những người công chính.

Ông Giakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”

Thánh Ambrosiô trong bài thuyết giảng của ngài ở Milan đã nói “Không có lỗi khi mình giàu, nhưng khi mình không biết sử dụng tài sản của mình… “ Và toàn bộ Tin Mừng của Thánh Luca dường như muốn nói rằng cách duy nhất sử dụng hợp lý tài sản của thế gian này là chi dùng nó, đem cho nó đi! “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí” (Lc 12,33). “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn hữu (Lc 16,9).

Giakêu đã bị đảo lộn bởi lòng quảng đại của Đức Giêsu đối với ông. Ông muốn đem lại cũng niềm vui ấy cho những Người khác.

Giakêu khốn khổ với tất cả vàng bạc của mình.

Giakêu hoàn toàn sung sướng khi chia sẻ niềm vui.

Đức Giêsu mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”

Đức Giêsu đã qua những giờ nói chuyện trực diện với Giakêu. Họ đã nói với nhau điều gì? Họ đã ăn uống cùng bàn… mặt giáp mặt. Trong mọi tôn giáo kể cả tôn giáo ở Israel, Thiên Chúa là Đấng đáng sợ mà Đền thờ khuyến khích sự kính sợ linh thiêng đó.

Trong Đức Giêsu, chính Thiên Chúa di chuyển và đến ở nhà kẻ tội lỗi; vậy từ ngày đó, các nhà thờ, kể cả những đại thánh đường chỉ là ngôi nhà khiêm tốn của Giakêu; nơi mà những lũ tội nhân và các thánh tìm gặp nhau với Thiên Chúa trong tình huynh đệ. Giáo Hội chuộc “những gì đã mất”.

Giờ đây, Giakêu có thể mang tên thật của mình: “Người thanh khiết”, người được thanh khiết hóa.

 

  1. Chú giải của Fiches Dominicales

TẠI GIÊRICÔ, HAI ÁNH MẮT GẶP NHAU

BẮT NGUỒN CHO MỘT KHỞI ĐẦU MỚI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Giêricô chặng dừng chân cuối cùng trước khi lên Giêrusalem:

Căn cứ vào Luca 9,51, chuyến đi Giêrusalem lần này là lần chót, nên Đức Giêsu đi tới Giêricô, thành phố giáp ranh và là cửa ngõ đưa vào Đất Hứa.

Đức Giêsu lại loan báo lần nữa về cuộc khổ nạn sắp tới của mình. Còn các môn đệ thì vẫn ngỡ ngàng, “không hiểu”, “không rõ” (18,31) gì cả. Nên khi gần tới Giêricô, Đức Giêsu đã mở mắt cho một người mù và lấy anh ta ra làm gương cho các ông: “Lập tức anh ta nhìn thấy được và theo Người” (18,35-43).

Chính trong chuyến đi ngang qua thành phố này, Luca kể lại câu chuyện mà chỉ riêng Tin Mừng ngài có, câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Giakêu, một người với cái tên có nghĩa là “người thuần khiết” thì quả là nghịch thường. Bởi lẽ tất cả cuộc sống xem ra phải đưa đẩy ông đến chỗ xa rời Nước trời.

Giakêu là người tội lỗi công khai. Ông làm nghề thu thuế, một nghề đáng khinh bỉ của những người “publicanô”, những tên thu thuế làm lợi cho đế quốc Rôma. Phải gọi ông là “đầu sỏ” publicanô mới đúng. Giakêu lại giàu có nữa. Câu chuyện kể lại trước đây về cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và “người thanh niên giàu có” (18,18-30), càng làm sáng tỏ hơn sự giàu có có thể là trở ngại cho lời mời gọi của Tin Mừng.

  1. Đám đông: vai trò quan trọng trong câu chuyện.

Thường thường bị quên lãng trong các chú giải, “đám đông” xem ra không có được vai trò quan trọng mấy để làm cho câu chuyện thêm phần sinh động.

– Trước tiên, đám đông cản trở ước muốn của Giakêu; ông muốn “xem cho biết Đức Giêsu là ai”, nhưng khổ nỗi dân chúng thì đông, mà “ông ta lại lùn”.

Đám đông còn gây cản trở cho thái độ Chúa đã chọn đối với Giakêu. Họ giống như các người biệt phái và kinh sư vốn bất bình trước thái độ Chúa niềm nở tiếp đón và cùng ngồi ăn uống với những kẻ tội lỗi (Lc l5), và cũng giống như các Kitô hữu ở Giêrusalem sau này, đã tỏ thái độ bực bội trước cách xử sự của Phêrô khi vào nhà viên đại đội trưởng Rôma ở Xêdarê (Cv 10 và 11) họ nổi loạn, họ gầm lên: “Thấy vậy mọi người xầm xì với nhau: Nhà một người tội lỗi, mà ông ấy cũng vào trọ” (19,7)

  1. Những ánh mắt, cử chỉ, lời nói đầy ý nghĩa:

Chúng ta vừa mới quan sát những cái nhìn, thái độ, lời nói của đám đông, vốn chỉ dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài. Ta hãy đi sâu hơn vào chiều sâu của bài tường thuật bằng cách giờ đây chú ý đến những ánh mắt, thái độ và lời nói của Đức Giêsu cũng như của Giakêu. Suốt bài tường thuật này, Đức Giêsu không ngừng biểu lộ sáng kiến của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những con người tội lỗi.

+ Người “đi ngang qua Giêricô”, trước khi lên Giêrusalem nơi người sắp tự ý hiến dâng mạng sống mình có ý tìm kiếm và cứu vớt những gì đã mất.

+ Người “nhìn lên” Giakêu mà thường thường thì người ta nhìn xuống mới phải, vì ông lùn.

+ Người tự làm người khách không mời khi vào nhà một người thu thuế, đang khi thường thường chẳng có ai bước vào đó, trừ khi bị gọi đến vì chuyện thế má: “Hôm nay, tôi phải lưu lại nhà ông”.

+ “Niềm vui” gặp gỡ làm nẩy sinh nơi người tội lỗi ước vọng thiết tha được khởi đầu một cuộc sống mới: “Thưa Ngài, đây là phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền bù gấp bốn”.

+ Sau cùng Chúa Giêsu tỏ cho chủ nhà biết rằng cuộc gặp gỡ này mang “ơn cứu độ” cho ông ta ngay “hôm nay”: nhà người tội lỗi đã trở nên nơi Thiên Chúa cư ngụ:

– Về phần Giakêu, việc ông di chuyển vị trí là dấu hiệu chứng tỏ nội tâm ông đang có sự chuyển biến, điều mà ông hằng mong muốn.

+ Vì người ta quá đông, mà ông lại thấp bé, nên ông “liền chạy tới trước, leo lên một cây sung”.

+ “Vội vàng”, ông tụt xuống khỏi cây, theo lời Chúa gọi.

+ “Mừng rỡ”, ông đón tiếp Chúa vào nhà ông.

+ Và lòng ông mở ra để biết sống chia sẻ và thực thi công bình với mọi người.

Giakêu, con người đã mất thanh danh, bị người đời coi rẻ, bởi cái nghề nghiệp đã xếp ông vào hạng “người tội lỗi” lại được nghe gọi tên mình: “Giakêu”, lại được Đức Giêsu công khai nhìn nhận mình là “con cháu tổ phụ Apraham”.

Chính ông vì muốn tìm cách để “xem” cho biết “Đức Giêsu” ấy là ai khi Người đi ngang qua thành, thì giờ đây lại đứng ra thưa với “Chúa” về quyết định làm lại cuộc đời của mình, đồng thời chính ông cũng được nghe từ miệng “Con Người” nói cho ông biết rằng “ơn cứu độ đã đến cho nhà ông”.

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. Cùng với Giakêu, chúng ta hãy khám phá ra ơn tha thứ là gì.

Làm sao để khám phá ra ơn tha thứ là gì? Trong lãnh vực này cũng như nhiều lãnh vực khác, Tín Mừng thường đi ngược với suy nghĩ của ta, bắt buộc ta phải nhìn từ khía cạnh ngược lại nghĩa là không nhìn sự tha thứ, nhưng nhìn ơn được thứ tha.

Kẻ được ơn tha thứ sẽ ra sao? Giakêu chẳng phải là điển hình tốt hơn đó sao? (Lc l9,l-10). Điều gì đã xảy ra giữa Đức Giêsu với ông? Ông chẳng có gì to tát đâu. Chỉ một ánh mắt của Thầy khi đi ngang qua, chỉ một tia nhìn hướng về phía anh chàng lùn ấy đang núp trên cây sung thôi. Và rồi kìa, Đức Giêsu tự đóng vai người khách không mời, đến nhà Giakêu dùng bữa, mặc dầu ông chưa lên tiếng mời. Giakêu đã quay trở lại với Đức Giêsu. Cuộc sống ngày mai hẳn sẽ khác với nếp sống hôm nay lắm. Tưởng chừng như nghe dư âm của lời Chúa trong sách Êgiêkien: “Ta không muốn kẻ gian phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối là được sống” (Ez 18,23).

Những cảnh tha thứ thuộc loại này không phải chỉ trong Tin Mừng mới có mà thôi. Trong khung cảnh gia đình, thường khi xảy ra những “lỗi lầm” có lẽ không quá nghiêm trọng, chúng ta thảy đều đã sống kinh nghiệm của sự tha thứ. Các bậc làm cha mẹ khi biết tha thứ cho nhau, đều tìm lại được đà tiến sau khi đổ vỡ. Đôi khi chỉ cần một ánh mắt thôi, mà đứa trẻ cũng dần dần học được sự tha thứ. Lời Chúa cũng tỏ cho ta biết, trong nếp sống ngày qua ngày của ta, điều gì làm cho ta nên cao thượng.

Đối với hai người là vợ là chồng, thì việc tha thứ cho nhau không chỉ nhất thiết là đòi hỏi về mặt đạo đức, mà còn thuộc lãnh vực đức tin được hiểu là ơn tận hiến cho nhau. Được tha thứ, chính là tin rằng tha nhân vẫn còn yêu ta; niềm vui bắt đầu nẩy sinh khi ta ngỡ ngàng khám phá ra ràng tha nhân có khả năng yêu thương ta thực sự, cũng như ta có khả năng, mặc dầu về phía ta cũng có những khía cành tăm tối khiến chính ta cũng phải khổ. Thanh thản có cái nhìn như thế về ta, cái nhìn làm cho thấy được con người, nguyện vọng và cả bên kia những lỗi lầm của ta, là một cái nhìn làm ta phát triển, mời giọi ta phát triển hơn nữa. Cái nhìn ấy hướng ta về tương lại, cứu thoát ta khỏi chính bản thân mình.

Tha thứ nói cho cùng là chuyện đơn giản lắm, là cứ tiếp tục yêu thương đi. Đôi khi chính là làm hồi sinh lại tình yêu nếu đang lụi tàn. Lúc ấy người ta đã giết chết sự hận thù. Sức mạnh của sự chết không chiến thắng được sức mạnh của sự sống nữa. Tha thứ chính là mở ra tương lai, là đặt lòng tin tưởng của mình nơi tha nhân, là tin vào ánh sáng cùng với sự rủi ro đi kèm. Hơn một lần sẽ có thể bị nhạo báng, hiểu lầm. Tin người vẫn luôn luôn là một rủi ro phần nhiều sự tha thứ không chỉ là liên hệ giữa hai người mà thôi, mà còn có cả người thứ ba nữa. Trong Tin Mừng Luca (7,36-50), ngoài Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình, còn có cả ông Simon tiêu biểu cho dư luận quần chúng. Dư luận này thích đóng vai quan toà, không ủng hộ cho việc tha thứ. Dẫu sao con người chỉ cảm thấy mình được tha thứ thực sự, sau khi đã được người chung quanh yêu mến và tin tưởng.

Với mỗi người chúng ta, tha thứ là hành trình lâu dài khám phá tha nhân. Còn Thiên Chúa chính Người là sự tha thứ. Người đã tha thứ cho ta trước khi ta cầu xin Người: vì Người yêu ta và biết rõ ta; vì người yêu ta và tin tưởng ta. Giữa chúng ta với nhau, sự tha thứ luôn luôn là hỗ tương; một ngày nào đó, ta sẽ phải xin lỗi người ta tha thứ hôm nay. Đối với Thiên Chúa thì khác. Chính Người là nguồn ơn tha thứ và khi ta muốn cầu nguyện thì không phải nói: “xin tha thứ cho chúng con, như chúng con cũng tha thứ” mà tốt hơn nên cầu nguyện rằng: “Xin cho chúng con biết tha thứ, như Chúa hằng thứ tha”.

  1. “Giakêu: tên người thu thuế ở Giêricô đã lưu danh hậu thế”

“Đó là một anh chàng đã “quên” lớn lên, nên đành phải miễn cưỡng chấp nhận vóc dáng nhỏ thó của mình.

Vậy mà chàng ta cũng đã leo lên được nấc thang xã hội, đã đạt được vị trí ước mong, đã thu tích được một gia tài. Chàng có được gia tài này, một phần là nhờ trí tuệ, sự miệt mài làm việc; một phần cũng là nhờ bòn mót và kiếm chác của người khác. Bởi lẽ chàng là người thu thuế.

Chàng cũng đã không coi rẻ việc phải cộng tác nào đó với quân chiếm đóng, một phần vì không thể làm khác, một phần cũng vì “nồi cơm” của chàng.

Này kìa, chàng đã được ngồi ở một địa vị cao trong xã hội, đang khi chính chàng lại chỉ là con người nhỏ thó. Có địa vị không thiếu gì, luôn được thoả mãn, giàu có. Mấy ai được như chàng.

Cùng lúc đó, từ một góc bé nhỏ của bản thân, chàng cảm thấy có một cái gì đó làm chàng không hài lòng mấy. Chàng thấy thiếu một cái gì đó mà không biết xác định rõ là cái gì. Thế rồi, ngày hôm đó, trong thành phố của chàng có một vị ngôn sứ của Thiên Chúa đi qua. Giả như Thiên Chúa dạo chơi tới nhà bạn, hẳn bạn sẽ không bỏ lỡ cơ hội để xem Người thế nào, hoặc nghe người nói gì!

Phố xá đầy người. Thật là náo nhiệt Chàng là một viên chức cao cấp không lẽ lại trà trộn với đám lệ dân kia. Hơn nữa chàng còn phải len lỏi lên được hàng đầu mới có cơ may trông thấy được vị ngôn sứ. Còn mặt mũi nào. Vả lại chàng cũng chẳng thích như vậy.

Có một cây lớn đây rồi, mà lại là cây sung. Thật là một đài quan sát tuyệt vời. Từ đó, chàng có thể nhìn thấy hết, mà không có nguy cơ bị người ta nhìn thấy mình.

Nhưng không sự thể lại hoàn toàn trái ngược: vị ngôn sứ của Thiên Chúa trông thấy chàng. Ngài chú ý đến chàng, như thể trước đây vẫn đang tìm chàng. Quan sát từ trên cây cao, chàng nghĩ là có thể hay biết hết, mà chẳng phải liên luỵ gì! Nhưng không! Sự thể lại hoàn toàn trái ngược: Thiên Chúa bắt chàng phải liên lụy với đám đông. Thiên Chúa hỏi han chàng giữa đám dân phố của chàng. Tự Ngài ra dấu bảo chàng xuống khỏi cây. Rồi ngỏ ý muốn được mời đến nhà chàng. Thế là chàng buộc lòng phải quyết định!

Đừng ở trên đó mà nhìn như khách bàng quan nữa? Xuống mau lên! Nhập bọn với dân phố và chỉ cho họ biết bạn thấy Chúa thế nào, phản ứng ra sao khi nghe lời Người và bạn sống làm sao để chứng tỏ Chúa đã đi vào đời bạn.

Ngày hôm đó, một anh chàng nhiều tiền lắm của phần nào do kiếm ăn bất chính và tự mãn, với địa vị là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu. Nhà của anh ta trở thành nhà của Thiên Chúa.

Anh ta đã hiểu ra rồi. Anh cho đi của cải, cho đi bản thân mình. Đó chính là ơn cứu độ cho cả nhà anh, và tên của anh lưu danh hậu thế: Giakêu!

 

  1. Suy niệm của William Barclay

Giêrikhô là một thành rất giàu có và quan trọng, nằm trong vùng thung lũng sông Giođan, là giao điểm của đường lên Giêrusalem và các lối qua sông Giođan để tỏa về các vùng đất phía sông Giođan. Giêrikhô có một rừng chà là rất lớn, những vườn cây thuốc thơm nổi tiếng quốc tế, cách xa mấy dặm vẫn ngửi thấy mùi thuốc thơm. Các vườn hoa hồng ở đó cũng rất nổi tiếng. Người ta gọi Giêrikhô là “thành cây chà là”. Sử gia Do thái Josephus gọi là “Khu đất thần tiên, khu đất màu mỡ nhất của Phalettin”. Người La mã chở trái chà là và dầu thơm từ đó đi bán khắp nơi trên thế giới. Tất cả những hoa lợi đó hợp lại khiến nó trở nên một trong những trung tâm quan thuế lớn nhất trong cả xứ Palettin. Giêrikhô cũng là thành phố nổi tiếng về đức tin cũng như về không tin “Bởi đức tin tường thành Giêrikhô đổ xuống”, cũng bởi không tin đến mù quáng những tường thành đã được xây dựng lại để hình phạt đã giáng xuống trên người ương ngạnh. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành này, Ngài cũng phải chứng kiến cả đức tin lẫn không tin: sự không tin của dân chúng và đức tin của một người tên là Giakêu. Trong nước Palettin có nhiều loại thuế, và cách đánh thuế của họ là cơ hội thuận tiện cho những nhân viên thâu thuế làm giàu mau chóng. Tên Giakêu có nghĩa là “thanh khiết” nhưng dùng nó để chỉ con người người này thật không đáng chút nào. Những ai biết rõ ông sẽ gọi ông là tên ác ôn và có lẽ họ gọi đúng. Ông đứng đầu những người thâu thuế. Có thể có nhân viên thâu thuế lương thiện, nhưng như vậy ông ta sẽ phải nghèo. Các người thâu thuế thường làm giàu bằng tống tiền và tham ô. Giakêu là một người đã tiến tới mức cao nhất trong nghề nghiệp nhưng cũng là người bị khinh ghét nhất trong vùng.

  1. Giakêu giàu có nhưng không vui thỏa.

Dĩ nhiên ông cô đơn trơ trọi vị đã chọn con đường làm cho mình thành một con người bị xã hội xa lánh. Ông đã nghe nói về Đức Giêsu hay tiếp nhận các người thâu thuế và những tội nhân và ông cũng muốn thử xem thái độ của Ngài đối với ông. Bị mọi người khinh chê ghét bỏ, ông tìm đến với tình yêu Chúa.

  1. Giakêu quyết định nhìn xem Chúa Giêsu và không muốn để bất cứ điều gì cản trở mình.

Đối với Giakêu, trà trộn với đám dân chúng là một việc đòi hỏi nhiều can đảm, bởi nhiều người sẽ lợi dụng cơ hội đó để tặng anh chàng thâu thuế lùn tịt này một cái đá, một cái đấm, một cái xô đẩy… Đây là một dịp may mà họ không bỏ qua đâu! Ngày đó Giakêu có thể bị chen lấn, xây xát, ông sẽ không thể nhìn thấy Chúa Giêsu và đám dân chúng lấy làm khoái chí khi làm cho Giakêu không thể thấy. Vì thế ông đã chạy trước trèo lên cây sung, đó là thứ cây thường mọc bên đường, có nhiều lá cho bóng mát rất dễ trèo vì thân ngắn và nhiều cành tỏa ra tứ phía. Mọi sự đều khó khăn cho Giakêu, nhưng con người thấp hèn này có can đảm của con người tuyệt vọng.

Thiện chí của ông được đền đáp bất ngờ, vì khi Chúa Giêsu tới chỗ ấy, Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Đây là lần duy nhất Chúa Giêsu tự mời Ngài làm khách, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài luôn sẵn sàng trú ngụ trong những tấm lòng mở rộng để tiếp đón Ngài. Có người bảo rằng Giakêu đã “theo đạo” trước khi ông xuống tới đất. Chắc chắn đã có một sự thay đổi lớn lao trong lòng ông khi ông biết rằng Chúa Giêsu đã biết ông tường tận, và ông đoán được Chúa sẽ làm gì cho mình.

  1. Giakêu đã nhân cơ hội để tỏ cho xã hội của ông biết rằng ông đã được thay đổi.

Khi Chúa Giêsu nói với ông rằng hôm nay Ngài sẽ đến nhà ông, và khi ông đã khám phá ra rằng mình đã gặp được một người bạn mới rất tuyệt diệu, lập tức ông có một quyết định. Ông đã quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm. Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (x, Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5. Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải. Giáo sĩ Boreham có kể một chuyện đáng sợ. Trong một buổi họp kia, khi vài bà đứng lên làm chứng ơn phước đã được ban, có một bà ngồi câm lặng buồn rầu. Người ta mời bà làm chứng đứng lên thì bà từ chối. Khi hỏi lý do, bà trả lời: “Trong số những bà vừa đứng lên làm đó có bốn bà nợ tiền tôi mà tôi và gia đình tôi đang đói lắm vì không có tiền mua thức ăn”. Lời chứng sẽ hoàn toàn vô giá trị nếu không được bảo đảm bằng hành động thực tế xác chứng cho sự thành thực của lời nói. Chúa Giêsu không đòi sự thay đổi trong lời nói, nhưng Ngài đòi hỏi sự thay đổi trong đời sống.

  1. Câu chuyện chấm dứt bằng lời câu bố long trọng: “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.

Chúng ta phải luôn cẩn thận để hiểu ý nghĩa của chữ “mất” này. Trong Tân ước, chữ mất không có nghĩa là bị đoán phạt hay kết án, mà chỉ có nghĩa “ở sai chỗ”. Một cái gì mất là khi nó ra khỏi chỗ riêng của nó, ở vào chỗ không đúng của nó. Một người lạc mất là khi người đó lìa khỏi Thiên Chúa, và người đó được tìm thấy khi người đó bước vào chỗ thích hợp của mình như một người con vâng phục trong nhà và gia đình của cha mình. Bởi tin vào Chúa Giêsu, người thâu thuế thành Giêrikhô đã chứng tỏ mình là con cháu của Ápraham “Cha của mọi kẻ tin”. Lòng tin cậy nơi Chúa Giêsu đem lại ơn cứu rỗi dành cho tất cả mọi người, cả cho những kẻ thấp hèn, tuyệt vọng và khinh miệt nhất.

 

home Mục lục Lưu trữ