Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 74

Tổng truy cập: 1444909

ĐỨC GIÊSU SỐNG LẠI

  1. Đức Giêsu sống lại – Đinh ngọc Thiệu
  2. Sau khi sống lại Đức Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần

Mặc dầu đã được Kinh Thánh cũng như chính Đức Giêsu báo trước về Ngài, các môn đệ vẫn tỏ ra bàng hoàng sợ hãi khi chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Ông Phê-rô thì chối Chúa, các môn đệ hầu hết đã bỏ trốn chỉ còn một số ít theo Người xa xa. Bao nhiêu mộng ước của các ông dường như đã tiêu tan cùng với cái chết của Thầy mình. Khi được báo tin Chúa sống lại, các ông vẫn còn bán tín bán nghi. Đức Giêsu đã phải hiện ra nhiều lần để trấn an, giải thích và củng cố niềm tin cho các ông.

Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay thuật lại hai lần hiện ra của Đức Giêsu với các môn đệ trong phòng cửa đóng kín và lời đầu tiên của Ngài là lời chúc bình an cho các ông. Trong cả hai lần gặp gỡ, Đức Giêsu đã lập lại lời chúc này tới ba lần. Ngài đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài, các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, nhưng lần hiện ra này vắng mặt ông Tôma. Tám ngày sau các môn đệ lại tụ họp trong nhà, có cả ông Tôma ở đó nữa. Trong khi các cửa đều đóng kín, Đức Giêsu đến đứng giữa các ông, và sau lời chúc bình an Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem Thày. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thày. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27) Xem ra Chúa có ý trách ông Tôma vì sự cứng lòng của ông, nhưng chính nhờ đó mà các môn đệ và các thế hệ sau này là chúng ta có thêm một bằng chứng mạnh mẽ về việc Chúa sống lại. Ở những lần hiện ra khác, Đức Giêsu cũng tỏ ra ân cần và thân mật khi gặp gỡ, giải thích Kinh Thánh hoặc cùng ăn uống với các ông.

  1. Đức Giêsu sống lại: bảo chứng cho phần rỗi chúng ta

Quả vậy, Thánh Phao-lô, trong thư gởi các tin hữu Cô-rin-tô, có viết: “… Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng,…lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15, 14-17). Việc Đức Giêsu sống lại cho chúng ta một bảo đảm chắc chắn chúng ta cũng sẽ được sống lại như Người. Thư thứ nhất của Thánh Phê-rô hôm nay giới thiệu cho chúng ta một “gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai… Gia tài đó chính là ơn cứu độ Người đã dành sẵn và sẽ bày tỏ trong thời sau hết” (1 Pr 1, 3-9). Nhưng không nhất thiết phải đợi lâu như thế, vì nhờ đức tin, chúng ta có thể nếm trước được niềm vui ơn cứu độ và có được sức mạnh để kiên trì trong thử thách. Và ngược lại chính những thử thách đó tinh luyện, làm cho đức tin của chúng ta nên tinh ròng hơn: Vàng là của phù vân, mà còn phải thử lửa, huống hồ là đức tin là thứ quí giá hơn vàng gấp bội (1Pr 1,7)

  1. Đức Giêsu sống lại: khởi đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần.

Đức Giêsu, sau khi sống lại, Ngài đã gặp gỡ các môn đệ và tiếp tục sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Ngài đã ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hay nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; Anh em cầm giữ ai thì, người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22). Từ đây, khởi đầu một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, Đấng áp dụng ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.

Chúa Thánh Thần, với bảy ơn của Ngài, đã biến đổi các Tông Đồ từ những người nhút nhát trở nên can đảm, từ những người thuyền chài ít học thành những nhà thuyết giảng hùng hồn (Cv 2,14-41). Các ông đã can đảm, sẵn sàng chịu mọi thử thách gian lao, đem Tin Mừng của Chúa đến với mọi người, không phân biệt Do-thái hay dân ngoại. Chúa Thánh Thần cũng hoạt động trong Hội Thánh: Đoạn sách Công Vụ hôm nay cho chúng ta thấy những ân huệ của Ngài sinh hoa kết trái nơi cộng đồng Kitô hữu đầu tiên: “Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng… Họ để mọi sự làm của chung, bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu… Họ đồng tâm nhất trí… và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv 2,42-47). Thật là một hình ảnh tuyệt vời về một xã công bằng và đầy tình nhân ái, hình ảnh của Nước Trời.

Lạy Cha, nhờ sự chết và phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu Con Cha, Cha đã ban cho chúng con một gia tài vô cùng quí giá là được trở nên con của Cha, được sống cuộc sống vĩnh cửu chan chứa niềm vui. Xin cho chúng con luôn ý thức ơn huệ cao cả này và luôn biết ca ngợi tình yêu bao la Cha đã dành cho chúng con.

 

  1. Niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh

(Suy niệm của Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn)

Chúa nhật thứ 2 Phục sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục khám phá thực tại mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Giêsu qua lăng kính của một môn đệ vốn được mệnh danh là “ông tổ thực nghiệm” – Tôma Đyđymô, để xác tín niềm tin vào Chúa Phục sinh cách mạnh mẽ; đồng thời tuyên xưng niềm tin đó cho muôn người.

Tôma “sinh đôi” hay còn gọi là Đyđimô, người làng Galilê, một trong số 12 môn đệ của Chúa Giêsu. Tin Mừng nói rất ít về người môn đệ này. Tôma trong Tin Mừng Gioan chỉ xuất hiện vỏn vẹn bốn lần, nhưng có đến ba lần ông xuất hiện trong những trường hợp rất đặc biệt, để lại những dấu ấn khó phai mờ.

Lần thứ nhất khi Chúa Giêsu muốn lên đường tiến về Giuđê, về làng Bêtania thăm lại người bạn Ladarô “đang yên giấc” của Người. Trong khi các môn đệ can ngăn vì cho rằng điều đó hết sức nguy hiểm bởi người Dothái đang tìm cách trừ khử Chúa, thì Tôma dỏng dạc tuyên bố: “Chúng ta cùng đi (lên Giuđê) để cùng chết với Thầy” (Ga 11, 16b). Rõ ràng Tôma là con người rất nhiệt thành, tận tuỵ và dám hy sinh. Tính cách của ông so với các môn đệ kia là rất riêng, rất đặc trưng, nó chứng tỏ ông là con người dám nghĩ, dám nói và dám làm trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Lần thứ hai trong diễn từ Biệt ly của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu khuyên nhủ các môn đệ đừng xao xuyến và lo lắng vì sự ra đi của Người. Bởi việc Người ra đi là có lợi cho các ông. Người đi để dọn chỗ cho các ông. Các ông vốn không hiểu Chúa Giêsu muốn nói gì, giờ lại nghe Người “bồi” thêm một câu nữa: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi”, làm các ông rối tung cả lên, chả hiểu gì thêm được nữa. Trong lúc các môn đệ vừa buồn phiền vừa chẳng hiểu Thầy nói gì, Tôma lại lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14, 5). Câu hỏi của Tôma là nguyên nhân dẫn đến câu trả lời bất hủ của Chúa Giêsu, tóm trọn đạo lý của Thầy: “Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Lần thứ ba là câu chuyện sau khi Chúa sống lại. Lần hiện ra đầu tiên, Tôma vắng mặt. Tin Mừng không nói lý do nhưng chúng ta có thể hiểu tâm trạng của Tôma cũng như của hầu hết các môn đệ trước biến cố xảy đến cho Thầy. Như hai môn đệ Emmau, chắc hẳn Tôma cũng buồn phiền, lo lắng, thậm chí chạy trốn nữa, nhưng ông không thể rời xa cộng đoàn thân yêu của mình. Chính vì thế, ông đã quay về, ở lại để rồi chứng kiến việc Chúa Phục sinh hiện ra cho riêng cá nhân ông. Nghe các môn đệ thuật lại câu chuyện Thầy sống lại, Tôma thấy có điều gì đó không ổn. Không ổn là bởi vì Tôma cho rằng các môn đệ vì quá thương nhớ Thầy, tâm trí căng thẳng nên sinh ra những tưởng tượng chứ thực tế làm gì có. Theo ông việc này chớ vội vàng, cần phải kiểm nghiệm rõ ràng. Vì thế, ông dỏng dạc tuyên bố chính kiến của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Các môn đệ khác thì im lặng, đuối lý, còn Tôma thì ra sức chờ đợi và hy vọng…

“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúa Phục sinh hiện đến, đáp ứng những đòi hỏi, những lý luận mang tính thực nghiệm của Tôma. Chúng ta thấy phản ứng tức thời của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin Mừng như để chuộc lại lỗi lầm vì đã không tin vào điều các môn đệ truyền lại: “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma là nguồn cảm hứng được vang vọng trong kinh Tin kính của cộng đoàn Kytô tiên khởi và lưu truyền mãi đến muôn đời. Đây cũng là lời tuyên xưng của một con người tận mắt chứng kiến Đấng từ cõi chết sống lại để rồi trọn đời, Tôma đã sống và đã chết với lời tuyên xưng ấy.

Niềm tin vào Chúa Kytô Phục sinh không phải là một niềm tin ảo tưởng, mụ mẫm, rẽ tiền mà là niềm tin được chính Chúa Phục sinh hiện ra nhiều lần cho các môn đệ và đặt biệt, được chính Tôma “kiểm chứng” bằng phương pháp thực nghiệm rõ ràng. Chính vì thế, chúng ta- những người thừa kế di sản Tin Mừng và tiếp nối niềm tin vào Chúa Phục sinh do các môn đệ truyền lại, nguyện sẽ không ngừng sống, loan báo và làm chứng niềm tin đó cho nhân loại.

 

  1. Phúc cho ai không thấy mà tin – Lm. Trần Khả

Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.

Gặp Chúa Kitô Phục Sinh

Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.

Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên, “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”

Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài. Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Giống như các tín hữu của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.

Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội thuở ban đầu:

– Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ.

– Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.

– Các tông đồ làm được những việc phi thường.

– Họ để mọi sự làm của chung.

– Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.

Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.

Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin

Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.

Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, “Làm ơn cho tôi xem tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!” Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt niềm tin vào Ngài?

Một Câu Truyện

Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh. Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:

– “Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ nầy?”

Người môn sinh đó trả lời, “Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn.”

Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh. Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân chứng đáng tin cậy.

 

  1. Người chậm tin – Lm. Nguyễn Hữu Lượng

Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Tôma thất vọng. Đức tin của ngài đã suy yếu đến độ mặc dầu với nhiều chứng tích, mọi người đã tin Chúa sống lại, nhưng ngài vẫn đòi cho bằng được những bằng chứng cụ thể rồi mới tin: “Nếu tôi không thấy các dấu tích nơi tay Ngài, và cho tay tôi vào lỗ đinh cùng cho bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!”

Đã có bằng chứng cụ thể như Tôma đòi thì cần gì phải tin. Bởi vậy tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các tông đồ, mục đích để sửa lại lòng tin yếu kém của Tôma: “Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin.”

Tuy nhiên, ta đừng quên rằng biến cố Phục sinh là một biết cố quá phi thường vượt trên sức tưởng tượng của loài người. Không riêng gì Tôma, các tông đồ khác cũng đã không tin khi vừa nghe Chúa sống lại. Chúa biết vậy nên đã đến cứu đức tin của Tôma, và cũng nhờ đó các thế hệ sau nầy có được một công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ phát ra từ đáy lòng thống hối của thánh Tôma, làm mẫu mực cho chúng ta: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi.”

Trong lời nói đột xuất trên kia, thánh Tôma đã gọi Đức Kitô là Chúa, điều đó bao hàm rằng Chúa Kitô có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài có quyền lực để tự phục sinh từ cõi chết. Tôma đã xưng tụng Chúa Kitô là Thiên Chúa của ngài vì tin tưởng lòng Chúa bao dung, sẵn sàng tha thứ cho sự chậm tin của ngài.

Đó là một công thức đức tin đầy đủ và gọn gàng mà Phúc Âm ghi lại từ cửa miệng của một kẻ chậm tin như Tôma.

Và cũng để sửa lại sự chậm tin của mình, sau khi Chúa về trời, tông đồ Tôma đã mạnh mẽ tận hiến cả đời mình cho Tin Mừng Phục Sinh, ngài đã chết để làm chứng cho chân lý ngàn đời đó.

Đức Tin là một trong ba nhân đức Đối Thần, giúp ta chấp nhận mọi điều Chúa mặc khải về những mầu nhiệm vượt quá sự kiểm soát của trí khôn loài người, và thánh Phaolô đã cho ta một định nghĩa thực hành của Đức Tin như sau: ” Tin là chiếm hữu nhiều điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận ra các thực tại người ta không thấy. Vì nhờ đó, tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám cho.” (Dt 11,1-2)

Mỗi ngày Chúa Nhật, đi tham dự thánh lễ là chúng ta có cơ hội diễn lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Ta phải sống niềm tin đó, đem Chúa Phục sinh vào đời, nghĩa là đem niềm tin cho những ai đã mất lòng tin, đem sự vui tươi, niềm hy vọng sống lại cho những người ưu sầu vì tang tóc. Và chính chúng ta hãy thể hiện trên nét mặt và môi miệng niềm vui đó.

 

  1. Nuôi dưỡng niềm tin Chúa Phục Sinh

Kính thưa quý OBACE, các tông đồ và các phụ nữ thời Giáo Hội sơ khai đã may mắn hơn chúng ta, vì họ đã là những người tận mắt chứng kiến ngôi mộ trống, đã từng chứng kiến việc Chúa Giêsu hiện ra sau khi Người từ cõi chết sống lại, nhiều người trong họ được đồng bàn với Người, được đụng chạm đến Người. Còn chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ chúng ta không được tận mắt thấy những lần Chúa hiện ra và cũng không thấy mồ trống, nhưng chúng ta vẫn tin Chúa đã sống lại thật. Vây thì dựa vào đâu để chúng ta tin Chúa đã sống lại? Đó cũng là điều bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta.

Đoạn Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, và lần thứ hai cuộc hiện ra như được dành riêng cho một tông đồ thiệt thòi hơn các tông đồ khác, đó là Tôma. Có lẽ vì quá thất vọng và hoảng sợ, trong khi các tông đồ khác dựa vào nhau để nâng đỡ nhau, thì Toma lại chọn một hướng khác, có lẽ ông bỏ về quê. Vì thế ngay buổi chiều ngày thứ nhất, Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có Toma ở đó. Với lần hiện ra này, Chúa Phục sinh đã ban cho các tông đồ một sức sống mới và một ơn thật đặc biệt, thật cần thiết cho các ông lúc này, đó là sự bình an. Vì cái chết của Chúa Giêsu quả thật còn đang đè nặng trên các tông đồ, những tiếng la hét giết đi, đóng đinh nó vào thập giá, của đám đông Do Thái như còn đang ám ảnh các ông, khiến các tông đồ sợ hãi, rút vào trong nhà và đóng kín cửa.

Biết được tâm trạng của các tông đồ, biết được nhu cầu của các ông, Chúa Giêsu đã hiện ra trước mặt các ông, và Ngài nói: Bình an cho các con. Không chỉ như thế, để củng cố đức tin cho các ông, Chúa Giêsu đã cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, Người đã thổi hơi trên các ông và nói: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Thánh Thần chính là quà tặng sự sống mà Chúa Phục sinh trao ban, cùng với hình ảnh thổi hơi, nhắc cho chúng ta nhớ đến hơi thở đầu tiên Thiên Chúa thổi vào Ađam khi ông còn là tượng đất, Thiên Chúa đã thổi sinh khi vào lỗ mũi và cho con người có sự sống, thì hôm nay, hơi thở của Đấng Phục Sinh được thổi trên các tông đồ, để trao ban cho các ông một sức sống mới, biến các ông thành con người mới, thành tạo vật mới và sống trong một thế giới mới, thế giới của sự sống.

Cùng với hơi thở Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các tông đồ một sứ vụ hết sức quan trọng, đó là sai các ông ra đi, cùng ban cho các ông quyền tha tội. Với năng quyền tha tội, các tông đồ thực hiện và trao ban tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa, hay cụ thể hơn, đó là các ông trở thành hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, và để biến đổi thế giới nên một thế giới mới, thế giới của tình yêu thương và tha thứ.

Với những sự kiện và sứ vụ quan trọng được trao cho các tông đồ như thế, nhưng rất tiếc, tông đồ Tôma đã không có mặt. Chính vì tách lìa khỏi cộng đoàn các tông đồ, tức là Giáo Hội, nên khi các tông đồ khác làm chứng về việc Chúa sống lại, Tôma đã không thể đón nhận được tin mừng Phục sinh. Không chỉ như thế, ông còn đi đến một thái độ cực đoan khi ông tuyên bố: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin.

Chúa Giêsu đã không nỡ để cho đức tin của Tôma bị khô héo, cũng không muốn để cho ông đứng bên ngoài cộng đoàn Giáo Hội, nên có thể nói tám ngày sau Chúa đã hiện ra cho riêng Tôma. Việc làm này thể hiện lòng thương xót của Chúa, vì Thiên Chúa không muốn để cho bất cứ một ai phải rơi vào tuyệt vọng. Tin Mừng nhấn mạnh: Tám ngày sau các môn đệ tụ họp trong nhà và có cả Tôma ở đó với các ông. Chi tiết này cho thấy dường như Tôma đã quay trở lai với cộng đoàn sau những ngày, vì lý do gì đó, ông đã chọn tách ra khỏi anh em tông đồ. Trong bầu khí xum họp và hiệp nhất này, Chúa Giêsu lại một lần nữa hiện ra với các tông đồ, và Người gọi đích danh Tôma: Hãy đặt ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và thọc vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin. Trước đặc ân to lớn này, Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa, Đấng tổ tiên ông vẫn tôn thờ. Chúa Giêsu đã trả lời Tôma: Vì con đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai đã không thấy mà tin. Qua lời này, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những thế hệ tín hữu sau này, họ không được chứng kiến những lần hiện ra của Chúa, cũng không được diễm phúc đụng chạm, ăn uống với Chúa như Tôma và các tông đồ, nhưng họ vẫn tin nhờ lời làm chứng của các tông đồ và của cộng đoàn Giáo Hội.

Từ mệnh lệnh của Chúa Phục sinh, các tông đồ đã miệt mài lên đường để loan truyền tin mừng phục sinh cho thế giới, các ngài đã hình thành nên nhiều các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Sách Công Vụ cho thấy: Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Lời mô tả này cũng đủ để cho thấy có một sức sống đang tuôn chảy trong Giáo Hội và chi phối mọi hoạt động, và làm nên đời sống đức tin của các tín hữu.

Thưa quý OBACE, chúng ta sẽ không thể có được đức tin vững chắc vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nếu chúng ta không gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội, vì Giáo Hội chính là người mẹ sinh ra chúng ta trong đức tin, đồng thời cũng là thầy dạy chúng ta trong đức tin, và cũng là điểm tựa đức tin của chúng ta. Vì thế, ngày nay muốn có được một đức tin vững chắc, chúng ta cũng phải gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội và chuyên tâm lắng nghe lời giảng dạy của Giáo Hội, đồng thời cũng như các tín hữu sơ khai, chúng ta còn cần phải sống tinh thần hiệp thông với nhau trong cầu nguyện, và nhất là tham dự Thánh lễ, đó là những phương thế giúp cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người, nhiều nhóm, cùng với các phương tiện truyền thông, họ đang cố tình bôi xấu Giáo Hội bằng thổi phồng một số những sai phạm của các thành viên trong Giáo Hội, tạo sự nghi ngờ của chúng ta vào Giáo Hội, và thâm độc hơn, họ muốn tách chúng ta ra khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội, nếu chúng ta để mình rơi vào cái bẫy của thế gian, nó sẽ kéo chúng ta về phía nó, và biến chúng ta thành những kẻ thù nghịch, hoặc có thái độ bất mãn với Giáo Hội. Hãy hết sức cẩn thận với những cám dỗ và các khuynh hướnh đó, hãy tin tưởng, khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn của Giáo Hội, vì chỉ khi gắn bó với Giáo Hội, chúng ta mới có được một đức tin tinh tuyền và chính thống mà thôi, mà Giáo Hội cụ thể là Giáo phận, là Giáo xứ, là nơi chúng ta được nuôi dưỡng đời sống đức tin và được sự săn sóc của Giáo Hội là mẹ chúng ta.

 Không chỉ củng cố đức tin cho bản thân chúng ta, Đấng Phục Sinh còn mời gọi chúng ta trở thành những người loan truyền tin vui phục sinh và lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể đem Tin Mừng Phục Sinh cho người khác khi chúng ta chưa được biến đổi, chúng ta không thể báo tin vui cho người khác nếu chúng ta sống buồn bã chán nản hay thất vọng. Vì thế để có thể trở thành người loan Tin Mừng, thì trước tiên chúng ta phải là những người thực sự cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh thực sự là Tin Mừng cho bản thân, Người đang hiện diện và đang thúc đẩy chúng ta, qua lối sống, qua cách làm việc va qua cách cư xử của chúng ta. Có như thế thì Tin Mừng mới có thể ảnh hưởng đến người khác được.

Mỗi người hãy là những người loan truyền tin Mừng Phục Sinh cho những người chung quanh bằng một đời sống vui tươi, được thể hiện trên gương mặt, trong đời sống, và trong cách làm việc thường ngày. Hãy sống niềm tin phục sinh bằng việc tin tưởng nơi Chúa và gắn bó với Giáo Hội, hãy góp phần làm cho cuộc cá nhân, cuộc sống gia đình và xã hội thêm vui tươi. Hãy bước ra khỏi sự ngại ngần sợ hãi để nói về Chúa Giêsu cho mọi người, và sống giới răn của Chúa trong xã hội hôm nay, đồng thời góp phần làm cho cuộc sống xã hội mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.

Xin lòng Chúa thương xót ban thêm đức tin cho chúng ta, và biến chúng ta trở thành những chứng nhân không mệt mỏi cho lòng thương xót và tình yêu thương của Chúa cho những người mà chúng ta thường gặp gỡ. Amen.

 

  1. Sống và loan truyền đức tin hôm nay

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết sống lại:

– Lần thứ nhất: Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tôma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thần Khí cho các ông (23).

– Lần thứ hai: sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tôma và khi gặp Chúa, Tôma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin! (29)

CHÚ THÍCH:

– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giêsu đến: Người hiện đến khi cửa nhà đóng kín cho thấy thân xác của Người sau phục sinh có đặc tính siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giêsu, và giờ đây Người lại truyền cho các môn đệ và các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giêsu Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giêsu được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các giám mục kế vị các tông đồ sẽ tiếp tục thông chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.

– C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi” (Đi-đy-mô). Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông hay thắc mắc để được Thầy giải thích rõ hơn (x. Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).

– C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giêsu đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giêsu tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.

– C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng đức tin đầy đủ nhất: Đức Giêsu vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.

CÂU HỎI:

1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như trong đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giêsu Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào ? 6) Đức Giêsu thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ để làm gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giêsu có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh khi nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma ? 9) Các tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giêsu đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng nào ? 12) Ngày nay các tín hữu chúng ta cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu ? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các tông đồ có giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu hôm nay ?

  1. SỐNG LỜI CHÚA:
  2. LỜI CHÚA: Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (Ga 20,28-29).
  3. CÂU CHUYỆN: Gương can đảm chịu chết vì Danh Chúa

Tờ báo ‘Tiếng Gọi’ (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.

Cậu bé được bà mẹ đạo đức khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách khác. Nhưng không những đám thủy thủ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi họ còn chế diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười bỏ qua và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.

Một lần kia khi đang làm việc trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giêsu thì các bạn sẽ được cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì danh Chúa Giêsu!” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu mới tỉnh dậy. Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa, và hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin Chúa tha thứ mọi tội lỗi của mình.

  1. SUY NIỆM:

Tin mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay đề cập đến đức tin của cộng đoàn môn đệ, và sự cứng tin của Tô-ma, tiêu biểu đức tin thực nghiệm của con người ngày nay như sau:

1) Tiến trình đức tin của cộng đoàn môn đệ vào mầu nhiệm Chúa phục sinh:

Sau khi Đức Giêsu chết và được an táng trong mồ, các môn đệ của Người tập trung tại nhà Tiệc Ly và vào buổi chiều ngày Thứ Nhất trong tuần, họ đã được Chúa Phục Sinh hiện đến đứng giữa họ đang khi cửa nhà vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Họ rất vui mừng được nhìn thấy Chúa. Sau lời chào chúc bình an, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Rồi Người sai các ông tiếp tục sứ mạng Thiên Sai và ban Thánh Thần để các ông thi hành sứ mạng tha tội cho mọi người (x. Ga 20,19-23). Sau đó các môn đệ đã báo tin cho Tô-ma, người duy nhất trong nhóm vắng mặt khi Chúa Phục Sinh hiện ra. Họ nói: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”. Nhưng ông Tô-ma không dễ dàng tin Thầy đã sống lại. Ông đòi phải được gặp Chúa và chỉ chấp nhận tin Chúa sống lại sau khi đã được “mắt thấy tay sờ” như sau: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25).

2) Lượng giá về đức tin thực nghiệm của ông Tôma:

Ngày nay con người đã bước vào kỷ nguyên mới của khoa học kỹ thuật và chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm. Họ luôn đặt dấu hỏi và hoài nghi mọi sự: Họ chỉ tin nhận sau khi đã tìm hiểu qua các bước như sau: Một là quan sát sự kiện và nêu giả thuyết. Hai là làm thí nghiệm để kiểm chứng giá trị giả thuyết. Sau cùng đề ra quy luật phổ quát để giải thích mọi trường hợp khác tương tự. Sự cứng tin của Tô-ma hôm nay phù hợp với lối suy tư khoa học thực nghiệm của con người thời nay. Thực vậy: Nguyên việc một người tín hữu sống tốt và ăn nói trung thực, nhưng lại có vốn hiểu biết hạn hẹp và hay bị kẻ khác lường gạt… sẽ không đủ uy tín để rao giảng đức tin và mời gọi người khác tin theo Chúa. Để chu toàn được sứ vụ làm chứng cho Chúa trong xã hội hôm nay, noi gương đức tin sáng suốt của Tô-ma, chúng ta cần tin vào Chúa Phục Sinh dựa vào Lời Chúa, vào đức tin của Hội Thánh qua các nghi thức phụng vụ. Rồi còn phải đào sâu về giáo lý Thánh kinh, cần áp dụng các kiến thức khoa học cơ bản trong việc lý luận và trình bày các mầu nhiệm đức tin một cách có hệ thống và chặt chẽ dễ hiểu và dễ tin hơn.

3) Cần canh tân việc loan truyền đức tin cho con người thời nay:

Trước đây người giáo dân dễ tin vào các linh mục, tu sĩ, hoặc cha mẹ, thầy cô… Khi học giáo lý, trẻ em dễ dàng tin vào những chân lý đức tin của Hội Thánh dạy mà không thắc mắc gì nhiều. Nhưng ngày nay và cho đến các thế hệ sau này, con người sẽ có sự đòi hỏi nhiều hơn khi nghe giảng dạy các mầu nhiệm đức tin để tin. Cần phải “nói có sách, mách có chứng”. Nếu không chứng minh bằng những sự kiện trong thực tế thì ít nhất cũng phải chứng minh sự đáng tin của các điều chúng ta rao giảng. Phải trình bày đức tin cách khoa học hợp tình hợp lý, có bằng chứng trong Thánh Kinh. Cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, lý luận chặt chẽ để giúp người nghe dễ dàng đón nhận chân lý. Dù đức tin là do ơn Chúa ban, nhưng nếu muốn cho việc rao giảng đức tin đạt được hiệu quả cao là được nhiều người thời nay đón nhận, thì đòi người rao giảng phải sống đức tin trước, và phải canh tân phương cách rao giảng kết hiệp với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.

4) Cần rao giảng đức tin bằng việc làm đi đôi với lời nói:

Đức Thánh Cha Phaolô VI đã để lại cho chúng ta một phương châm thực hành như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp Evangelii nuntiandi số 41). Con người thời nay đòi hỏi những bằng chứng cụ thể mới tin. Do đó, người rao giảng cần phải chứng tỏ điều mình rao giảng trước hết bằng chính cuộc sống của mình. Thật vậy, ai mà tin được là Tin Mừng thực sự cái tin mà chính người rao giảng lại mang nét mặt cau có buồn thảm ? Ai mà tin được là Tin Mừng giải phóng con người khi chính người rao giảng lại đang ngụp lặn trong vũng bùn tội lỗi và làm nô lệ cho các đam mê bất chính? Ai mà tin được là Tin Mừng cứu độ khi chính người rao giảng lại có lối sống ích kỷ vô cảm, khi các thành viên gia đình của họ luôn bất hòa dẫn đến nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình?

Đức tin không phải chỉ là tuyên xưng các tín điều Hội Thánh dạy khi đọc kinh tin kính… nhưng là xác tín Đức Giêsu chính là “Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa”, là “con đường, sự thật và sự sống”… để sẵn sàng tín thác, cậy trông và sống chết cho Người. Làm thế nào để Lời Chúa chiếu soi vào cách suy nghĩ, nói năng và ứng xử của chúng ta; Luôn sống kết hiệp với Chúa như cành nho tháp nhập và hút nhựa sống là ơn sủng qua việc dự lễ và rước lễ mỗi ngày… Nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ ngày một đổi mới nên tốt hơn, ứng xử công bình nhân ái hơn và sẽ sống trong bình an hạnh phúc hơn. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng của chúng ta se được người khác lắng nghe và là bước đầu giúp họ đón nhận đức tin để được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.

  1. THẢO LUẬN:

Cậu bé trong câu chuyện trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung thành với Chúa và luôn làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử thách cậu đã thành công. Vậy để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần làm gì để giúp con người thời đại hôm nay dễ dàng tin có Chúa và đón nhận các chân lý đức tin ?

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái. Xin cho chúng con mau mắn đáp lại tình thương cứu độ của Cha bằng việc sống đức tin thể hiện qua cách suy nghĩ nói năng và hành động, noi theo gương mẫu và lời dạy của Chúa Giêsu Con Cha. Xin cho chúng con biết rao truyền đức tin cho con người thời nay bằng lời nói, bằng sự hy sinh quên mình và khiêm tốn phục vụ những người bệnh tật đau khổ, hầu giới thiệu lòng thương xót của Chúa và giúp nhiều người tin theo để được hưởng ơn cứu độ.

  1. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

  1. Tôma chớ cứng lòng, nhưng hãy tin

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)

Có một điều xem ra rất kỳ diệu, ngộ nghĩnh, khó chịu một chút, nhưng cũng lại thật dễ thương nơi con người của thánh Tôma tông đồ. Bởi vì, các môn đệ đồng môn, các người phụ nữ loan tin rằng: ” Chúa đã sống lại rồi “. Tôma vẫn cứng đầu muốn kiểm chứng những lời bạn bè, đám đông đang ồn ào kháo láo và loan truyền về Thầy Giêsu đã sống lại có thật hay không, có đúng hay không và những điều các tông đồ khác nói chúng tôi đã thấy, chúng tôi đã gặp Chúa Phục Sinh đúng như thế nào?

Trước thái độ của Tôma, Chúa đã nói: ” Phúc cho những ai không thấy mà tin “. Do đó, đức tin đòi khiêm nhường. Chỉ có sự khiêm hạ thẩm sâu, lòng tín thác tuyệt vời nơi Thiên Chúa, người ta mới dễ dàng chấp nhận. Thánh Gioan đã thấy mồ trống, các băng vải, khăn liệm, Ngài đã tin. Thánh Gioan đã tin Chúa sống lại như lời chúa nói trước và Kinh Thánh đã dạy. Maria Mácđala và maria khác tuy chưa thấy rõ nhưng các bà đã nhận ra dấu chỉ Chúa sống lại, nhất là khi Chúa gọi tên Maria, bà đã thưa ” Rabboni ” ( lạy Thầy ). Tôma một cách nào đó muốn nhõng nhẽo với Chúa Phục Sinh, nên Ngài cứ khăng khăng phải gặp được Chúa sống lại và ngón tay của mình phải xỏ vào lỗ đinh nơi tay, nơi chân Chúa và bàn tay của mình phải thọc vào cạnh sườn Chúa thì Ngài mới tin. Thái độ của Toma hoàn toàn khác với những người Pharisêu và những người khác. Chúa khiển trách Toma cách dịu dàng, chỉ bảo. Toma không cố chấp để rồi chối từ tin, nhưng là để thấy rõ hơn và rồi tin mãnh liệt hơn.

Đức tin là tiếng kêu. Nó phát xuất từ cõi sâu thẳm của trái tim, của cõi lòng con người. Tôma đòi điều kiện nhưng khi đứng trước mặt Chúa Phục Sinh, Toma sợ run, đó chính là nét dễ thương của Tôma và Tôma kêu lên: ” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con “. Tin Mừng cho chúng ta thấy khi Chúa hỏi các môn đệ nghĩ sao về Chúa? Phêrô đã thưa: ” Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống “. Chúa đã lập tức nói với Phêrô: ” Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta ở trên trời “. Chúa xác định đó là tiếng nói của đức tin. Các môn đệ khi thấy đám đông bỏ đi vì Chúa Giêsu nói tới Bánh trường sinh, các Ngài vẫn một mực thưa với Chúa qua tiếng của Phêrô: ” Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “. Mácta cũng một lần tuyên xưng nơi Chúa: ” Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian “.

Đức tin là tiếng phát xuất từ đáy lòng và rồi con người nhận biết Chúa và nhất quyết sống niềm tin ấy qua đời sống hằng ngày. Người Kitô chỉ có thể sống niềm tin ấy khi họ thể hiện đức tin qua những việc làm cụ thể hằng ngày. Tình thương, đức bác ái và những cử chỉ tốt đẹp sẽ là những ánh lửa thắp sáng niềm tin, minh chứng cho bộ mặt đầy yêu thương của Chúa Kitô.

Như một vận động viên cầm ngọn đuốc Olympic chuyền qua tay vận động này tới vận động viên khác cho tới lúc anh châm ngọn đuốc sáng vào nơi để lửa Olympic chính thức đốt cháy suốt thời gian tranh tài…Đức tin phục sinh của mỗi Kitô hữu cũng phải được chuyền đi như ngọn đuốc Olympic…

Chúa Nhật II Phục Sinh được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là Chúa Nhật kính nhớ lòng thương xót của Chúa. Chúa luôn yêu thương nhân loại, yêu thương mỗi người, Ngài đã đổ máu của mình trên Thập giá để cứu độ con người. Ngài đã nói: ” Không tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu ” ( Ga 15, 13 ) ” Khi nào Ta bị treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “. Tình thương của Chúa được thể hiện trọn hảo nơi chính cái chết tự nguyện của Chúa trên Thập giá. Nữ tu Faustina đã được Chúa hiện ra và mạc khải: ” Lòng Thương xót của Chúa “.

Cử hành thánh lễ Chúa nhật II Phục Sinh, chúng con luôn tín thác nơi Chúa và luôn tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn một lòng tin tưởng vào Chúa. Amen.

 

  1. Lửa thử vàng, gian nan thanh luyện niềm tin

(Sr. Margareta Maria Hiền)

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi còn có tiếp tục quỳ gối không?

Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao?”

Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến nhưng cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ với các bạn khác.

Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:

– Anh là người kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.

Anh đáp lại:

– Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi không cho rằng tôi là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói. ( Tuyển tập chuyện hay- Phương Tây)

Trong cuộc sống đức tin hằng ngày chúng ta phải đương đầu, phải chiến đấu với bao nhiêu thử thách nơi chính bản thân cũng như nhưng ngoại cảnh. Chính vì thế có nhưng lúc chúng ta đi mò mẫm trong đường hầm tăm tối; chúng ta hoài nghi niềm tin của mình.

Sống trong một thế giới hưởng thụ, vật chất dồi dào, tiện nghi đầy đủ, khoa học đang trên đà tiến triển mạnh mẽ, con người đòi hỏi mọi cái phải được chứng minh rõ ràng như 2+2=1 rồi mới tin. Cũng như thánh Tôma trong bài Tin mừng hôm nay đã nói với các môn đệ: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Cũng như người thời đại ngày nay ông muốn những gì các môn đệ nói với ông về sự sống lại của Chúa Kitô thì chính mắt ông phải nhìn thấy, tay ông phải sờ vào vết thương của Ngài thì ông mới tin. Có nghĩa là niềm tin phải được chứng minh. Sau đó Chúa đã hiện ra với ông để củng cố lòng tin của ông, ông đã được toại nguyện, lúc đó ông mới vội vã thưa: ” Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” Nhưng Chúa đã bảo: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Vậy chúng ta là những người được Chúa chúc phúc vì chúng ta phải làm sao đức tin đó luôn sống động nơi chúng ta sống, môi trường chúng ta hoạt động. Xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta vẫn trung kiên; những khi phải tuyên xưng đức tin của mình chúng ta không e ngại nhưng phải can đảm và cương quyết như Arthur Jones trong truyện và cũng có lúc chúng ta kiên tâm cầu xin Chúa tỏ một tia sáng niềm tin đến trong đời sống để chúng ta nhận ra Ngài như Ngài đã đến với thánh Tôma xưa.??

 

home Mục lục Lưu trữ