Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 88

Tổng truy cập: 1443397

ĐỨC KITÔ, NGÀI LÀ AI ?

Đức Kitô, Ngài Là Ai?

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Trung Tây - www.nguyentrungtay.com)

Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp, hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu độ cũng có thể được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9,26-27; 10,1; 16,12-13). Cho nên, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi được đặt ra trong bài tiểu luận này, "Đức Kitô, Ngài là ai?"

Do Thái vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên nằm dưới ách thống trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia. Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh đuổi người La Mã ra khỏi đất của sữa và mật ong - tương tự như thời Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh đuổi người Philistine ra khỏi đất hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.

Vào một ngày kia, trong vùng đất dân ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn đệ một câu hỏi bất ngờ,

- Người ta nói Thầy là ai?

Các môn đệ tranh nhau nhắc lại tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu Ước,

- Người ta nói Thầy là Êlia.

- Có người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,

- Có người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.

Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh nhau tường thuật lại những điều người dân đương thời đồn đại về căn tính của mình, Đức Giêsu một lần nữa lại cất tiếng hỏi,

- Vậy [riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?

Phêrô khẳng khái trả lời,

- Thầy là Đức Kitô (Lc 9,20), Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16,13-20).

Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai điều,

(1). Ông tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã, giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang;

(2). Điều này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là Con của Thiên Chúa.

Không giống như các dân tộc lân bang thờ phượng đa thần, người Do Thái chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6,4). Nhưng từ cửa miệng của Phêrô, một tư tưởng thần học mới đã hé nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.

Phêrô là một trong những Kitô hữu đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ hiểu được, nên được gọi là một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô, Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô. Sau cùng, người ngư phủ Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa Nước Trời. Điều gì Phêrô cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc. Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ tháo cởi (Mt 16,19). [Thánh Phêrô được minh họa trong tay đang cầm hai chìa khóa. Một vài người thắc mắc là tại sao Phêrô lại cầm tới hai chiếc chìa khóa trong tay? Nguyên văn trong bản tiếng Koiné, thánh sử Mátthêu sử dụng chữ klêdas, có nghĩa là những chiếc chìa khóa. Như vậy, vào ngày hôm đó, Đức Kitô đã trao cho Phêrô không phải chỉ là một chiếc chìa khóa. Bao nhiêu chìa khóa? Rất tiếc, thánh Mátthêu không nhắc đến. Nhưng, có lẽ, dựa vào chi tiết của câu nói tiếp theo sau đó, “... dưới đất con cầm buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm buộc, dưới đất con tháo cởi điều gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi... (Mt 16,19), người họa sĩ vẽ hình Phêrô nghĩ rằng Đức Kitô đã trao cho vị Giáo Hoàng tiên khởi hai chiếc chìa khóa, một chiếc chìa khóa để cầm buộc, một chiếc chìa khóa để tháo cởi.]

Một vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo chơi trên những con đường tấp nập người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam. Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,

- Ông vẫn tin vào Thượng Đế?

Vị tu sĩ đáp,

- Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên Chúa.

Tới phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,

- Còn ông thì sao, ông tin vào ai?

Người bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè, cười đáp,

- Tôi, tôi tin vào tấm hình này...

Suy Niệm

Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang hỏi chúng ta,

- Con nghĩ Thầy là ai?

Sống trong một xã hội, tiền bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng tìm kiếm câu trả lời,

- Hình như… Hình như Thầy không còn là nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng là tiền, như người bạn của vị tu sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định. Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần phải có sự hiện hữu của Thầy trong đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã được con hạ bệ.

Lời Nguyện

Lạy Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con một niềm tin quyết liệt để con không còn phải lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay, ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang đứng trước mặt Chúa.

 

17. Đêm dài nhất của Phêrô – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Nhân kỷ niệm 20 năm triều đại giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Pholo II, (1978-1998) người ta đã thống kê được những con số chính xác sau đây. Ngài đã thực hiện:

- 84 chuyến công du và hành hương ngoại quốc.

- 134 chuyến viếng thăm mục vụ trong nước Ý.

- 3,078 bài nói chuyện và bài giảng.

- 700 chuyến đi thăm nhà tù, dòng tu. Chủng viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, giáo xứ.

Người đã viết:

- 13 thông điệp

- 36 Tông thư

- 15 Thư cho các nhân vật và các nhóm đặc biệt

- 9 Tông thư tổng kết sau Thượng Hội đồng.

Ngài đã đọc diễn văn cho:

- 600 chuyến “Đi Viếng Mộ Thánh Phêrô” của các giám mục.

Ngài đã công bố:

- Giáo luật mới và sách Giáo Lý Công giáo, (Giáo luật cũ đã công bố cách đây 400 năm)

Ngài đã tôn phong:

- 798 chân phước.

- 280 thánh mới (trong đó có 117 thánh tử đạ Việt nam 19-6-1988)

- Chưa kể 233 vị Thánh Tử Đạo tại Tây Ban Nha.

- Tổng cộng 145 buổi lễ phong thánh.

Ngài đã chọn:

- 2650 Giám mục trong số 4200 giám mục trong Hội thánh.

- 159 Tân Hồng Y.

- Thiết lập quan hệ ngoại giao với 64 nước, phục hồi quan hệ ngoại giao với 6 nước khác, nâng tổng số các quốc gia có liên hệ với Tòa Thánh là 168 nước.

***

Đó là những con số biết nói trong 20 năm phục vụ Chúa và Giáo hội của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II, vị Giáo hoàng thứ 264 kế vị thánh Phêrô tông đồ, giáo hoàng tiên khởi, đã được Chúa trao cho quyền tối thượng Tin Mừng hôm nay đã nhắc lại sự kiện quan trọng ấy.

Khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ về thân thể của Người, lập tức Phêrô được Chúa cha mạc khải đã mạnh dạn thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Người liền khen ông là người có phsuc và trao cho ông quyền trên Giáo Hội: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (mt 16,18-19).

Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Giêsu đã tuyển chọn và tân phong Phêrô làm thủ lãnh cuả Giáo Hội. Người đã đổi tên Simon của ông thành Phêrô, tiếng Aram là Kêpha nghĩa là Tảng Đá, tượng trưng cho sự vững chắc trường tồn mà Thánh Kinh chỉ dành cho một mình thiên chúa: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 71,3). Người đã xây Hội Thánh của người trên tảng đá Phêrô và hứa bảo vệ Hội Thánh khỏi mọi tấn công của tử thần. Người còn trao cho Phêrô chìa khóa Nước Trời, tượng trưng cho quyền bính trên trời dưới đất. Với tối thượng quyền này, Phêrô sẽ cai quản, giáo huấn và thánh hóa Hội Thánh của Đức Kitô trong tinh thần phục vụ và yêu thương, sẵn sàng hiến mình cho đoàn chiên đã được trao phó.

Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm thủ lãnh giáo Hội vì Phêrô đã mắn tuyên xưng Đức Tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Vì chỉ ít phút sau đó, Đức Giêsu đã phải nặng lời với ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy” (Mt 16,23).

Chắc không phải Đức Giêsu chọn Phêrô làm đầu Hội Thánh vì Phêrô quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26,33). Vì ngày đêm hôm ấy, không ai bắt ông phải chết, không ai ra tay tra khảo, chỉ có mấy người đầy tớ thượng tế gặng hỏi, ông đã thốt lên những lời độc địa và thề rằng: “Tôi không biết người ấy” (Mt 26,74).

Thế là đã rõ, Đức Giêsu đã không chọn một vị thánh để dẫn dắt Hội Thánh của Người, mà đã chọn một dân chài, ít học, nóng nảy, bộc trực, sa ngã, và … phản bội. Vượt lên những khuyết điểm, sai lầm và yếu đuối của Phêrô, hẳn Đức Giêsu đã nhìn thấy suốt tâm can của Phêrô một tâm tình khiêm tốn thẳm sâu và một long sám hối chân thành.

Phêrô, một con người khiêm tốn:

Sau khi Đức Giêsu giảng bên bờ hồ Ghen-nê-xa-nét, Người bảo Simon: “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Simon đáp: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5, 4-6). Kinh nghiệm chài lưới ông đã quá rõ, đánh cá ban ngày chẳng hy vọng gì, nhưng ông không cãi, ông khiêm tốn vâng lời. Khi kéo lên một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi muốn rách lưới, ông không hả hê vui mừng, cũng chẳng kinh ngạc trước phép lạ cả thể, mà nghĩ ngay đến thân phận bất xứng của mình. Ông chạy đến sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Trước sự khiêm tốn thẳm sâu của Simon, Đức Giêsu không do dự, quyết định tuyển chọn ông: “Đừng sự, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta” (Lc 5,10).

Phêrô, một con người sám hối:

Sau khi nghe Đức Giêsu tiên báo cuộc khổ nạn vầ cái chết của người, thì Phêrô liền nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 17,22). Nhưng Đức Giêsu đã mắng ông thậm tệ, còn gọi ông là Satan. Thực tình ông chưa hiểu sứ mạng thiên sai của Người, ông thưởng làm thế là thương Thầy, nhưng thật ra ra là ông đang nối giáo cho giặc. Ông chẳng hiểu gì cả, nhưng ông biết mình sai, ông im lặng, không cãi lại, âm thầm ăn năn.

Ông tưởng mình sẽ không bao giờ sai phạm nữa, chẳng bao giờ sa ngã nữa. Suốt ba năm theo Thầy, chắc ông sẽ mạnh mẽ hơn trong Đức Tin, sẽ trung kiên với Thầy cho đến cùng. Thế nên, khi nghe Đức Giêsu tâm sự trong bữa tiệc ly: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy” (Mt 26,21), thì Phêrô không thể nào tin được. Người còn nói đích danh Phêrô sẽ chối Thầy ba lần. Ông càng bực tức và quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối thầy” (Mt 26,35). Nhưng chuyện gì đã xảy ra đêm hôm ấy, chúng ta đều biết rõ. Thánh sử Luca ghi lại: “Ông Phêrô trả lời cho tên đầy tớ vị thượng tế: “Này anh, tôi không biết anh nói gì?” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn Phêrô..” (Lc 22,60). Hai ánh mắt gặp nhau. Chúa biết hết rồi. Phêrô xấu hổ qua đỗi, nước mắt tuôn trào, ông lầm lũi ra khỏi pháp đình, tan nát cõi lòng, bước chân nặng trĩu.

Đêm hôm đó, một đêm dài nhất trong đời, ông không thể nào ngủ được, ông gặm nhấm tội lỗi của mình, tại sao mình có thể phản bội Thầy được. Hóa ra mình cỉ là cát bụi chứ đâu là Tảng Đá, là tội nhân chứ đâu phải là thánh nhân. Ông khóc òa lên, khóc mãi, khóc mãi, cho đến khi ông nhớ lại lời của Thầy: “Thầy không bảo là (phải tha) đến 7 lần mà là 70 lần 7” (Mt 18,21). Và ông biết mình đã được thầy tha thứ, ông biết mình đã được than gay từ cái nhìn của Thầy trên dinh tượng tế.

Ông quên đi quá khứ tội lỗi để hướng đến tương lai của ơn thánh: Cảm nghiệm sâu xa của lòng Chúa khoan dung tha thứ. Sau này Phêrô đã khuyên bảo các tín hữu của mình: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,19).

***

Lạy Chúa, Chúa đã tuyển chọn thánh Phêrô cả khi ngài thiếu sót, yếu đuối và sa ngã. Xin cho chúng con biết học nơi Thánh Phêrô lòng khiêm tốn thẳm sâu và lòng sám hối chân thành, để chúng con cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa và để chúng con trung kiên theo Chúa đến cùng. Amen.

 

18. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chủ đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI năm A này có thể được gọi là lễ trao ban quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.

Is 22: 19-23

Bản văn I-sai-a gợi lên việc tấn phong một tổng giám quản hoàng cung của vương quốc Giu-đa, viên quan nầy sẽ thực hiện quyền hành qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.

Rm 11: 33-36

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Rô-ma kết thúc phần đạo lý, thánh Phao-lô ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa.

Mt 16: 13-20

Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su tấn phong thánh Phê-rô làm lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.

BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)

Bài Đọc I nầy hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan nầy tước vị và quyền quản trị hoàng cung qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng của chìa khóa.

Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a thuật lại chắc chắn được định vị vào trước thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa. Chính Thiên Chúa sẽ truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” đương nhiệm, mà trao cho ông Ê-li-a-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài. Câu chuyện nầy có hai nét đặc trưng: lễ tấn phong và hậu cảnh thiên sai.

1. Lễ tấn phong:

“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho y; cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y; quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay y”: Xem ra vị quyền cao chức trọng nầy mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định tước vị và quyền hành của ông: “Đối với dân cư Giê-ru-sa-lem và nhà Giu-đa, y sẽ là một người cha”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”, chắc chắn, ở đây, tước hiệu này muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến tư lợi của mình. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày đăng quang của mình, chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền bính của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích Mê-si-a.

2. Hậu cảnh thiên sai:

Trong ánh sáng giải thích theo chiều hướng thiên sai, phần cuối bài thơ mặc lấy một chiều kích khác. “Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai y: y mở ra thì không ai đóng được, y đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho y vững chắc như đinh đóng cột, và y sẽ làm cho gia tộc của mình được rạng rỡ vinh quang.” Những biểu thức nầy được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một tân vương. Nhưng phải chăng đây thật sự là một “tân vương thuộc dòng dõi vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích hậu duệ vua Đa-vít này theo nghĩa thiên sai. Quả thật, sách Khải Huyền thánh Gioan đã giải thích bản văn theo truyền thống nầy, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Theo sau thánh Gioan, các Giáo Phụ cũng đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh thiên sai nầy.

BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)

Bài thánh thi nầy tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma.

1. Ơn Cứu Độ cho người Do thái:

Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định nầy đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: sự bất phục tùng của dân Ít-ra-en lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.

2. Niềm cảm tạ tri ân:

Từ đó, thánh Phao-lô cất cao lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi. Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh nhân diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình.

Bản văn của ngôn sứ I-sai-a vang lên trong tâm trí của thánh nhân:

“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?

Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?

Người đã thỉnh ý ai để giúp Người thông hiểu,

bảo cho Người biết lối công minh,

dạy cho Người mở mang kiến thức,

chỉ cho Người con đường trí tuệ?” (Is 40: 13).

Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan cao vời khôn ví của Thiên Chúa:

“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,

quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!

….

Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,

tính chung lại, ôi nhiều vô kể!” (Tv 139: 6, 17).

3. Lời chúc tụng:

Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca nầy với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men.” Lời tán tụng nầy, câu “Vinh Chúc” nầy với những đặc ngữ chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xu‎yết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca nầy cũng có thể được một kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi khơi nguồn cảm hứng cho thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)

Vì người Biệt Phái và kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tỉnh để được sống riêng tư thân thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế, nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền của vua Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp, một nhà cai trị chừng mực và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp nầy đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố nầy được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp”. Trong lãnh địa nầy, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình nầy, Ngài bắt chuyện với các ông.

Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện nầy vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.

1. Thăm dò dư luận.

Trước khi đề cập đến cuộc chuyện trò cách chi tiết hơn, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện vừa mới xảy ra trước đây. Sự kiện thứ nhất chỉ một mình thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời nầy chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6: 67-69).

Sự kiện thứ hai kể ra việc Đức Giê-su thực hiện hai phép lạ cùng một lúc: đi trên mặt biển và dẹp yên bảo tố, hai phép lạ này đặc biệt dành riêng cho các môn đệ và chỉ cho các môn đệ mà thôi. Thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và là người duy nhất được Thầy cho phép đi trên biển dậy sóng để gặp Ngài. Sau cùng tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33). Đức tin trong những giây phút đầy cảm kích còn động lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi họ tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Vì thế, đây là giây phút thuận tiện để mà Đức Giê-su dò xét mức độ đức tin của họ vào Ngài.

Trước hết, Ngài hỏi các ông dư luận quần chúng về Ngài ngỏ hầu giúp các môn đệ hiểu biết hơn rằng đức tin của họ phải thoát khỏi thế kiềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào. Kẻ thì nói Ngài là ông Gioan Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc độc giả nhớ rằng tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su chính là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ngôn sứ Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin nầy dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ Ma-la-khi: “Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, tước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh hoàng” (Ml 3: 23). Có người lại cho Ngài là ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện nầy (x. Mt 16: 14). Sách Ma-ca-bê quyển hai chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (2Mcb 15: 13-16; x. Xh 32: 11).

2. Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô.

Tuy nhiên, không phải dư luận quần chúng về Ngài mà Chúa Giê-su thực sự muốn biết khi hỏi các môn đệ của Ngài. Câu hỏi về dư luận quần chúng chỉ như khúc dạo đầu cho một câu hỏi khác, còn quan trọng hơn nhiều, mà Đức Giê-su muốn dò hỏi từ chính các môn đệ Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, thánh Phê-rô trả lời nhân danh họ: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là một tước hiệu được phiên âm từ tiếng Hy-lạp: “Christos” dịch sát từ tiếng Híp-ri: “Mê-si-a”, có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong các sấm ngôn Cựu Ước, tước hiệu này loan báo Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn để cứu độ dân Ngài. Còn trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là biểu thức tiêu biểu Cựu Ước. Biểu thức nầy nhắc nhớ rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng vô tri vô giác của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng nầy, thánh Phê-rô nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, nghĩa là Ngài không đơn giản chỉ là Đấng Ki-tô phàm nhân thuộc dòng dõi vua Đa-vít được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Ki-tô có nguồn gốc thần linh. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được ghi lại trong Tin Mừng Mát-thêu hôm nay là đầy đủ nhất so với Tin Mừng Mác-cô: “Thầy là Đấng Ki-tô” (Mc 8: 29) và Tin Mừng Lu-ca: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20).

Đó là lý do tại sao chỉ duy Tin Mừng Mát-thêu ghi lại cho chúng ta rằng Đức Giê-su tán dương lời tuyên xưng đức tin nầy và nhận ra mặc khải siêu nhiên mà thánh Phê-rô nhận được: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu đuối mõng dòn trái ngược với Thiên Chúa hằng sống. Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải. Lời tuyên xưng này cũng đã được Đức Giê-su xác nhận và chứng thực khi chính Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài: “Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Vài ngày sau đó, Đức Giê-su sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp.

3. Lễ tấn phong thánh Phê-rô:

Phần cuối của câu chuyện nầy, được gọi là lễ tấn phong Phê-rô cũng chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu, lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội.

“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Kepha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Kepha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng, nhưng là một danh từ. Khi nâng danh từ “kepha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Kepha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá nầy, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên thánh nhân từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy để lãnh nhận một sứ mạng mới, như vậy, với một con người mới và một vận mệnh mới, thánh Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay trên đó Chúa Giê-su xây dựng Giáo Hội của Ngài.

Đức Giê-su chọn hình ảnh: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” để khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.

“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”. Hình ảnh nầy chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng cung, ông có nhiệm vụ coi sóc và quản trị hoàng cung. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, vị tổng quản Giáo Hội, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và quản trị Giáo Hội của Đức Kitô.

“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” để áp dụng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “ngăn cấm”, và “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.

4. Quyền Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô:

Để kết thúc buổi chia sẻ này, chúng ta nên đọc và hiểu bản văn Tin Mừng Mát-thêu này một cách tinh tế, đừng vội đồng hóa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với con người của thánh nhân, bởi vì ngay sau câu chuyện này, Đức Giê-su đã quở trách nặng lời với thánh nhân khi thánh nhân tìm cách ngăn cản Ngài thực hiện con đường cứu độ cho muôn người qua cuộc Thương Khó, Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài (Mt 16: 21-23). Vì thế, chính không phải con người của thánh nhân, nhưng lời tuyên xưng của thánh nhân mới là đá tảng vững chắc trên đó Đức Giê-su xây dựng Hội Thánh của Ngài mà ngay cả quyền lực tử thần cũng sẽ không thắng nổi.

Vì thế, không lạ gì trong các sách Tin Mừng, ngoài bản văn của thánh Mát-thêu, chúng ta còn gặp thấy hai bản văn khác nữa nói về quyền tối thượng của thánh Phê-rô. Trong Tin Mừng của thánh Lu-ca, vào buổi chiều Tiệc Ly, trước khi báo trước cho thánh nhân biết nội trong đêm nay thánh nhân sẽ chối thầy đến ba lần, Đức Giê-su nói với chỉ một thánh Phê-rô,: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” (Lc 22: 32). Theo truyền thống Tin Mừng Lu-ca, thánh Phê-rô được trao quyền lãnh đạo của Giáo Hội Ngài không phải vì thánh nhân có đức độ tài năng hơn các bạn đồng môn khác, nhưng chỉ vì thánh nhân có cảm nghiệm sâu xa hơn những môn đệ khác về sự mõng dòn yếu đuối của bản thân mình qua ba lần chối Thầy và sự tha thứ vô hạn của Thầy đối với mình. Chỉ như thế, thánh nhân mới có thể cảm thông những yếu đuối của anh em mình và nâng đỡ đức tin của anh em mình trong những gian nan thử thách.

Trong Tin Mừng của thánh Gioan, vào sáng sớm sương mờ của biển hồ Ti-bê-ri-a, Đức Giê-su Phục Sinh gặp gỡ các môn đệ của Ngài. Sau khi đã cho các ông một mẽ lưới cá lạ lùng và đã dọn sẵn cho các ông một bữa ăn trên bờ hồ, xảy ra một cuộc đối thoại thật cảm động của Chúa Giê-su với chỉ một mình thánh Phê-rô. Trong cuộc đối thoại đó, Chúa Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần cùng một câu hỏi: “Anh có mến Thầy không?”, và ba lần Chúa Giê-su trao quyền mục tử cho thánh nhân (Ga 21: 15-17). Như vậy, theo truyền thống Tin Mừng Gioan, quyền mà Chúa Giê-su trao cho thánh Phê-rô không là cai trị, nhưng là ân cần chăm lo cho đoàn chiên của Ngài bằng trọn một tấm lòng yêu mến mà thánh nhân dành cho Thầy mình. Quả thật trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10: 11), khác với kẻ chăn chiên thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10: 12). Kẻ chăn chiên thuê mà Chúa Giê-su đề cập đến ở đây chính là giới lãnh đạo tôn giáo của dân Ít-ra-en, họ cũng đã được Thiên Chúa chọn và trao ban quyền chăm lo cho dân của Ngài. Nhưng Chúa Giê-su trách cứ họ khi gọi họ là kẻ chăn chiên thuê vì họ chỉ nghĩ đến tư lợi của riêng mình, không sống chết với đoàn chiên mà Thiên Chúa ủy thác cho họ.

Có hiểu như thế, chúng ta mới có thể nhìn thấy cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội Chúa Ki-tô thật đẹp biết bao. Cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội được chính Đức Giê-su thiết lập không phải để cai trị nhưng để yêu thương và phục vụ. Ngay chính Tin Mừng Mát-thêu, Tin Mừng thuật lại cho chúng ta cuộc tấn phong thánh Phê-rô hôm nay, cũng ghi lại những lời tâm huyết mà Đức Giê-su muốn các môn đệ chân chính của Ngài phải khắc cốt ghi tâm: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 25-28). Chính thánh Phê-rô đã hiểu, nên sau này thánh nhân đã khuyên các bậc kỳ mục: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã trao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiểu không bao giờ hư nát” (1Pr 5: 2-4).

Cuối cùng, chúng ta đừng quên, chính đương kim Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã chọn bản văn Tin Mừng Gioan chứ không bản văn Tin Mừng Mát-thêu vào ngày lễ đăng quang của mình, để nhấn mạnh chức năng Mục Tử tối cao của ngài, chứ không vai trò thủ lãnh tối cao của Giáo Hội.

 

19. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc

Niềm tin Kitô giáo không phải là một quyển sách hay một lý thuyết nào mà là một con người: đó là Giêsu Na-da-rét, là Thiên Chúa thật và là người thật.

Chúng ta hãy cùng với thánh Phêrô, tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.

Hôm nay, Chúa Giêsu sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ nầy, không phải dưới khuôn mặt con người mà là một tấm bánh. Chúng ta có thể tin như Phêrô không?

Chắc chắn, nếu trong giây phút nầy, Ngài hiện ra với chúng ta như khi xưa ở miền đất Xê-da-rê-Phi-líp-phê, và Ngài cũng hỏi chúng ta như đã hỏi các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời sao?

Có lẽ chúng ta sẽ trả lời như Phêrô: “Thầy là Thiên Chúa”, “Thầy là Con Thiên Chúa vv...” Nhưng câu trả lời của chúng ta có giá trị như thế nào? Chúng ta sẽ trả lời đúng với lòng mình không?

Thực sự, hôm nay và mỗi ngày, Chúa Giêsu vẫn hỏi chúng ta như thế: “Con nghĩ Thầy là ai đối với con?” Sự có mặt của Ngài trong Bí Tích Thánh Thể là một câu hỏi không lời. Chúng ta không thể tránh né câu hỏi đó, nếu không, đức tin của chúng ta sẽ vu vơ, không rõ nét. Mỗi người chúng ta phải giáp mặt với Chúa trong tận đáy lòng mình, và phải xác định thái độ và niềm tin của chúng ta.Chỉ có Chúa Giêsu mới nghe câu trả lời của chúng ta , và đó là chuyện của mỗi người chúng ta với Chúa.

Chúng ta hãy xem thái độ của những người đương thời với Ngài. Họ đã gặp Ngài, đối diện với Ngài, họ nghĩ sao về Ngài.

Những người hàng xóm, họ hàng: “Ông nầy là con ông Giuse”, “con bà Maria”... Đó là cái nhìn của những con người gần Ngài nhất. Họ không cần đặt vấn đề về những gì họ nghe thấy, và họ lại còn hiểu lệch lạc: “Làm sao ông ấy giỏi như thế, làm được những việc lạ lùng như thế?”

Những người ganh ghét như mấy ông Pha-ri-sêu lại cố gắng bóp méo những gì họ chứng kiến, xuyên tạc sự thật, không dám nhìn giá trị của người khác: “Ông nầy ăn uống với người tội lỗi!” “Ông ấy không giữ luật ngày sabbat.” Và đến một giai đoạn nào đó, họ xúc phạm: “Ông bị quỉ ám.”

Nhưng có những người thành tâm, với cái nhìn không méo mó, họ cũng nhận thấy được một cái gì khác thường nơi Ngài.

“Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền”.

“Ngài làm những dấu lạ… từ trước đến nay không ai làm được như Ngài”. Và họ tưởng rằng Ngài là một tiên tri, họ nghe lời Ngài và ngợi khen Thiên Chúa vì những việc Ngài làm.

Ông Ni-cô-đê-mô là người Pha-ri-sêu đã đến gặp Ngài ban đêm và công nhận: “Thầy là Đấng Thiên Chúa sai đến…” Người mù thành Giê-ri-khô đã gọi Ngài là “Con vua Đa-vít.

Một số người khác gặp Ngài và được Ngài tỏ cho họ biết Ngài là ai, trong số đó chúng ta nhận thấy người phụ nữ Samari: “Đấng Thiên Sai là ai vậy, thưaThầy?”

Chúa Giêsu trả lời và cho chị biết: “Chính là Ta, người đang nói chuyện với chị”. Chị nhận ngay và bỏ bình nước đó, chạy về làng báo cho mọi người biết. Dân làng nhờ đó nhận ra Ngài: “Chúng tôi đã biết Ngài và chúng tôi biết Ngài là Đấng Cứu Thế”.

Anh mù Bar-Ti-mê đã được chữa lành. Trước những ông Pha-ri-sêu sừng sỏ, anh đã tuyên xưng: “Ngài là một vị tiên tri”. Và trong cuộc chất vấn gay gắt đó, họ bảo anh: “Anh hãy làm sáng danh Chúa. Phần chúng tôi, chúng tôi thấy rằng tên đó là một người tội lỗi”. Anh mù trả lời một cách ngay thẳng: “Ông ấy là người tội lỗi, điều ấy tôi không được biết: tôi chỉ biết một điều là xưa tôi mù và bây giờ tôi được sáng mắt… Không có ai mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh. Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì chẳng làm được như vậy”.

Câu chuyện cũng có một nét gì đó khôi hài và mỉa mai, nhưng chúng ta nhìn thấy lòng tin chất phát của anh mù. Vì thế, khi gặp lại anh, Chúa Giêsu cho anh biết rõ hơn: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh trả lời: “Người là ai, xin Thầy nói để tôi tin”. Chúa Giêsu nói với anh: “Ngươi đã thấy Người, chính Người đang nói với ngươi đây”. Anh đáp: “Thưa Thầy, tôi tin”. Và anh sụp lạy Ngài.

Chúng ta tin thế nào? Chúng ta có dám nói như Na-tha-na-en không: “Thầy là Con Thiên Chúa.” hay không?

Chúng ta hãy nhìn lại niềm tin của chúng ta. Hãy cùng với thánh Phêrô tuyên xưng một cách mạnh mẽ: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Thánh Phao-lô, trên con đường Đamat, đã nhận biết Chúa và hoàn toàn sống cho Chúa, đến nỗi Ngài đã nói mà không sợ ai hiểu lầm: “Tôi sống, nhưng không là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”. “Không ai có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô…”

Các thánh mà chúng ta được biết đã hoàn toàn sống “hết mình” cho Chúa. Họ đã biết họ tin vào ai. Còn chúng ta? Nếu thực sự chúng ta tin Ngài, tại sao chúng ta không sống thực sự cho Ngài? Mấy người trong chúng ta dám nói như Phao-lô: “Sự sống của tôi là Chúa Giêsu Kitô?”

Nơi bàn thờ nầy, Chúa Giêsu có mặt. Ngài cho chúng ta một hình thức kết hợp với Ngài sâu xa không thể tưởng được là ăn lấy Ngài, chúng ta sẽ đáp lại tình yêu của Ngài như thế nào? Ngài đang đợi chờ nơi chúng ta một câu trả lời dứt khoát. Chúng ta sẽ nói sao?

 

20. Đá Tảng thật, Đá Tảng dỏm – Lm. Anmai

Lẽ thường tình, khi mà khoa học - kỹ thuật - công nghệ phát triển thì phẩm chất cũng tăng theo nhưng hình như ngược lại. Nói không biết có quá đáng hay không nhưng hầu hết các kết qủa của công trình thời hiện đại này đều kém chất lượng. Thử nghĩ xem từ giáo dục, y tế, xây dựng... cho đến tình người với người trong cuộc sống hiện tại nó cứ làm sao đó!

Với giáo dục thì không thể nào biết được là Việt Nam có bao nhiêu cái bằng giả và bao nhiêu cái bằng thật. Và trong cái đống bằng thật có đó nhưng chắc có mấy cái có chất lượng, mấy cái đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Theo thống kê thì chỉ có 30% sinh viên ra trường đáp ứng được nhu cầu của các công ty, các đơn vị sử dụng lao động. Vậy thì 70% những bác sĩ, kỹ sư và thậm chí là tiến sĩ, thạc sĩ sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp, sau khi cầm bằng trong tay? Phụ huynh ngày nay không còn đơn giản là chạy cơm chạy áo nữa mà còn phải chạy trường!

Y tế thì có ai vào bệnh viện mới hay! Chẳng hiểu sao những ai vào bệnh viện về đều chỉ xin một điều là "xin Chúa cho tôi ra đi nhanh chóng chứ đừng để tôi phải vào bệnh viện". Hỏi lý do thì chẳng ai chịu nói cả. Chỉ có ai vào viện mới hiểu được lý do mà thôi.

Tình người với người ngày hôm nay quả là một thực trạng thật đáng buồn thật bi đát. Người ta không còn yêu nhau, đến với nhau bằng mối tình thật nữa nhưng mà bằng tình dỏm. Nó cũng giống như con chuồn chuồn vậy: khi vui thì đậu - khi buồn thì bay. Tình yêu đôi lứa, tình cảm trong gia đình cũng thế, nó nhạt nhạt, nhẽo nhẽo làm sao đó! Có khi nhìn bề ngoài rất đẹp nhưng mà bên trong đang đứng trước bờ vực của ly tan mà người ngoài không tài nào thấy được.

Ngoài đời là thế! Gia đình là thế! Còn trong nhà tu thì sao? Thật ra nhà tu ngày nay do ảnh hưởng của tục hoá tràn ngập vào bốn bức tường của tu viện để rồi tình cảm của những người đi tu, của những người dâng hiến không còn tinh tuyền, không còn đẹp như xưa nữa. Chuyện này là chuyện hết sức tế nhị và nhạy cảm, không nên nói ra. Chỉ có mỗi người tự vấn trước mặt Chúa và trước mặt lương tâm thì mới thấy mà thôi. Và cười ra nước mắt khi nói đến chuyện Chúa và lương tâm. Hình như "gần chùa gọi bụt bằng anh" hay sao đó nên ở gần Chúa nên người ta quá xem thường Chúa và coi Chúa ngang hàng ngang lứa. Nếu có Chúa thật thì tu sĩ, linh mục đâu có cư xử như thế với anh chị em cùng đi tu với mình, cùng dâng hiến với mình như thế!

Một lãnh vực hết sức gần gũi với con người đó là chuyện xây dựng. Nhan nhản các công trình bị rút ruột, bị ăn sắt, ăn thép nên chất lượng chẳng ra làm sao cả. Có những phóng sự trình chiếu trên tivi thật nực cười: cọc bê tông nhưng ở trong thay vì cốt thép người ta làm bằng tre!

Một lần đang ngồi học trong nhà dòng, cả thầy và cả trò giật bắn người khi nghe một tiếng nổ cái "đùng". Tưởng cái gì, hoá ra là gạch dưới nền chẳng hiểu sao bỗng nhiên bị nổ tung lên hết. Mọi người đến xem, hoá ra là ở dưới nền người ta trộn hồ toàn là cát chẳng thấy xi măng đâu cả. Ngước mắt nhìn lên toà nhà tu viện được xây trước ngày "miền Nam hoàn toàn giải phóng" sao mà nó vững chải thế, sao mà nó kiên cố thế! Lẽ ra với máy móc hiện đại, kỹ thuật tiên tiến thì phải tốt hơn ngày xưa chưa có nhiều máy móc như bây giờ chứ!

Thì ra là ngày hôm nay, người ta đánh mất cái nền tảng, cái đá tảng của căn nhà, của tâm hồn và của cuộc đời.

Trang tin mừng khá ngắn mà Thánh Matthêu vừa thuật lại cho chúng ta thấy rõ sự chọn lựa, sự cắt đặt của Chúa cho nền tảng của Giáo Hội.

Sở dĩ Giáo hội luôn bền vững và tồn tại dù trải qua không biết bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu bão tố là vì Thiên Chúa đã biết và đã chọn đúng nền móng cho toà nhà Giáo Hội. Thiên Chúa là một chủ đầu tư thật tuyệt vời, Chúa không phải như những nhà đầu tư trần gian đã không biết "chọn mặt gửi vàng". Chúa nhìn người và Chúa biết người, dẫu rằng một Phêrô thật mong manh và mỏng dòn, nóng tính và vồn vập nhưng Phêrô đã sống trọn vẹn niềm tin của mình vào Chúa và vẹn tròn niềm tin của Chúa đặt nơi Ngài.

Vì sao như thế? Vì chính Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi tín hữu Rôma một lần nữa minh xác cho chúng ta rằng: "Sự giàu có, sự khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được? Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người?" (Rm 11, 33-35). Chính vì Thiên Chúa khôn ngoan và thông suốt, Ngài thấy rõ lòng của con người nên Ngài quyết định. Ngài đã ra nghị quyết nào là nghị quyết ấy thật chính xác, thật khôn ngoan chứ không phải ra rồi lại đổi. Ngài giàu lòng thương xót, chậm bất bình và giàu ân sủng. Thiên Chúa đã tin Phêrô và giao con thuyền Giáo Hội cho Phêrô. Thiên Chúa khôn và Phêrô cũng khôn. Nếu như Phêrô tự cao tự đại, tự mãn thì Phêrô không kê cuộc đời của mình vào Chúa nhưng đàng này Phêrô đã tín thác vào Chúa và để cho Chúa quan phòng cuộc đời của mình. Thật sự "đá tảng" Phêrô đã quá tuyệt vời, đã quá khôn ngoan để dựa cuộc đời mình vào cuộc đời của Chúa. "Đá tảng" Phêrô đã quá khôn ngoan để dựa vào "viên đá thợ xây loại bỏ đã trở thành đá tảng góc tường" là chính Chúa Giêsu.

Chính "viên đá thợ xây loại bỏ" mà Phêrô đặt vào là viên đá thật làm cho nền tảng Giáo hội được bình an, được vững chắc!

Nhìn lại những thực tại của xã hội, của con người chúng ta thấy đau đau làm sao đó trong cõi lòng, đau nhưng mà không nói được và có nói ra thì cũng bị người đời xỉ vả dèm pha thôi. Lý do thực tế nhất đã đưa đẩy xã hội, đưa đẩy con người, đưa đẩy người kitô hữu, đưa đẩy tu sĩ linh mục sống mất phẩm, mất chất phải chăng là đã không biết đặt cuộc đòi của mình vào tảng đá thật là chính Chúa.

Thay vì đặt vào đá tảng thật là Chúa thì con người lại đặt cuộc đời của mình vào những tảng đá như quyền lực, danh vọng, địa vị, tiền bạc ... Với con người, cứ tưởng chừng đá tảng tiền bạc, địa vị, danh vọng là đá tảng thật nhưng thật ra tất cả là đá dỏm. Tin hay không tin còn ở quan niệm của mỗi người. Có ai mang được quyền lực, tiền bạc, địa vị mà bao nhiêu năm tháng đổ mồ hôi, sôi con mắt và thậm chí phải thức trắng đêm để mưu mô tính toán chiếm đoạt được của người khác xuống mộ phần chăng?

Một câu chuyện có thật được một Cha trong Dòng kể lại sau khi đi Tây về kể lại là có an viện nọ ở bên Pháp. Chẳng hiểu sao mà du khách đến đan viện thấy cảnh trong tu viện buồn tẻ và u uất đến thế! Thấy cảnh tượng như thế ai cũng buồn nản. Đan Viện Trưởng bắt đầu cải tổ lại đời sống trong đan viện bằng cách lấy lại đời sống thiêng liêng, đời sống đạo đức, cầu nguyện thì tình hình bắt đầu thay đổi. Từ ngày ấy các vị ẩn sĩ thay đổi đời sống, họ yêu thương nhau hơn và chính tình yêu của họ đã lan toả đến tất cả những người đến thăm đan viện.

Lý do chính để đánh mất đi cái bầu khí yêu thương hiệp nhất trong đan viện đó chính là vì các đan sĩ đã không còn bám vào Chúa nữa. Khi và chỉ khi người ta đánh mất Chúa, đánh mất đá tảng thật của mình thì mới đâm ra đố kỵ, hơn thua, tranh giành, chà đạp, nói hành nói xấu nhau. Nếu có Chúa thật ở trong mỗi đan sĩ của đan viện thì chắc có lẽ không xảy ra tình trạng bi đát trước kia.

Ngày nay đan viện ấy khá nổi tiếng với nhiều du khách khi đặt chân đến thăm viếng đan viện. Đan viện ấy không phải nổi tiếng vì sầm uất, vì hoành tráng nhưng đan viện ấy nổi tiếng vì đã có một đời sống mật thiết gắn kết với Chúa.

Là giáo dân, tu sĩ hay linh mục cũng mang trong mình cái phận người mỏng dòn, mong manh và yếu đuối như Phêrô nhưng chúng ta có biết chỗi dậy sau những lần vấp ngã, sau những lần chối Chúa như Phêrô hay không? Chúng ta có dám thỏ thẻ với Chúa như Phêrô đã từng thỏ thẻ với Thầy: "Thầy ơi, tin con đi con yêu mến Thầy, tình con tuy phôi pha nhưng chân thành thiết tha!".

Với Chúa, với anh chị em đồng loại cũng vậy, nếu như chúng ta sống với nhau bằng một lòng tin chân thành, một lòng tin thiết tha thì dù tình chúng ta có phôi pha đi chăng nữa nhưng cuối cùng Chúa cũng như anh chị em đồng loại sẽ tin và yêu chúng ta như Chúa vẫn tin và yêu Phêrô như vậy. Chỉ ngại chăng là chúng ta cứ theo cái thói tục của thế gian là sống không chân thành với anh chị em đồng loại đã đành mà còn không chân thành với Chúa nữa mới chết!

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt cuộc đời chúng ta vào đá thật hay đá dỏm.

Nguyện xin Thánh Phêrô giúp chúng ta biết bắt chước như Ngài là đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng là Thầy Chí Thánh như thánh nhân đã từng đặt.

Nguyện xin Chúa Giêsu là viên đá góc, viên đá tảng giúp mỗi người chúng ta biết đặt cuộc đời chúng ta vào đá tảng thật là Chúa.

home Mục lục Lưu trữ