Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 93
Tổng truy cập: 1446789
ĐỨC VUA QUYỀN LỰC NHẤT
Đức Vua Quyền Lực nhất - AM Trần Bình An
Đương kim Tổng thống Uruguay, Jose Mujica Cordano được giới truyền thống Tây Ban Nha gọi là “Tổng thống nghèo nhất thế giới.” Ông Cordano năm nay 76 tuổi, sinh ra trong một gia đình nông dân. Năm 2009, khi được cánh tả giới thiệu tham gia tranh cử Tổng thống, ông từng từ chối khéo léo: “Muốn tôi làm Tổng thống, khó chẳng khác gì dạy lợn huýt sáo.” Tuy vậy, cuối cùng “ứng viên của những người dân nghèo khổ” ấy vẫn đắc cử tổng thống với số phiếu quá bán.
Sau khi lên nắm quyền, ông Cordano từ chối dọn vào Dinh Tổng thống, bởi vì “Dinh Tổng thống rộng hơn quá nhiều so với nhà tù từng giam giữ ông 14 năm”. Ông cũng từ chối bố trí nhân viên tháp tùng và xe ô tô chống đạn đưa đón, để hàng ngày tự lái chiếc xe Fuchs Beetle đã có tuổi thọ 20 năm đi làm. Cuối tuần ông còn tự chăm sóc vườn rau, dắt chó đi dạo, xem thi đấu bóng đá. Người vợ (là Nghị sĩ Quốc hội) của ông thản nhiên mỉm cười trước sự thắc mắc của bên ngoài, và cho biết mình “đã quá quen với những chuyện lạ này rồi”.
Năm 2011, ông Cordano đã bán dinh Tổng thống và 2 căn hộ ở Punta del Este của mình cho Ngân hàng Miền Đông Uruguay với giá 2,7 triệu USD. Ông dùng toàn bộ số tiền bán nhà vào việc thực thi chương trình nhà ở của Chính phủ. Vị Tổng thống nghèo nhất thế giới ấy lại trở thành vị Tổng thống được hoan nghênh nhất tại châu Mỹ La-tinh bởi tấm lòng nhân ái của ông. Sau khi đắc cử Tổng thống, ông Cordano đã tuyên bố: Quyên góp 90% tiền lương cho Quỹ Cứu trợ những người vô gia cư.
Khi được gọi là "Tổng thống nghèo nhất thế giới", ông Cordano chỉ nói: "Tôi không nghèo chút nào cả, những người nói tôi nghèo mới thật sự nghèo. Nói tôi chỉ có một vài thứ quả là không sai, tằn tiện, chất phác khiến tôi cảm thấy đầy đủ và sung túc". (Theo Dân Việt)
Tuy Tổng thống Jose Mujica Cordano sống đạm bạc, yêu dân, nhưng chưa thể nào sánh với Đức Vua Giêsu lừng lẫy. Trích thuật Tin Mừng hôm nay phác họa chân dung Vua Người Do Thái thật thảm hại. Tuy nhiên phản ảnh khá chính xác một vài đức tính nổi trội của Đức Vua Giêsu. Người chính là Đức Vua Quyền Lực nhất thế gian, chí ái, phục vụ và nghèo khó tột cùng.
Đức Vua uy quyền vô song
Chẳng bao giờ có vị vua thế gian nào có thể ban thưởng Thiên Đàng cho thần dân. Cũng chẳng có vua nào có thể xóa sạch hết các vết nhơ của tội nhân. Cùng lắm chỉ tha thứ một vài tội lỗi nào đó, chứ không thể nào thanh tẩy cả linh hồn thần dân, trở nên trong sạch.
Thế mà, Đức Vua Giêsu đã quả quyết với phạm nhân sám hối: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Thật lòng sám hối, bao nhiêu tội lỗi tôi vấp phạm, cũng được Người tẩy sạch qua bí tích Hòa Giải. Tuy nhiên, nhiều lúc tôi lại thường dại dột chạy đến các vua chúa thể gian, để xin khoan hồng dung tha, để khỏi bị tử hình. Tôi đâu nhớ đến Đức Vua Uy Quyền vô song, có thể cho tôi được sống đời đời. Tôi dửng dưng, vô ơn, bất kính với Người trong sinh hoạt thường ngày. Đâu cần biết tất cả hồng ân đều phát xuất từ Người.
Đức Vua Chí ái
Người không những uy quyền, mà còn chí ái nhất. Chẳng có vị vua nào toàn tâm, toàn ý, quan tâm, tận tụy chăm sóc những thần dân thấp cổ bé miệng, bé nhỏ, tật nguyền, bơ vơ, lạc lõng giữa dòng đời. Người tìm đến, mời gọi không nguôi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng." (Mt 11, 28- 30).
Những khi sa cơ thất thế, khi thất bại trắng tay, khi hoạn nạn tai ương, khi bị hành hạ, ức hiếp vì đức tin, tôi có lắng tai nghe thấy tiếng nói an ủi của Người chăng? Hay tôi lại ta thán, thất vọng, đâm ra chán nản, buông trôi theo dòng đời bon chen, lọc lừa, gian lận, tranh sống, thù hận, oán hờn? Đâu cần biết Người đang lo lắng, đôn đáo đi tìm con chiên lạc, tìm đồng xu rơi mất, tìm đứa con đi hoang, đang tan nát cõi lòng vì thói đời đen bạc?
Đức Vua thanh bần
Cũng chẳng có vị vua nào nghèo khó hơn Đức Vua Giêsu. Nghèo hèn ngay từ khi hạ thế làm người ở Bêlem, cho đến khi tử nạn nhục nhã trên thập giá ở Đồi Sọ. Một cuộc đời thanh bần, không tiển bạc, tiện nghi, không chốn nương thân, vô gia cư, vô tài sản đích thực: "Con cáo có hang, con chim có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu" (Mt 8, 20).
Người chẳng hề tư hữu, tích lũy của cải, nhưng Người giàu lòng thương xót. Người chúc phúc cho người nghèo và cả những người có tinh thần khó nghèo: “Phúc cho các ngươi là những người nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi” (Lc 6,20) ”Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo” (Mt 5,3). Vì với tâm hồn nghèo khó, không vướng bận của cải giàu sang, mới có thể sống Lời Chúa tích cực.
Tôi lại cố gắng thoát cảnh nghèo, muốn tận hưởng tiện nghi vật chất, muốn vinh thân phì gia, để khỏi thua kém thiên hạ. Tôi không muốn những ánh mắt rẻ rúng vì nghèo túng. Tôi thích thú những tia mắt ngưỡng mộ sự thành đạt, giàu sang. Tham sân si quá độ, làm sao tôi được vào Nước Thiên Chúa?
Đức Vua Phục vụ
Chẳng có vị vua nào thương yêu, tận tụy phục vụ đệ tử, thần dân như Đức Vua Giêsu. Từ bỏ vương quyền cao sang, Người quên mình, khiêm tốn, quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Người tuyên bố: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20:28).
Người trở nên con chiên hiến tế, gánh tội trần gian, phục vụ cho sự cứu rổi nhân loại, chịu mọi khốn khó, bị khinh ghét, bị vu oan, chịu khổ nạn và chịu đóng đinh, hầu cứu chuộc loài người khỏi án phạt trầm luân. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13)
Tôi lại luôn muốn được phục vụ, kính nể, ngợi khen, thậm chí còn coi tha nhân như phương tiện cho tôi tiến thân. Tôi luôn tự ái, bất bình khi ai đó xúc phạm, nhận xét, phê bình, hay chỉ trích các thói hư tật xấu, dù rất chính xác, dù rất tích cực, thiện chí xây dựng, sửa chữa lỗi lầm của tôi. Thế mà tôi vẫn vênh váo, dám mạo nhận mình trung thành theo Đức Vua Phục Vụ.
Lạy Chúa, Đức Vua cao cả của thần dân chúng con, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau, biết sống tinh thần nghèo khó, biết phục vụ tha nhân, cũng như chính Chúa đang hiện diện, để chúng con được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là hiền mẫu của chúng con, xin luôn nhắc nhở chúng con là con cái thân thương của Thiên Chúa, luôn biết tuyên xưng danh Chúa, luôn biết khiêm nhường, yêu thương, giúp đỡ mọi người, mọi lúc, để chúng con luôn sống trong ân sủng Ngài. Amen.
32. Suy niệm của Antôn P. Nguyễn Xuân Thuyên
Chúa nhật 34 thường niên hôm nay cũng là kết thúc năm Phụng Vụ, Giáo Hội tôn kính vương quyền của Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô vua Tình Yêu. Đây là dịp để chúng ta tìm hiểu Vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ, Ngài đã cai trị vương quốc của Ngài bằng cách nào, để rồi Ngài thông chia vương quyền ấy cho chúng ta?
Trước hết, Thánh Kinh đã hé mở cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là vua. Có ít nhất 3 ngày Giáo Hội đã long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh tước hiệu ấy: lần thứ nhất, trong ngày lễ hiển linh: “Khi Chúa Giêsu sinh ra tại Belem, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến Giêrusalem, và hỏi Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”(Mt 2,1-2). Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Chúa Giêsu long trọng tiến vào thành thánh Giêrusalem. Rồi trước toà án Philatô, ông cho Chúa Giêsu ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan toà. Như vậy, vô tình Philatô công nhận Ngài là vua. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là vua (Ga 18,37). Và Philatô đã truyền cho người ta viết tấm bảng gắn trên đầu thập giá với hàng chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái” (Ga 19,19). Và rồi lần thứ ba, trong ngày Chúa Giêsu lên trời, Hội Thánh tôn vinh vua oai phong đi vào trong vinh quang và đợi chờ ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong ngày cánh chung.
Và trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy nhiều người vô tình hay hữu ý đã ghi nhận Chúa Giêsu là vua: “Nếu ông là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn, hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37); Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hylap, Latinh và Dothái như sau “Người này là vua dân Do Thái” (Lc 23,38); và rồi với lời van xin của tên trộm lành “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (lc 23,42).
Như thế, qua Thánh Kinh đã mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Vua. Và vị Vua Giêsu mà chúng hằng tôn thờ đó đã cai trị vương quốc của mình như thế nào?
Trước hết, Chúa Giêsu không phủ nhận mình là Vua hay vương quyền của mình, vì trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37). Thế nhưng, Ngài không phải là một vị vua đi tranh giành ngôi với hoàng đế Xê-sa-rê hay Hê-rô-đê mà hội đồng công toạ tố cáo (Lc 23,3). Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, không có màu sắc chính trị phàm trần, xâm chiếm lãnh thổ. Ngài không xuất hiện như các ông vua khải hoàn, ngựa xe ngợp trời, tù binh cả đám. Nhưng Ngài ngồi trên con lừa khiêm tốn, hiền hoà theo lời sấm ngôn của Dacaria (Dcr 9,9; Mt 21,5), Ngài đến để đem sự bình an và ơn công chính đến cho mọi người chứ không phải mang gươm giáo, súng đạn. Ngài đến để cứu kẻ khác chứ không phải để cứu mình (Lc 23,35), bởi vì Ngài là Đấng Kitô đến để thực hiện chương trình của Chúa Cha, mà chương trình này là “phải qua đau khổ mới bước vào vinh quang”. Ngài là Vua nhưng không phải là vua bóc lột, mà là Vua “hiến mạng sống vì đoàn chiên” (Ga 10,11). Ngài là Vua “đem công lý, hoà bình, hạnh phúc” cho toàn dân. Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện khi Ngài hoàn tất số phận của mình, một “người tôi tớ Đức Chúa”. Trên thập giá Ngài đã đánh bại Xatan, triệt tiêu tử thần, đã đem lại sự công chính hoá cho toàn dân và mở ra thời kỳ ân phúc cho nhân loại (Lc 22,29).
Điều này cho chúng ta hiểu được rằng vương quyền của Ngài không nhằm phục vụ tư lợi cá nhân. Việc Ngài thống trị toàn vũ trụ không phải để tự mãn nhưng là cho con người được sống và sống dồi dào. Chúa Giêsu Vua không cai trị Vương quốc bằng sức mạnh của vũ lực, nhưng bằng phục vụ, yêu thương. Con người xem ra mạnh hơn Chúa Kitô trong việc áp đảo và bắt bớ. Nhưng điều đó không làm cho Chúa Giêsu bận tâm. Hơn nữa, chính việc Chúa Giêsu chấp nhận bị gây thương tích và chết đi nhằm mạc khải cách tuyệt vời bản chất đích thực của Vương quốc Ngài là một Vương quốc của tình yêu thương, yêu cho đến cùng: chết vì người mình yêu.
Nói tóm lại, Vương quyền của Vua Giêsu là hoà giải trời với đất, giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỷ, dẹp tan tội ác, thiết lập một vương quốc “chân lý, ánh sang, bình an, sự sống, công bình và tình thương vĩnh cửu”, trong đó mọi người đều hạnh phúc, không còn cảnh người bóc lột người, không còn cảnh khổ đau (Rm 14,17; Ga 18, 38).
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,
Qua lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ hôm nay, mỗi người chúng ta cần phải tự hỏi mình có chấp nhận vương quyền của Ngài hay không? Ta có để cho Chúa làm chủ, làm vua tâm hồn và đời sống của mình hay chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế nào trong đời sống của chúng ta? Chúng ta nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một việc dễ dàng, còn việc để Chúa làm vua tâm hồn và đời sống của mình không phải là một việc dễ dàng tí nào, vì chúng ta còn quá nhiều lệ thuộc cho tự do ích kỷ của chúng ta, chúng ta còn nô lệ cho quá nhiều những cám dỗ đầy ngon ngọt của vương quốc ma quỉ.
Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua tâm hồn và cõi lòng chúng ta. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo: một là Chúa Giêsu, hai là ma qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”, bởi vì người ta thường nói:
Một nhà hai chủ không hòa,
Hai vua một nước, ắt là không yên.
Vậy chúng ta phải theo vị thủ lãnh nào? Chắc chắn chúng ta chọn Chúa Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng ta đã được chịu phép rửa tội. Và qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được thông phần vào cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng làm vua của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã làm cho vương quốc của Chúa Kitô cũng là vương quốc của chúng ta phát triển và lan toả hay chưa? Hay nói cách khác đời sống của chúng ta có nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến hay chưa?
Ước gì qua thánh lễ hôm nay, xin Chúa Kitô là Vua vũ trụ và là Vua của lòng trí chúng ta đổ tràn đầy tình yêu Chúa xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cho chúng ta bừng cháy lửa tình yêu Chúa để chúng ta biết đón nhận Chúa trong anh em, để từ đó ngọn lửa tình yêu Chúa lan toả ra những anh chị em sống bên cạnh chúng ta, và nhờ đó mọi người nhận ra Nước Cha đang trị đến. Amen.
33. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
(Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Cách đây hai ngàn năm, một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn. Hai người gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng trưng cho quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao. Cuộc gặp gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là người bị hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai giữa hai nhân vật này.
“Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có lẽ nào người hiện diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một vị tổng trấn uy quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một vị vua theo quan niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này.
Hai ngàn năm đã qua sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức như Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương quốc ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này.
“Vậy ông là vua sao?” Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu hỏi này, Đức Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói: “Chính ngài nói rằng tôi là vua”. Tiếp đó, Người minh định rõ ràng chức năng vương hoàng của Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là đã rõ, vương quốc của Chúa là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị xiềng xích. Sự thật cũng như trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ hay thế mạnh quân sự. Sự thật đã và đang đem lại chiến thắng cho con người.
“Nước tôi không thuộc chốn này”. Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không muốn để cho Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian. Không chỉ Philatô, mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc trình bày tước vị “Vua” của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất bại. Đã có thời trong, khá nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan niệm sai lầm về sức mạnh của Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế lực trần gian hoặc do sức mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những bài học chua cay. Đức Giêsu tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc Người bị điệu ra trước pháp đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm vua để phục vụ và trao gửi yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra rằng sức mạnh của Giáo Hội không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng chịu đóng đinh. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao khó khăn do thù nghịch đến từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng vẫn tăng trưởng, vì họ tìm được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá, đã chịu chết và đã Phục Sinh.
Khi mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm “vương quyền” của Đức Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian này rồi, như lời rao giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn. Sự thành toàn của vương quốc Thiên Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).
Năm phụng vụ chấm dứt với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời. Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác ái và xây đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình Chúa tình người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương quốc của Chúa mau trị đến.
Tuyên xưng Chúa là Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm “hộ chiếu” của vương quốc vĩnh cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến thiết tha. Chúa sẽ nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những nhân đức này.
Suy Niệm:
Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật được cứu độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp một quốc gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh quang uy quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế trần, nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích thực cho mọi tâm hồn.
Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua vũ trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ, biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
34. Chúa Giêsu, Vua Yêu thương
(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo. Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn thiêu rụi.
Trước tình hình đó, Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như một vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua Dân Do thái”. Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái”(Lc 23: 41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài”(Lc 23: 42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta”(Lc 23: 43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
35. Đức Giêsu Vua, Người tôi tớ Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Thật nghịch lý, để mừng lễ Đức Kitô Vua, Giáo hội đưa ra cảnh tượng Đức Giêsu mạc khải triều đại Người: ngai vàng là thập giá, vương miện là một vòng gai, lễ phong vương là một danh hiệu của việc kết án tử đóng đinh bên trên đầu Người, nam tước là hai tên gian phi. Nghịch lý cao cả của Tin mừng! Vua? Phải! Nhưng chắc chắn không hiểu theo nghĩa của những người đứng về phía Người, cũng không theo nghĩa của những đối thủ lên án Người, nhưng theo cách của Thiên Chúa.
Luca viết: "Khi đến nơi gọi là Núi Sọ, họ đóng đinh Người vào thập giá". Thực ra đây chỉ là quả đồi nằm ở cổng thành Giêrusalem, cổng Ephraim, một nơi khai thác đá cũ, nhưng thợ khai thác còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5m. Vì hình dạng của tảng đá giống như cái sọ, nên gọi là núi Sọ, tiếng Dothái là Gôlgôtha tiếng Hylạp là Kranion, tiếng Latinh là Calvario. Theo truyền thuyết đó là cái sọ của Ađam được chôn cất mãi mãi ở đó. Bởi là một nơi gần đường, nên người ta hay đóng đinh các tội nhân ở đó để mọi người qua lại xỉ nhục hoặc để làm gương cho người khác.
Cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu có hai tên gian phi. Để chứng minh Đức Giêsu không phải là gian phi, Luca đặt nơi môi miệng Người một lời nguyện: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm". Họ đây là ai? Đó là các vị thân hào. Luca thường ghi nhận, đối với Đức Giêsu thì "dân chúng" khác với các thân hào (Lc 20,1-20.45, 21.38). Trước biến cố Đức Giêsu chịu đóng đinh, dân chúng chán ngán, yên lặng đứng nhìn. Sự yên lặng của dân chúng thật ấn tượng và đáng trân trọng. Dân chúng Israel hiền lành không hiểu gì cả. Họ chờ đợi Đức Giêsu như¬ Đấng Messia, như một vua Đavít mới.
Trong lịch sử dân tộc họ, không thiếu vua, nhưng tầm cỡ vua Đavít và Salomon thì không có, đó là thời kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Messia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù, làm vị thẩm phán của Thiên Chúa, họ ngờ rằng Đức Giêsu đến để phục hưng vương quyền của Israel. Họ đã thử tôn Người làm vua, Người lại tránh né. Giờ đây, Người kia kìa, Người bị kết án tử hình, Người đang bị treo trên thập giá.
Khác với những người dân đen đang đứng nhìn ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh buông lời cười nhạo, thách đố Người: "Nếu ngươi là cứu Chúa, trước tiên cứu mình đi". Đó là tiếng vang của ma quỷ trong sa mạc (Lc 4,3), của người đồng hương Nadarét (Lc 4,23). Trong thế giới ngày nay, những kẻ chế nhạo Thiên Chúa cũng cùng giọng điệu như thế: "Nếu Thiên Chúa có, hãy hiện diện đi, để mọi người thấy".
Câu trả lời của Thiên Chúa vẫn là câu trả lời của Đức Giêsu: "Người im lặng". Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực, là không hiện hữu. Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ, hành động vì mình, sử dụng quyền năng của mình chỉ vì chính mình.
Còn lính tráng? Lính tráng cũng chế giễu Người: "Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu mình đi". Thế nhưng, những binh lính này vẫn còn chút lương tri, họ đã lấy một chút giấm đưa cho Ngài uống. Giấm đây là thứ rượu chua thời ấy binh lính Lamã quen dùng, nếu pha thêm một chút mộc dược, sẽ thành một thứ thuốc gây mê, các bà Dothái thường cho các nạn nhân uống như thế để giảm đau. ở đây, Luca không cho biết Chúa có uống hay không, nhưng Mátthêu nói rõ, Chúa chỉ nếm một chút để tỏ lòng biết ơn người đã có thiện chí giúp đỡ mình (Mt 27,34).
Khi phong vương, theo tục lệ Dothái, ông vua được phong ngồi trên ngai, một thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban cho nhà vua danh hiệu như thường thấy trong Thánh vịnh 109: "Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con". Ở đây, ngai vàng của Đức Giêsu là thập giá, bản văn phong vương Người chính là bản án của Philatô ghi trên đầu Người: "Đây là vua người Dothái ".
Dĩ nhiên Đức Giêsu là vua không theo cách thức thế gian, Nước Người không thuộc về thế gian này (Ga 18,36). Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế, nhưng không cạnh tranh với các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế. Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của Vua Israel, của chủ nghĩa Messia.
Bi kịch thập giá của Đức Giêsu, được Luca xây dựng theo kiểu căng thẳng tịnh tiến: dân chúng đứng nhìn, các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế giễu, và tên gian phi nhục mạ. Đúng thế, một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Cứu mình? Đó là thách thức ghê tởm nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi mà các thủ lãnh, lính tráng cũng như tên gian phi đã đưa ra. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "Mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên" còn có ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống thì sẽ mất" bây giờ ở đâu?
Vậy, ta có thể kết luận Đức Giêsu là Vua, Người làm Vua trên thập giá, trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình theo Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa, tin Người được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời ngôn sứ về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế; quá sự chờ mong của mọi người vì trên thập giá, không những Người là vua mục tử hơn Đavít mà còn là người tôi tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam