Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 52

Tổng truy cập: 1452591

DƯỚI TÁC ĐỘNG THÁNH THẦN

Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An

Như vô tình Chúa gặp gỡ và gõ cửa lòng người thiếu phụ Samaria bên bờ giếng. Coi thường thành kiến và dị nghị, Chúa lưu lại vài ngày để truyền rao ơn giải phóng và hình thành tiểu tổ tín hữu đầu tiên tại Samaria. Khi Philipphê xuất hiện, họ niềm nở đón tiếp, lắng nghe và tin tưởng. Qua Phêrô và Gioan họ lãnh nhận Thánh Linh. Từ đó, Samaria không còn là vùng đất kiêng kị và cần xa lánh, nhưng là tiểu tổ đáng yêu của nhiệm thể Chúa Kitô. Ơn Chúa Thánh linh tác động thật tài tình và không ai hiểu thấu!

Thánh Linh qui tụ nhân loại vào một mối, không phân biệt phong tục, tiếng nói, mầu da và văn hóa. Thánh Linh kết thân mọi dân nước, xoá bỏ hiềm thù và tạo cảm thông. Thánh Linh thôi thúc mọi lứa tuổi sống đức tin và hoạt động trong những phạm vi đặc thù. Thánh Linh khơi dậy những nguồn sống mới thích nghi với mỗi thời. Thánh Linh canh tân, biến đổi và sửa sai Giáo hội theo tinh thần trách nhiệm và tạo cho Giáo hội một bộ mặt mĩ miều. Thánh Linh chính là Nội tướng của mỗi tâm hồn, đưa chúng ta ra khỏi tình trạng thỏ đế, vững tin bước vào đời và sống chứng nhân giữa đời.

Bước đầu chúng ta nhát sợ, luống cuống vì thiếu niềm tin, mặc cảm yếu hèn, lẻ loi và cô độc. Lúc ấy chúng ta như một em bé ngày đầu tiên lên trường một mình. Bước ra khỏi nhà mà mắt còn rướm lệ vì “con đã lớn rồi! mẹ không thể dẫn con đi hằng ngày.” Tại ngã tư chúng ta còn ngoái cổ lại nhìn ngôi nhà thân thương, và chợt thấy mẹ vẫn đứng trông theo sau bức rèm. Mẹ như thầm nhủ rằng “can đảm lên con! mẹ vẫn âm thầm theo dõi và ngó chừng con!”

Chúa Kitô đã chuẩn bị ngày ra dàn của các tín hữu tương tự như thế. Sau những chuỗi ngày cùng sống, cùng chơi, cùng học, cùng tôn thờ và củng cố đức tin trong vô tư và vô trách nhiệm, Chúa sai chúng ta vào đời trong tư thế là người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, chủ chăn và thầy dạy. Tinh thần tự tin dần dần phát triển. Năng khiếu, tài quán xuyến và chỉ huy bộc phát. Tâm tình cậy nhờ và nương bóng đã biến mất. Chúng ta đủ nghị lực phấn đấu, sinh tồn, hoạch định và phát triển. Đồng thời chúng ta lưu giữ tinh thần “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” quay về yêu thương, giúp đỡ và chăm sóc cái cội nguồn mà từ đó chúng ta phát sinh, trưởng thành và vào đời.

Chúa Kitô ân cần căn dặn và chuẫn bị chúng ta đương đầu với nghịch cảnh, lo sợ và khổ đau. “Thế gian sẽ giét các con, hãy nhớ là họ đã ghét Ta trước” (Jn15,18). “Các con sẽ khóc, sẽ than khi thế gian mừng rỡ. Các con sẽ ưu phiền, nhưng ưu phiền sẽ thành niềm vui” (Jn 16,20). Thấy được tâm tình bất an và khiếp đảm nơi các môn đệ, Chúa Kitô nhấn mạnh “Ta đi thì tốt hơn cho các con... vì Đấng Phù Trợ sẽ đến... Ta không bao giờ để các con mồ côi đâu” (Jn 14,15-17). Giáo hội đã, đang và sẽ phải trải qua và chấp nhận những giai đoạn bất ổn và đau thương này. Giáo hội đã kiên cường sống đức tin, cảm hóa nhân loại bằng yêu thương và đang chiêu hồi những hổ mang, rắn lục, gấu beo... bằng nhân nghĩa và tình thương. Khi nào không còn hận thù, ghét ghen, bất công, bất nhân... trên mặt đất thì bấy giờ sứ mạng của Giáo hội mới hoàn tát và viên mãn.

Chúa dùng các môi trường khác nhau để chúng ta thi thố tài năng, biểu lộ đức tin, tự lực cánh sinh và hành trình về nước trời. Chúa tôn trọng quyền sống, quyền lựa chọn và quyền sáng kiến của mỗi tín hữu. Bởi vậy nhân sinh đa dạng là sắc thái trăm hoa đua nở trong vườn hoa thánh, luôn được khích lệ theo ơn Chúa Thánh Linh. Bao lâu nguyên tắc căn bản “nếu các con thương mến Ta, hãy cẩn trọng thực thi giới lệnh Ta trao là các con hãy thương yêu nhau” (Jn 14,15) được thực thi thì bấy lâu lộ chúng ta hành hương là nẻo thanh quang và chính trực. Và chính Ngài, sau rèm đang nâng đỡ và dõi theo, là nguyên nhân và động lực thánh cứu độ chúng ta.


 

37. Dưới tác động Thánh Thần – Lm. Nguyễn Hữu An

Suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.

Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Ki-tô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Ki-tô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy-lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.

Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rô-ma, phải đối diện với ba thách đố lớn là Do-thái giáo, chính trị Rô-ma và triết học Hy-lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do-thái giáo, hội nhập vào triết học Hy-lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rô-ma. Chỉ với những người dân chài Ga-li-lê ít học, chỉ với một Phao-lô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.

Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh I-rê-nê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Ki-tô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”

Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stê-pha-nô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem. Cộng đoàn Ki-tô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Ki-tô hữu”.

Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ của Chúa Nhật hôm nay kể lại vị sứ giả đầu tiên đã mang Tin Mừng đến cho người ngoại giáo, đó là người Do-thái nói tiếng Hy-lạp, phó tế Phi-lip-phê. Ngài tới thủ đô Sa-ma-ri rao giảng làm phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tật. Người ta vui mừng đón nhận và xin theo Đạo (Cv 8, 5-8). Sau khi xứ Sa-ma-ri được đón nhận Tin Mừng, các Tông Đồ đã cử Phê-rô và Gioan đến cũng cố Niềm Tin cho các tân tòng (Cv 8, 14-24).

Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Ki-tô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc, họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.

Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh, những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần, trong mọi thử thách Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.

Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa, thế nhưng những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, bùng nổ thông tin, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ?ã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.

Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Như thế người Ki-tô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây? Bài Phúc Âm chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).

Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Ki-tô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Ki-tô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.

Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ” Đức Ma-ri-a hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bê-lem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.


 

38. Vị Thiên Chúa bị lãng quên

Như chúng ta đã biết: người Do thái không có liên hệ gì với người Samaria. Giữa hai dân tộc này đã có một hố sâu ngăn cách. Từ những khác biết về tôn giáo, về phong tục… Họ đã nhìn nhau bằng ánh mắt hận thù.

Thế nhưng, bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà xứ Samaria:

- Giờ đã đến và đã đến thật rồi, con người phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.

Việc thờ phượng này không phải chỉ giới hạn nơi một dân tộc hay nơi một dòng giống, trái lại phải được trải rộng tới mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

Kết luận về câu chuyện người đàn bà, tác giả sách Tin mừng đã ghi nhận: sau khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều người xứ Samaria đã tin Ngài là Đấng Messia, Đấng cứu độ trần gian.

Sách Công vụ Tông đồ cũng cho thấy: số các tín hữu ngày một gia tăng. Philipphê được sai đến một thành xứ Samaria để rao giảng Đức Kitô cho họ. Dân chúng lắng nghe những lời giảng dạy vì họ cũng đã được biết và được chứng kiến những phép lạ Philipphê đã làm. Họ cảm thấy hân hoan vui sướng.

Các tông đồ ở Giêrusalem, khi hay tin dân Samaria đón nhận lời Chúa, liền cử Phêrô và Gioan đến với họ. Cuộc thăm viếng này đã trở nên như một dấu chỉ cho sự hiệp nhất vào thời buổi lúc bấy giờ.

Đúng thế, lúc bấy giờ có nhiều khuynh hướng khác biệt giữa người Do Thái và người Samaria, giữa những người tin và không tin vào Đức Kitô. Việc sai phái hai vị tông đồ này đã làm cho bức tường ngăn cách bị sụp đổ, chấm dứt óc bè phái và những tranh cãi trong dĩ vãng. Phêrô và Gioan chỉ có một ý tưởng, đó là làm cho những tân tòng trở nên những Kitô hữu trưởng thành.

Tất cả những người Samaria này mới chỉ được rửa tội nhân danh Đức Kitô. Vì thế, hai vị tông đồ đã đặt tay trên họ và họ được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Những kẻ thù ngày hôm qua thì ngày hôm nay đã thực sự là những người anh em trong Đức Kitô.

Được Chúa Thánh Thần soi sáng và thêm sức, họ cảm thấy như mọi thù ghét và oán hận đều tiêu tan. Giờ đây, tất cả chỉ còn là một: một Thiên Chúa, một Đức Kitô, một phép rửa, một Chúa Thánh Thần và một dân tộc. Các tông đồ không hề phân biệt các tân tòng và những người Do Thái đồng hương với mình.

Đây chính là sự hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần mà công đồng Vaticanô II đã mong muốn. Thực vậy, Giáo hội luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu, giữa những người công giáo với những anh em ly khai cũng giữa những người công giáo như với những anh ngoài Kitô giáo.

Chúng ta biết rằng: dưới tác động của Chúa Thánh Thần, những người Samaira đã trở nên những tín hữu trưởng thành. Chúa Thánh Thần chính là Đấng Đức Kitô đã hứa sai đến để đổi mới khuôn mặt địa cầu.

Chính Chúa Giêsu, trước khi về trời, đã phán hứa với các môn đệ:

- Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy tuân giữ những điều Thày truyền dạy. Thày sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ mới. Ngài là thần chân lý và sẻ ở cùng các con luôn mãi.

Nếu chúng ta cố gắng bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần, thì chắc chắn Ngài sẽ đưa chúng ta tới tình yêu thương và hiệp nhất.

Thế nhưng, có bao giờ chúng ta đã cầu nguyện với Ngài khigặp phải những gian thử thách trên đường đời?

Chúng ta thường băn khoăn lo lắng: làm thế nào để có thể sống đạo giữa biết bao nhiêu khó khăn và thử thách trong cuộc đời?

Vậy tại sao chúng ta lại không kêu xin Chúa Thánh Thần ban xuống cho chúng ta sức mạnh và ánh sáng?

Phải chăng Chúa Thánh Thần mãi mãi vẫn là vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống của chúng ta?


 

39. Lề luật yêu thương

Fort Hancock ở đầu xa nhất của miền đất Sandyhock chạy dài tới bờ biển New Jersey. Trong thời kỳ thế chiến thứ hai, nơi này là trung tâm huấn luyện quân đội. Tại khu vực này, có một thường dân rất hăng say đem Tin Mừng Chúa Kitô cho hàng ngàn thanh niên đóng ở đó, nhưng các Vị chỉ huy quân đội không cho phép người đó vào gặp các thanh niên. Anh liền nghĩ ra một phương pháp truyền giáo thực hay: anh đặt một hãng chuyên môn về những hàng mới, làm cho anh vài ngàn tấm gương soi, có đường kính chừng 8 centimet. Ở mặt sau tấm gương, người đó in những lời Tin Mừng theo thánh Gioan 3, 16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Bên dưới những lời này, người đó chỉ dẫn: “Nếu bạn muốn nhìn người mà Thiên Chúa yêu thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là ý nghĩa tuyệt vời, mỗi quân nhân nhìn ngắm mình là họ nhìn thấy người mà Thiên Chúa yêu.

Trên tấm gương soi đó, ta có thể in Mười giới răn như là bằng chứng Thiên Chúa yêu chúng ta. Chúa Giêsu vừa nói với chúng ta: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn thầy”. Chúng ta minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ giới răn của Người. Lề luật Thiên Chúa là những chỉ dẫn yêu thương tốt hảo nhất cho chúng ta. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Điều đó quan trọng nhất! Nhưng chúng cũng nói cho chúng ta biết những gì là tốt hảo nhất cho cá nhân chúng ta và cả gia đình nhân loại.

Bạn hãy coi giới răn thứ nhất. Người ta sẽ tự làm hại mình như thế nào, khi họ không thờ phượng Thiên Chúa chân thật duy nhất. Rồi người ta tôn thờ thứ gì đó không những chỉ ở dưới Thiên Chúa mà còn ở dưới cả con người – mặt trời, con vật, như con bò, con khỉ. Người ta tôn thờ tiền bạc, cái xe quần áo, đồ ăn thức uống. Để bảo vệ chúng ta khỏi các thần kỳ dị đó, Đấng tối cao truyền cho chúng ta tôn thờ một mình Ngài mà thôi.

Điều gì xảy ra khi người ta kêu danh Chúa vô cớ? Vụ Watergate là do những người thề “Không nói gì ngoài sự thật, để Thiên Chúa giúp tôi”, và rằng: lừa dối. Sự thề ẩu như thế ngày nay thường có, làm cho không thể đạt được công lý.

Ngươi sẽ không giết người. Người ta sẽ tránh được những tai họa nào khi tuân giữ lề luật yêu thương đó? Chiến tranh, tàn sát, phá thai, giết người, là bệnh không chữa được, say rượu, lạm dụng ma túy, lái xe liều lĩnh. Vì tình yêu, Thiên Chúa ban luật này để bảo vệ sức khỏe và đời sống của chính chúng ta, cũng như sức khỏe và đời sống của người khác.

Tình yêu nào trong đó giới răn thứ sáu, một lề luật quá thường bị phá thủng do tình yêu sai lầm? Gia đình khổ cực, ly dị, con cái bất hạnh, giết người, bệnh hoa liễu – đó chỉ là vài tai họa mà Thiên Chúa muốn tránh cho chúng ta bằng cách ban cho chúng ta giới răn chống lại ngoại tình, dâm ô.

Ngươi sẽ không trộm cắp, hoặc sẽ không làm chứng gian, ngươi sẽ không ham muốn nhà cửa của đồng lọai. Không mê muốn vợ của đồng loại. Đây là những qui luật tốt nhất cho mọi người.

Khi người mẹ bảo con, “Đừng chơi ở đường phố”. Thì có nghĩa là bà mẹ có yêu con. Thiên Chúa cũng thế.

Khi chúng ta làm mới lại sự chết của Chúa Kitô do chúng ta bất tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, ước gì chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta những lề luật này – vì tình yêu.

Xin Chúa chúc lành cho các bạn.


 

40. Nụ cười của Chúa.

Anh chị em thân mến,

Trên đời này, khi người ta yêu thương nhau, người ta sẽ sẵn sàng sống cho nhau, làm hài lòng nhau, làm theo ý của nhau...Vợ chồng thực sự yêu thương nhau, sẽ cố gắng làm vui lòng nhau. Con cái yêu thương cha mẹ, sẽ cố gắng vâng nghe lời cha mẹ. Học trò yêu mến thầy, sẽ cố gắng giữ lời thầy dạy....Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho đồ đệ mình, một chân lý tương tợ như thế: "nếu anh em yêu mến Thầy, hãy nghe lời Thầy, nghĩa là hãy giữ giới răn Thầy truyền dạy..." (Ga 14, 17). Đây chính là chủ đề của ngày chúa nhật hôm nay. Kính mời anh chị em cùng suy niệm....

a/. Có một vài câu chúng ta cần lưu ý tìm hiểu:

Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ giới răn của Thầy: Chúa biết các môn đệ yêu mến Ngài, nhưng lòng yêu mến đó không phải là thứ tình cảm suông, mà phải được thể hiện bằng việc làm cụ thể, là vâng theo thánh ý Chúa, và tuân giữ luật Chúa bằng việc yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Đó là giới răn yêu mến (Mt 22, 40).

Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy: Thiên Chúa yêu thương con người trước; nhưng khi con người sẵn sàng tuân giữ luật Chúa, điều đó chứng tỏ họ trân trọng và muốn phát triển tình yêu của Thiên Chúa nơi bản thân họ. Nói cách khác, tình yêu của Thiên Chúa nơi họ có kết quả, và vì họ trung kiên trong tình yêu mến đó, nên họ cảm được, hiểu được, thấm được nhiều điều Thiên Chúa mạc khải cho họ...

Ca dao, châm ngôn VN nói về qui luật của tình yêu và qui luật của người được yêu, rất chí lý:

* Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chổ lệch cũng kê cho bằng.

* Yêu nhau trái ấu cũng tròn...

* Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười...

b/. Câu chuyện minh họa: Một bác sĩ giải phẩu người Mỹ, đã vâng theo tiếng gọi của Chúa: "nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ các giớí răn của Thầy...". Vì thế ông đã bỏ mọi sự, tới một hòn đảo xa xăm trên Thái Bình dương, một nơi dân chúng rất nghèo khổ, thiếu thốn đủ mọi thứ. Một vị mục sư là bạn thân của bác sĩ, một hôm chuẩn bị đến thăm ông. Vì muốn để cho bác sĩ bị bất ngờ, nên ông mục sư đã không báo trước... Vừa tới nơi, ông thấy bác sĩ vừa giải phẩu đôi mắt cho một em bé gái 8 tuổi. Bác sĩ đi ra, vui mừng vì ca giải phẩu thành công. Ông mục sư hỏi: nếu ở Mỹ, ông được trả bao nhiêu? - chắc chắn không dưới 3000 đô. - Còn ở đây, bao nhiêu? Bác sĩ trả lời: Tôi không biết, có lẻ vài xu cộng với nụ cười của Thiên Chúa.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy ông bác sĩ đã chọn một việc là: đi tìm kiếm nụ cười của Thiên Chúa hơn là tìm kiếm tiền của vật chất. Chắc chắn là như thế, vì nếu muốn tìm kiếm tiền của, ông bác sĩ đã không bỏ quê hương nước Mỹ êm ấm của mình, để đến sống một nơi nghèo khổ, thiếu thốn như thế này....

c/. Gợi ý sống và chia sẻ:

Yêu mến Thiên Chúa không phải chỉ là tình cảm suông mà còn phải vâng giữ luật của Thiên Chúa nữa. Ít có người công giáo nói mình là không yêu mến Chúa; nhưng thực tế lại có nhiều người không sẵn sàng tuân giữ giới răn Chúa. Ta là hạng người nào trong số đó? Ta có luôn đổ thừa tại vì mình yếu đuối, nên chưa đủ sức sẵn sàng giữ luật Chúa như Chúa mong muốn?

home Mục lục Lưu trữ