Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1446876

ĐỨC GIÊSU VUA TÌNH YÊU

Đức Giêsu Vua Tình Yêu

(Suy niệm của Lm Nguyễn Hồng Giáo)

Năm phụng vụ kết thúc với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Nhưng Chúa Kitô làm vua như thế nào? Vương quốc Người ở đâu?

Trong suốt cuộc đời của Người, Chúa Giêsu chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Người không hề làm vua một quốc gia hay một mảnh đất nào, dù là như một ông vua lưu vong. Có một lần đám đông dân chúng phấn khởi vì Người đã làm phép lạ cho họ ăn uống no nê, đã muốn tôn Người làm vua nhưng Người đã trốn khỏi họ. Cũng có lần người ta gọi Người là vua dân Do Thái nhưng là để nhạo báng Người. Lúc đó Người chỉ là một tên tử tội. Bọn quân lính đặt Người ngồi lên ghế, khoác cho Người chiếc cẩm bào là tấm áo choàng đỏ, đặt lên đầu Người một vòng gai như vương miện và bắt cầm cây sậy làm phủ việt, rồi họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: "Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!" (x. Mt 27, 27-29) Trước lời vặn hỏi của quan tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã nhận mình là vua, nhưng để tránh mọi ngộ nhận, Người tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. " (Ga 18, 36). Nhưng trong sách Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Maccô, tước hiệu "vua dân Do Thái" chính là một lý do người ta trưng ra để kết án Chúa Giêsu.

Cuộc đời trần thế của Đức Giêsu đã chấm dứt trên thập giá. Bài Tin Mừng Lc 23, 35-43 trong ngày lễ năm C giới thiệu Chúa Kitô Vua của chúng ta đang bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp. Các đối thủ của Người muốn nói gì qua cách hành xử này thì đã quá rõ. "Hắn ta xưng mình là vua, nhưng vua cái nỗi gì, chỉ là một tên bịp bợm không hơn không kém, chỉ đáng chết như một tên gian phi mà thôi. "

Chọn đoạn Tin Mừng này mà đọc trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, thật cũng lạ thường. Nhưng chính cái lạ thường đó lại giúp ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm vua như thế nào và Nước của Người là gì?

Trên thập giá, chính Chúa đã phong thánh cho một trong hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người. Anh ta đã làm gì mà được phong thánh mau lẹ vậy? Anh thật lòng nhận mình đã lầm đường lạc lối và nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Chúa cứu chuộc. Anh tin vào ơn cứu rỗi do Người mang đến. Anh phó mình cho Đức Kitô Vua Tình Thương: "Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" Và Đức Giêsu đã nhận lời cầu xin của anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng. " Làm thánh đơn giản thật! Tên cướp sám hối đã tuyên xưng Đức Giêsu có một Nước, một Vương Quốc. Đức Giêsu xác nhận điều đó là đúng và tuyên bố Người có quyền đưa anh ta vào vương quốc của mình.

Vậy Vương Quốc của Chúa Giêsu là vương quốc tình yêu, quyền hành của Người cũng là quyền hành của tình yêu, dùng để cứu độ con người.

Làm vua tình yêu như thế, tất nhiên Chúa Giêsu đã không ngồi trên ngai vàng, đã không có dinh thự lâu đài, không có ngân hàng hay kho báu, không có quân đội chinh nam dẹp bắc..., Người không tìm kiếm thế lực, không thống trị ai, cũng như không có tôi tớ ra vào phục dịch... nhưng trái lại đã hạ mình làm tôi tớ phục vụ mọi người và hy sinh tính mạng vì hạnh phúc nọi người.

Chúa Giêsu làm vua và thống trị bằng một cuộc đời hy sinh từ bỏ, và bằng cái chết đẫm máu trên thập giá. Chính từ cái chết đó đã phát sinh sự sống. Người đã thực hiện điều Người không ngừng dạy bảo: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15, 13). Và Người cũng đòi hỏi các môn đệ mình: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt16, 25)

Phục sinh sẽ là tột đỉnh cuộc đời Chúa Giêsu và là sự thành tựu của công trình cứu thế Người thực hiện. Tuy nhiên đường dẫn tới phục sinh không phải là một đại lộ thênh thang mà là con đường thập giá cam go. Người tiến tới vinh quang theo con đường tự hiến, liều mấy mạng sống mình vì tình yêu. Phục sinh là cùng đích, còn thập giá là con đường dẫn tới đích. Nhưng linh hồn của thập giá là tình yêu. Thiếu tình yêu, thập giá (tức là đau khổ, hy sinh và cái chết) sẽ trở nên không những là nặng nề mà còn vô nghĩavà vô lý. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của mình bằng một cái chết-vì-tình-yêu. Sống chính là chết vì tình yêu, và thống trị là hạ mình phục vụ cho đến chết vì sự sống của kẻ khác.

Phải chăng lý tưởng sống đó hoàn toàn đi ngược với nền văn minh hiện đại?

 

72. Suy niệm của Andre Seve

Lễ Chúa Kitô Vua (Lc 23, 35-43)

Vương quyền của Chúa Kitô là một dữ kiện của Tin Mừng, nhưng không dễ gì thấy được điều mà vương quyền này mang lại cho cuộc sống chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu có thể là vua của chúng ta theo nghĩa nào?

Chúng ta hãy khởi đi từ khái niện vương quyền: vương quyền này được làm cho rõ nét bằng mối liên quan của nó với thực tại chính trị, nghĩa là với một quyền lực trên cuộc sống tập thể. Một ông vua tạo ra hạnh phúc hoặc bất hạnh cho thần dân do nền chính trị tốt hay xấu của ông. Chúa Giêsu vua có một nền chính trị hay không? Một số người nghĩ rằng người ta có thể tìm thấy tất cả các yếu tố đó trong Tin mừng. Trong khi áp dụng các yếu tố đó thì người ta sẽ thấy Chúa Giêsu là một vị vua.

Trong thực tế, điều này đã không diễn ra xuôi chảy. Vào thời Trung Cổ chẳng hạn, Giáo hội đã nghĩ rằng Chúa Kitô có thể thực thi quyền bính qua Giáo Hội. Điều này đã làm cho Giáo Hội dấn sâu vào các hoạt động trấn áp và đàn áp. Đàn áp nhân danh Chúa Kitô, loại trừ nhân danh Chúa Kitô, đây là những điều ngày nay có vẻ không thể tưởng tượng được. Sau đó, Giáo Hội gắn bó khá chặt chẽ với các chế độ bảo thủ. Hiện nay, một số Kitô hữu muốn liên kết Chúa Giêsu và Tin mừng với những ý thức hệ tả khuynh.

Nhưng, đối với phần lớn các Kitô hữu, Tin mừng không liên quan gì đến chính trị cả. Chúa Giêsu là vua chăng? Không có vấn đề gì cả! Chỉ có vấn đề các “con tìm”, quan hệ rất cá nhân và rất riêng tư với Chúa Giêsu mà thôi. Chúng ta hãy để cái chính trị xấu xa, do bẩn cho “những người khác”. Mặc kệ nếu những cơ cấu tập thể làm cho nhiều người trong các anh em của chúng ta bất hạnh, còn chúng ta, chúng ta hát những bài thánh ca và cùng nhau đọc những bài kinh đẹp đẽ.

Trong khi giản lược hóa đến cùng cực, chúng ta thấy hai khuynh hướng trái ngược nhau: gán Chúa Giêsu vào một nền chính trị nào đó, hoặc tách Ngài ra khỏi mọi nền chính trị. Chúng ta có thể thoát ra khỏi thế phải chọn giữa đôi ngả này hay không? Tôi nghĩ là có thể được trong mức độ chúng ta thấm nhuần Bát Phúc, hiến chương “chính trị” của Chúa Giêsu: “Khó nghèo còn hơn là giàu có mà ích kỷ và bóc lột những người nghèo.”

- Các chính trị gia sẽ nhạo cười.

- Nhưng chúng ta cũng thế khi các chính trị gia này muốn thuyết phục chúng ta rằng học có thể làm cho nhiều người sống chung với nhau một cách công bằng và hạnh phúc (đay là định nghĩa của chính trị) mà không làm thay đổi các con tim.

Chúa Giêsu sẽ thực sự là vị vua của chúng ta như sau, Ngài không chỉ ngự trị trên các con tim mà còn trên các con tim đã được biến đổi. Các Kitô hữu phải ý thức hơn về tầm quan trọng của các cộng đồng, và do đó ý thức về chính trị, vì hạnh phúc của nhiều người, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ bé miệng.

Thế là Tin mừng tỏ ra sức mạnh xã hội cua mình. Tin mừng không cung cấp cho một nền chính trị lý tưởng, mà là không ngừng phê bình tất cả các chế độ cụ thể. Tin mừng rèn luyện những con người có khả năng hình dung ra những chế độ tốt nhất là có khả năng dấn thân.

Khi con người vượt lên trên những vấn đề cá nhân để cố gắng xây dựng theo Bát Phúc một thế giới huynh đệ hơn thì ở đó Chúa Kitô ngự trị.

 

73. Suy niệm của JKN- 2

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu hoàn toàn vô tội và hết sức thánh thiện lại cùng chịu chung một hình phạt ghê gớm nhất với những kẻ tội lỗi nhất. Bạn nghĩ gì về điều này?

2. Để nâng con người tội lỗi lên hàng thánh thiện, phải chăng Đức Giêsu – vốn đồng hàng thánh thiện với Chúa Cha – phải tự hạ đến mức trở nên đồng hàng với những kẻ tội lỗi nhất của trần gian? Phải chăng đó là cái giá phải trả cho sự cứu chuộc tội lỗi? Ta có thể rút ra bài học gì cho công việc tông đồ của ta?

3. Đức Giêsu là Vua của vũ trụ, điều đó có liên quan hay ảnh hưởng gì tới ta, nếu Ngài vẫn chưa phải là Vua của lòng ta? Ta đã nhận Ngài là Vua của lòng mình thật sự bằng cuộc sống chưa? Hay chỉ bằng những lời tuyên xưng thôi?

Suy tư gợi ý:

1. Bối cảnh bài Tin Mừng

Bài Tin Mừng mô tả cảnh ba tử tội bị hành quyết, trong đó có 2 tên gian phi và 1 thầy đạo. 2 tên gian phi bị tử hình thì cũng đáng đời, họ là những cặn bã xã hội, bị coi là những phần tử xấu xa nhất của con người, cần phải loại trừ. Nhưng thầy đạo Giêsu thì chẳng những hoàn toàn vô tội, mà còn là con người thánh thiện nhất nhân loại, thậm chí nhất vũ trụ. Thật là hai thái cực cùng gặp nhau trong một cảnh ngộ đặc biệt. Chính trong cảnh ngộ này, một trong hai tên gian phi, từ một kẻ đầy tội lỗi, trong phút chốc, đã trở nên vô tội và công chính trước mặt Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Còn tên kia thì «mèo vẫn hoàn mèo», tội lỗi vẫn hoàn tội lỗi. Sự biến đổi nội tâm của tên gian phi diễm phúc ấy sở dĩ thành tựu là do hội đủ hai yếu tố quan trọng này: một đằng là quyền năng cứu chuộc và tha tội của Đức Giêsu, Ngài đã chết như thế là để cứu loài người chúng ta trong đó có hắn; một đằng là niềm tin của tên trộm vào Đức Giêsu và lòng hối cải thành thật của hắn. Thiếu một trong hai yếu tố đó, sự biến đổi hay cứu rỗi không thành tựu được.

2. Đức Giêsu, một vị vua hy sinh và chết cho thần dân mình

Câu chuyện xảy ra mang một ý nghĩa hết sức sâu xa. Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng để cứu chuộc nhân loại, Ngài đã tự xóa, tự hạ mình từ địa vị Thiên Chúa, mức cao nhất của vũ trụ, xuống đến mức thấp hèn nhất của loài người. Từ Thiên Chúa hạ mình xuống làm người đã là một hành động xóa mình không thể hiểu nổi. Thế mà khi đã làm người, Ngài còn tiếp tục xóa mình hơn nữa bằng cách hạ mình đến cùng tột trong trật tự con người: sinh ra nghèo nàn trong chuồng bò, làm con của một phụ nữ và con nuôi của một ông thợ mộc rất tầm thường về mặt xã hội và tôn giáo thời đó, cả cuộc đời sống rất nghèo nàn, và cuối cùng chết một cách thảm thiết, nhục nhã, dường như mất hết danh dự. Ngài chết không một mảnh quần áo che thân, giữa hai tên trộm cướp: khó có một cái chết của một đạo sư thánh thiện nào lại thê thảm và nhục nhã như vậy.

Như vậy, để nâng phẩm giá con người lên trước mặt Thiên Chúa thì Đấng có phẩm giá cao nhất đã phải tự hạ đến mức tận cùng thấp nhất. Để con người được hạnh phúc thì Đấng hạnh phúc nhất phải chịu đau khổ đến tận cùng. Để thánh hóa con người, Đấng thánh thiện nhất phải hòa mình và trở nên đồng hàng với những con người tội lỗi nhất. Để cứu chuộc con người, Đấng cứu chuộc phải chấp nhận cảnh cùng khốn nhất, nguy hiểm nhất, và vô phương cứu chữa nhất. Để thực hiện công lý, Đấng công bình nhất phải chịu cảnh bất công nhất của con người… Theo luật công bằng, đó là cái giá tất yếu phải trả để cứu chuộc. Và hành động cứu chuộc như thế đó chính là tư cách phải có – theo quan điểm của Thiên Chúa – của một Vị Vua Vũ Trụ, Vua Thế Giới. Muốn là Vua cách xứng đáng nhất thì phải yêu thương và phục vụ đến tận cùng, phải tự xóa mình để mọi tạo vật được nổi bật lên. Chính Thiên Chúa đã tự hạ đến tận đất đen để đưa con người lên tận mây xanh! Đó là đường lối và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: «Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người» (Mc 9,35; x. Mt 20,26).

Nhờ hòa nhập vào cảnh cùng cực và nhục nhã của hai tên gian phi, Ngài đã tạo cơ hội cho hai tên này được cứu rỗi. Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp? Không ra khơi, làm sao bắt được cá? Người muốn cứu rỗi linh hồn mọi người, mà không chịu ra khỏi tháp ngà đầy nhung lụa của mình để đến với họ, cứ đòi họ phải đến với mình, làm sao cứu ai được? Làm tông đồ kiểu đó, chắc chắn không phải là tông đồ của Đức Giêsu. Nếu Ngài cũng như ta, đòi ai muốn được cứu phải lên trời gặp Ngài, Ngài mới cứu, thì liệu chính ta có được cứu không?

3. Hai yếu tố quan trọng để được cứu rỗi hay nên thánh

Cùng chịu đóng đinh bên cạnh Đức Giêsu, hai tên gian phi đều có cơ hội được cứu rỗi như nhau. Nhưng họ có được cứu rỗi hay không còn tùy thuộc vào chính bản thân họ có thiện chí và có muốn được cứu hay không. Cũng như trước hai dĩa đồ ăn như nhau, cả hai đều có cơ hội no bụng như nhau, nhưng no hay không còn tùy thuộc vào việc họ có chịu ăn đồ ăn đó hay không. Không ai có thể ăn dùm ta mà ta no được! Việc cứu rỗi cũng thế, cũng tùy thuộc hai yếu tố: «Có Trời mà cũng có ta» (Nguyễn Du). Thiên Chúa đã làm đủ mọi sự để ta có thể được cứu rỗi, sẵn sàng ban đủ ân sủng để ta nên công chính, nhưng ta có được cứu, được nên công chính hay không, còn do ta nữa. Thánh Âutinh nói: «Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta. Nhưng để cứu rỗi ta, nếu ta không cộng tác, Thiên Chúa không thể thực hiện được». Không có ta cộng tác, Thiên Chúa đành chào thua! Việc nên thánh, việc tông đồ, hạnh phúc gia đình và bản thân, việc làm ăn… của ta ở đời này cũng thế, thành công hay thất bại một phần do hoàn cảnh khách quan, và một phần do chính bản thân ta.

Để được cứu, được nên công chính trước mặt Thiên Chúa – như trong trường hợp của hai tên gian phi kia – xem ra quá dễ dàng, thế mà chỉ có một người được cứu. Vấn đề không hệ tại ai tội lỗi hay tốt lành hơn ai, chưa chắc tên trộm được Chúa tha thứ kia trước đó đã phạm ít tội ác hơn tên kia. Vấn đề cốt yếu nằm ở chỗ: có tin vào quyền năng và lòng nhân từ của Thiên Chúa, của Đức Giêsu, và có thật sự muốn sống theo niềm tin đó hay không. Đức Giêsu nói: «Ai tin sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án» (Mc 16,16); Phaolô nói với viên cai ngục: «Hãy tin vào Chúa Giêsu, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ» (Cv 16,31). Niềm tin không chưa đủ, còn phải sống theo niềm tin ấy, là tinh thần của Tin Mừng: «Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo; bằng không thì anh em có tin cũng vô ích» (1Cr 15,2); «Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?» (Gc 2,14).

4. Đức Giêsu có thật sự đang là Vua của lòng ta không?

Theo tinh thần trên thì Đức Giêsu có làm đủ mọi thứ cho ta để ta được cứu rỗi cũng trở nên vô ích cho ta nếu không có sự tự nguyện cộng tác của ta. Cũng vậy, Đức Giêsu có là Vua của vũ trụ, có xóa mình tự hạ, có yêu thương và hy sinh chết cho ta cả trăm lần đi nữa cũng vô ích cho ta, nếu ta không nhận Ngài là Vua của lòng ta, và ta không sống đúng tinh thần từ bỏ mình và yêu thương của Ngài. Thật vậy, ta chỉ nhận được sức mạnh từ nơi Ngài khi nào ta từ bỏ mình đi trước mặt Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta, và ta hoàn toàn sống theo thánh ý của Ngài. Điều rất nghịch lý nhưng lại rất đúng là chỉ khi nào ta để Ngài làm chủ bản thân ta, thì ta mới thật sự làm chủ bản thân mình. Vì Ngài mới chính là bản thân đích thực của ta: «Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi» (Thánh Âu Tinh), nghĩa là Ngài là tôi hơn chính tôi.

Nếu không để Ngài làm chủ bản thân ta, thì kẻ làm chủ bản thân ta sẽ là dục vọng hay ý ngông của ta. Và vì bản thân ta đã bị hư hoại bởi tội nguyên tổ và tội riêng, nên kẻ âm thầm làm chủ dục vọng hay ý ngông của ta lại chính là ma quỷ. Vì thế, rất nhiều khi ta tưởng ta đang làm theo ý muốn của ta, nhưng rốt cuộc là ta đang làm theo ý muốn của ma quỷ, là kẻ luôn luôn muốn làm hại ta.

Nhân dịp Giáo Hội mừng kính Đức Giêsu là Vua Vũ Trụ, ta cần nghiêm túc xét lại xem ta đã thật sự để Ngài làm Vua của tâm hồn ta chưa? Nếu chưa, hãy thống hối và quyết tâm để Ngài làm Vua thật sự của ta. Việc làm Vua của Ngài trong tâm hồn ta phải được thể hiện thật sự và cụ thể trong cuộc sống, chứ không chỉ qua lời tuyên xưng xuông của ta.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con vẫn tuyên xưng Cha là Thiên Chúa, tuyên xưng Đức Giêsu là Vua cả vũ trụ. Nhưng trong thực tế của đời sống con, dường như Cha chưa phải là Thiên Chúa của lòng con, Đức Giêsu chưa phải là Vua của lòng con. Có lẽ vua của lòng con từ xưa tới nay vẫn là danh vọng, tiền bạc, quyền hành, lạc thú chứ chưa phải là Đức Giêsu. Thực tế là như thế, nhưng con lại không đủ can đảm để nhìn nhận thực tế đó để ăn năn hối cải. Con vẫn chưa sống thực với chính mình. Chính vì thế, con chưa được sống trong bình an và hạnh phúc đích thực của Cha. Xin cho con biết thật sự nhận Cha là Thiên Chúa của bản thân con, và nhận Đức Giêsu là Vua của lòng con, trong thực tế hằng ngày của đời sống con.

 

74. Suy niệm của William Barclay.

Người ta nói nhiều về người trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi thờ một vị thánh. Được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Có một chuyện kể hắn là một thứ Robin Hood của Do thái, ăn trộm của người giàu để phân phát cho người nghèo. Có chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương quá nên hắn không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: “Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên tôi giây phút này nhé!” Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ đã gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha, lần này thì Chúa Giêsu đã cứu anh ta.

Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã thực hiện điều mà trước đây cả bảy trăm năm Isaia đã tuyên sấm: “Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân.” (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân hạng nặng, đứng đầu trong bọn đầu trộm đuôi cướp. Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp. Nếu là Philatô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu “Vua Do thái”, cũng có thể do bọn đầu mục Do thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử đáng chú ý hơn cả trong bọn. Sự thật ấy là có một cái gì hiểm độc trong hành động này về phía loài người. Thế nhưng, điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài. Từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu “bạn của người thây thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giêsu đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật thích hợp Ngài đã chết giữa họ. Cho đến lúc này,Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của những người đã bị treo hai bên Ngài, là một thực hiện và là một báo hiệu. Thực hiện điều cụ Si-mê-on nói về Chúa Giêsu trong Đền Thờ: “Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu.” (Lc 2,34), và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cưu, trong lúc một số khác thông tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên phải, bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Luca đều ghi lại: Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài, Luca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc,kẻ bên phải ăn năn. Có thể lúc đầu hắn cũng hùa theo tên bạn rồi sau mới tỉnh ngộ. Nếu thế, thì đây không phải lần đầu tiên, hắn ta bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi, có lẽ tên đồng bạn này từ lâu vốn là ác quỷ bên cạnh hắn, đã phá đổ cuộc đời hắn, và cuối cùng đưa hắn vào kết thúc nhục nhã này. Một con người, mà cuộc đời đã đến chỗ sắp tàn như thế, mà lại còn đi mắng nhiếc người đồng cảnh ngộ, thì hèn hạ không biết chừng nào! Đau quá hóa điên, làm liều tất cả để tạm quên những đau đớn của mình, y như một con vật mắc bẫy cắn bất cứ cái gì nó gặp… Đó là tình trạng của tên cướp không chịu ăn năn! Còn tên kia thì kinh hãi lùi xa bạn, chính tội ác ấy đến mức lằn tối đã khựng lại và quay ngược lại. Lần đầu tiên trong đời, hắn nhận thức được con người thực của hắn: hèn hạ xấu xa.Ý thức ấy hắn có được, là nhờ nét tương phản với vẻ mặt bình tĩnh của Đức Giêsu. Đã từ lâu, tên bạn tàn bạo kia vẫn là lý tưởng của hắn, thế nhưng, giờ đây đối chiếu với thái độ bình tĩnh chịu đựng của Đức Giêsu, sự hung bạo kia chỉ là thấp hèn. Để giải thích sự ăn năn đột ngột này, có người cho rằng tên cướp này đã gặp Đức Giêsu rồi, chắc chắn là hắn đã nghe Ngài cầu xin tha thứ cho kẻ thù, đã thấy thái độ của Ngài trên đường dẫn tới Núi Sọ, được nghe lời Ngài nói với nhóm phụ nữ thương hại Ngài. Rồi, chính những tiếng nhục mạ của kẻ thù đứng dưới chân thập giá ném vào Ngài những danh hiệu mà Ngài tự xưng hay bị ghép cho, giúp hắn nhận ra Chúa Giêsu là ai! Có thể, hắn còn được chứng kiến, hay nghe được vụ xử của Ngài trước tòa Philatô… Còn lùi xa hơn nữa thì quả chúng ta không có bằng chứng chắc chắn. Hắn được nghe Ngài giảng chưa, đã được thấy phép lạ nào của Ngài chưa? Hắn đã biết được gì về vương quốc mà hắn đã cầu xin với Ngài không? Dầu sao đi nữa, thì lúc này, lòng hắn cũng tràn ngập đau đớn hối hận vì tội lỗi, và tràn đầy tin yêu, nên chỉ cần một tàn lửa phát xuất từ thánh giá Chúa Cứu Thế, cũng đủ làm cho đức tin bùng lên. Lòng ăn năn được biểu lộ qua câu nói với đồng bạn: “Mày không sợ Thiên Chúa sao?” chắc hẳn, trước đây hắn đã quên Chúa, dẹp Ngài qua một bên trong suốt thời gian tội lỗi, nhưng giờ đây Chúa đang ở gần, và trong ánh sáng của Ngài, hắn đang nhìn ra tình trạng tội lỗi của mình. Hắn công khai thú nhận, chẳng những trong lòng, mà còn bằng lời nói. Như vậy là vứt bỏ dĩ vãng, quá khứ tội lỗi, mà còn cắt đứt liên hệ với tên cướp không chịu ăn năn. Lại nữa, nhìn lại cuộc đời đã qua, hắn thấy đã bị nhơ nhuốc vì những hành động mà hắn biết rằng chỉ có cái chết là hình phạt xứng đáng. Kẻ thống hối sợ đến với Chúa là chuyện rất bình thường, vì nghĩ rằng tội họ quá lớn không thể tha thứ được. Thế nhưng, trường hợp của tên cướp ăn năn, là một bảo đảm rằng Chúa ban đầy đủ ơn tha thứ cho những người như thế. “Máu Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, rửa sạch tất cả mọi tội lỗi chúng ta.” (1 Ga 11,7) “Lạy Chúa, khi nào về nước Chúa, xin nhớ đến con.” Câu nói thật đơn sơ và khiêm nhường, nhưng biểu lộ rõ ràng niềm tin nơi Chúa; tất cả điều dám mơ ước là Chúa nhớ đến anh ta khi về nước Ngài. Chúa Cứu Thế được nhận biết giữa những tiếng kêu gào của đám quần chúng bị sách động, giữa những tiếng kêu than ai oán vì tội ác, giữa những tiếng cuồng loạn của đám người chống đối. Thiên Chúa chỉ nghe thấy có một tên trộm bị đóng đinh. Giữa lúc, những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài. Nếu thiếu niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương, nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài… chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo… Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần (ngoài ba người đứng dưới chân thập giá), chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh. Anh thấy tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh. Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai vua cả, thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể, thấy sự sống trong cõi chết, vinh quang trong nhục nhã… “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”

Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo “Không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói” (Mt 12, 20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? “Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi.” (Ga 6, 37). Chúa Giêsu đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi. Minh chứng của tên trộm là một chiến thắng vĩ đại của Chúa Giêsu, và Ngài đã dùng nghị lực mạnh mẽ hơn khi chế ngự thiên nhiên, Ngài mất sự sống nhưng cứu một linh hồn, tay Ngài bị đóng chặt vào thập giá vẫn có thể mở được cửa trời. Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá, trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài, trong lúc những lời gào thét “Nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình” không làm Ngài hé môi… Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.” Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, Mô-sê, Ngài hứa và nói về thế giới vô hình ấy như một nơi quê hương quen thuộc, nơi mà Ngài nắm quyền hành, Ngài ban cho ai tùy ý…

Trong lời Chúa hứa: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”, từ thiên đàng dịch từ Paradi, và theo nguyên ngữ từ tiếng Ba-tư có nghĩa là “một khu vườn rào kín”. Khi vị vua Ba-tư muốn đặc biệt tôn trọng một bày tôi nào của Ngài, thì người ấy được cùng dạo mát với vua trong vườn thượng uyển. Chúa Giêsu đã hứa cho tên trộm ăn năn đó một sự gì quý báu hơn là sự bất tử, Ngài hứa cho hắn vinh dự được làm bạn của Ngài trong vườn cực lạc trên trời.

Để được vinh dự như người trộm lành, thánh Phê-rô đã khuyên bảo các tín hữu đầu tiên cũng như tất cả chúng ta: “Anh em hãy nỗ lực chứng tỏ mình đã thật được Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn, anh em sẽ không còn vấp ngã nữa. Thiên Chúa sẽ mở rộng cửa tiếp đón anh em vào nước vĩnh cửu của Chúa Cứu Thế Giêsu, Đấng cứu rỗi anh em." (2 Pr 1, 10.11). và trước đó thánh Phê-rô đã khai triển việc nỗ lực chứng tỏ ơn gọi chọn đó bằng: “Không phải chỉ có tin là đủ, mà còn phải sống cuộc đời đạo đức. Lại phải học hỏi và biết rõ Chúa hơn và tìm hiểu Chúa muốn mình làm gì. Lại phải biết tự chủ và kiên tâm sống cuộc đời tin kính. Nhờ đó, anh em biết đối xử với người đồng loại trong tình huynh đệ và nhất là yêu thương họ cách chân thành” (2 Pr 1, 5s)

 

75. Những điều lạ lùng – Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay, trên thế giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho. Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng, đương sự phải có một bài diễn văn rất hay... như là một cách thức cám ơn dân chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân và giữ gìn an ninh quốc gia.

Hôm nay, kết thúc năm Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái chết (x. Ga 1,29). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.

1. Đức Giêsu là vua cách lạ lùng

Nếu một vị vua theo kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua, lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu "diễu sĩ dương oai" không kèn không trống.

Vương quyền của Ngài được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: "Đây là Vua dân Do Thái". Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do thái thời bấy giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.

Vương niệm của Ngài không phải là mũ làm bằng kim loại quý (thường là bằng Vàng) và được khảm những châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là 12 tông đồ, ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao, họ còn là kẻ bán Chúa, trối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn,... Áo cẩm bào thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và 2 tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô "chúc tụng vạn tuế đức vua" thì lại là: "đóng đinh nói đi", "đóng đinh nó vào thập giá", đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ, thay vì ở trong thành phố... Diễn từ khai mạc là: "Lạy Cha xin hãy tha cho họ" và sau cùng: "Mọi sự đã hoàn tất".

Khi lập pháp thì lại hoàn toàn "Vâng theo ý Cha". Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: "Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Và "Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết... Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta"(Is 53,7-8). Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu đài, mà là: "con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ dựa đầu".

Như thế, triều đại của Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.

2. Đức Giêsu là vua của Tình Yêu

Thế nhưng, đường lối của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.

Ngài là Vua, nhưng lại là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu. Một vị vua thiếu thốn đủ điều: "Con Người không có nơi tựa đầu", một vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực "mềm" chứ không phải là quyền lực "cứng" như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.

Vị Vua ấy được ví như người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì đoàn chiên của mình (x. Ed 34,11-12.15-17). Thật vậy, người mực tử chân chính là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất (x. Lc 19,1-10). Và vì yêu, Ngài đã "đền bù tội lỗi cả thế gian" (1 Ga 2,2), cũng vì yêu mà: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người" (2 Cr 5,21). Đức Vua ấy đã trở nên: "Người Tôi Tớ khổ đau của Giavê Thiên Chúa", Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài "đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi" (x. Is 53,2-12). Vì yêu, Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng... Vì thế, Ngài đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13).

Và như một quy luật: sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: "Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào vương quốc của mình qua lời tuyên bố: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng ".

3. Người Kitô hữu tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu đều được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.

Khi thông chia và được thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí tích Rửa Tội, mỗi chúng ta đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.

Là người kitô hữu, chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần túy trần thế. Ở điểm này, thánh Phaolô đã diễn tả: "Đức Kitô, Đấng vốn dĩ giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9).

Thật vậy, muốn được cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt của cùng một tấm mề đai.

Lời mời gọi của Đức Giêsu: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11: 28-29). "Mang lấy ách" của Chúa là gì nếu không phải là: "Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em". Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim chân thành.

Thật vậy, chúng ta không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.

Ước gì sống tinh thần nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì yêu.

Sống được như thế, chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt 25,34), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị (x. Pl 2,6-11).

Lạy Đức Giêsu là Vua vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những người yêu và được yêu. Amen.

home Mục lục Lưu trữ