Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 89
Tổng truy cập: 1445483
ĐỨC GIÊSU LÀ AI ?
Đức Giêsu là ai? – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Không ít các nhà chú giải Thánh Kinh có cùng nhận xét: Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ một câu hỏi vô cùng căn bản: “Các con bảo Thầy là ai?”, và tính chất tồn vong hay tiến lùi của đạo Kitô đều dựa vào yếu tố trả lời cho câu hỏi đó.
Không phải chỉ có trong thời Đức Giêsu người ta mới nói: “Ngài là Êlia, Gioan Tẩy giả, hay một tiên tri nào đó”, nhưng sau hơn 20 thế kỷ, tức sau một thời gian dài của nghe biết, học hỏi, và suy tư, vẫn không ít người, như anh em Hồi giáo, cho Ngài là một tiên tri lớn, hay dân Hy lạp xem Ngài là một hiền triết rất đáng kính trọng, hoặc dân Do thái chỉ coi Ngài như một con người siêu việt, không hơn không kém.
Nếu cùng một câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” được đặt ra cho bạn và tôi, chúng ta sẽ trả lời thế nào?
Phải chăng Ngài là một thủ kho để khi khổ đau túng thiếu, ta chạy đến Ngài nài van khấn hứa? Rồi nếu lời ta cầu được như ý thì mình hăng hái tin Chúa hơn một tí, yêu Chúa hơn một tí. Còn nếu không thì ta chán Chúa, chán nhà thờ, và chán đạo thêm một chút chăng?
Hay Đức Giêsu là một ông “kẹ”, một quan án nghiêm khắc, để hễ ta phạm tội là Ngài giáng xuống ít điều xui xẻo cho sáng mắt ra? Không chừng vì xem Chúa như ông kẹ, nên việc giữ đạo hay sống đạo của tôi cứ mãi chìm ngập trong sợ hãi, cốt sao khỏi sa hoả ngục là mừng lắm.
Hay có phải Đức Giêsu là một tượng thạch cao vô tri vô giác, chẳng đụng chạm gì đến con người, cuộc đời, và thế giới của tôi?
Thiết tưởng, nêu lên vấn đề qua việc nhìn lại câu hỏi căn bản của Chúa Giêsu, hầu tái khám phá chân dung đích thật của “Con Người” mà mình đang tin theo, hẳn không phải là một chuyện vô bổ.
Chắc chắn ai cũng công nhận Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử: sinh ra trong xã hội Do thái, lớn lên dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, chết trong thời quan Philatô làm tổng trấn Giuđêa. Ngài có những tính chất rất người. Ấy là cũng buồn, vui, sướng, khổ, khóc than, mệt nhọc, nóng nảy… nhưng cũng là một người rất hiểu biết, cảm thông, và nhân ái.
Ngài hiểu rằng: con người, ai cũng khát khao hạnh phúc. Trong câu chuyện bên giếng Giacóp với người phụ nữ xứ Samari, những mẩu đối thoại đã nêu lên điều đó. Chúa Giêsu nói với người đàn bà: “Cô nói cô không có chồng là đúng lắm. Nhưng đúng hơn là cô đã có 5 đời chồng, và người đang sống với cô lại không phải là chồng cô”. Đức Giêsu nói thế không phải để vạch trần hay lên án tình trạng vô luân của người đàn bà, song là tỏ bày một sự hiểu biết về niềm khát khao hạnh phúc nơi con người: con người tìm kiếm liên lỉ, tìm kiếm đến 5,6 đời chồng mà vẫn thấy chưa thoả.
Đức Giêsu cũng rất cảm thông trước nỗi khổ đau của nhân loại. Ngài từng dừng lại bên cửa thành Naim, thổn thức và chia sẻ nỗi niềm của một người đàn bà goá có đứa con trai qua đời. Niềm an ủi và chỗ tựa nương duy nhất không còn nữa. Nỗi đau thương đã đến tận cùng!
Đức Giêsu cũng từng rơi nước mắt, xót xa cho sự mất mát của hai chị em Matta và Maria khi Lazarô bị thần chết chế ngự.
Nhưng Đức Giêsu không dừng lại nới đó. Ngài không dừng lại với việc tỏ bày vai trò của một tiên tri khi biết chuyện đời người ta, hay một tâm lý gia đại tài khi biết lắng nghe, chia sẻ, và cảm thông với người khác. Song Ngài đã bộc bạch vai trò và chân dung của một Vị Thiên Chúa, một Đấng Cứu Độ-Đấng Giải Thoát.
Chúa Giêsu không chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của mình về nhu cầu hạnh phúc của con người với những khắc khoải kiếm tìm, qua 6 đời chồng vẫn bế tắc, uống mấy vẫn còn khát. Trái lại, Ngài còn chỉ ra mạch nước mà khi uống vào sẽ không còn khát nữa. Mạch nước đó đã phát sinh từ chính Ngài. “Ai uống nước Ta ban sẽ không hề khát… Ai tin vào Ta sẽ sống muôn đời”.
Chúa Giêsu không dừng lại với những cảm thông mất mát, chia sẻ khổ đau, và khóc than cái chết của con người. Nhưng Ngài còn chứng tỏ sức mạnh của một Thiên Chúa khi phục sinh kẻ chết, thánh hoá khổ đau, và mang lại niềm vui cứu độ cho thế giới.
Đó là tất cả những gì cần nói về chân dung của Đức Giêsu. Đó là tất cả những gì Thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Đó là lời xác tín của dân làng Samari sau khi được Chúa ghé thăm: “Chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế” (Ga 4,42). Và đó cũng là tất cả những gì Thánh Cyrilliô, một trong những nghị phụ chính của Công đồng Êphêsô đã xác định: “Chúa Giêsu phải là con người toàn hảo để hiểu thấu và cảm thông tất cả những yếu đuối, tội lỗi, bất toàn của chúng ta. Và Chúa Giêsu phải là Thiên Chúa để cứu chuộc chúng ta”. Bởi vì hiểu mà không cứu thì được ích chi, và cứu mà không hiểu thì cũng chỉ cứu nửa vời.
Thế nhưng, cái sức mạnh cứu chuộc-nguyên lý khiến cho Thiên Chúa hiểu thấu, cảm thông, và cứu độ-lại nằm trong một yếu tố duy nhất. Đó là Tình Yêu. Như vậy nói cô đọng, chân dung của Chúa Giêsu là chân dung của Tình Yêu. Và như thế đọc lại Thánh Kinh bạn sẽ chỉ thấy hình ảnh của một Tình Yêu đau khổ, một Tình Yêu cảm thông, một Tình Yêu tha thứ, một Tình Yêu hiểu biết, một Tình Yêu khoan dung, một Tình Yêu chịu đóng đinh, một Tình Yêu cứu độ, một Tình Yêu mang lại sự sống.
Khám phá ra dung mạo của Chúa Giêsu là tình yêu thương như thế thì tìm Chúa và theo Chúa nghĩa là gì nếu không phải là tiến đến với cội nguồn yêu thương đó. Đành rằng trong yêu thương cũng có muôn lối đi, ngàn phương đến, nhưng đích điểm vẫn là để bước vào cuộc tình sâu thẳm với Đức Kitô, và đồng thời làm sáng tỏ dung nhan Ngài qua đời sống thân ái với tha nhân của mình.
38. Nước Hằng Sống
Anh chị em thân mến,
Trong sinh hoạt của con người, Nước là một vật hết sức quan trọng và rất cần thiết. Thể xác con người cần có nước mới sống được. Người ta có thể nhịn ăn cả tháng trời, nhưng không thể nhịn uống... Mức độ nhịn uống chỉ vài ngày mà thôi. Trên trái đất, nước chiếm 2/3 diện tích và Nước rất cần cho sự tưới tiêu. Ngay cả cây cỏ cũng như súc vật, không có nước, sẽ chết hết... Trái đất này nếu không có nước, cũng chỉ là một hành tinh chết mà thôi, vì từ con người, đến súc vật, đến cây cỏ, nếu không có nước, số phận chắc chắn là phải chết.... Câu chuyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria hôm nay xoay quanh một chủ đề: Nước (nước hằng sống). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài từ:
Samaria: Nước Do thái từ Bắc xuống Nam dài khoảng 300 km, chia làm 3 miền rõ rệt. Miền Bắc: Galiêa - miền Nam: Giuđêa - miền Trung: Samaria. Mỗi miền có lối phát âm cách riêng biệt như người Việt Nam chúng ta. Riêng miền Trung (Samaria), miền này bị kể là dân ngoại. Người Do thái kỳ thị và khinh thường họ, cho dân Samaria là dân hợp chủng. Một người Do thái đàng hoàng không được phép nói chuyện và cả xin nước uống từ bất cứ chiếc bình nào của người phụ nữ Samaria.
Thờ Chúa trên núi này: vì người Do thái khinh thị và cắt đứt quan hệ với người Samaria, nên họ đã trả đũa bằng cách cho xây một đền thờ khác trên núi Garizim, cao 881m, mạn Nam thành Sikem. Có thể đứng bên giếng Giacop nhìn thấy núi này.
Thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật: Chúa muốn nhấn mạnh đã đến lúc không phải thờ Chúa trên núi này hay tại Giêrusalem, vì phải thờ phượng Chúa bằng thái độ nội tâm hơn là hình thức bên ngoài...
b/. Qua câu chuyện bên giếng Giacóp, chính Chúa Giêsu là người đi bước trước để gặp gỡ và cảm hóa người phụ nữ tội lỗi này. Chúa khởi sự từ việc Người khát nước và xin nước uống. Từ đó, Chúa hướng sự quan tâm của người phụ nữ sang thế giới khác, thế giới của tâm hồn. Dần dà, Chúa giải thoát khỏi những thiên kiến về sắc tộc, chính trị và tôn giáo. Phần chị ta, nhờ sự khéo léo của Chúa, lần hồi, chị ta khám phá ra người Do thái đang nói chuyện với mình là một tiên tri, là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi.
Điều kỳ lạ và bất ngờ là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria , bình thường khó mà xảy ra. Ít nữa chúng ta thấy có bốn trường hợp ngăn cách hai người này không thể gặp nhau: thứ nhất là vì sắc tộc: vì kỳ thị nên người Do thái không gặp gỡ tiếp xúc với dân Samaria , vì họ bị coi là tạp chủng, ngoại lai. Thứ hai là sự phân biệt nam nữ; vào thời đó gặp gỡ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ xa lạ là điều cấm, huống chi Chúa Giêsu lại gặp gỡ và nói chuyện với một người phụ nữ Samaria. Thứ ba: dù cả hai xứ, đều thờ chung một Giavê Thiên Chúa, nhưng dân Samaria bị khinh miệt như là dân ngoại, chung chạ với tà thần. Người Do thái liên hệ với họ sẽ bị ô uế. Thứ tư: một vị thánh như Chúa Giêsu mà lại nói chuyện với một người đàn bà tội lỗi, đang sống bất hợp pháp với 6 người đàn ông; rõ ràng dưới mắt người Do thái là một chuyện không thể được...
Qua câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã khéo dẫn đưa người phụ nữ Samaria đến nguồn nước hằng sống, thứ nước không chỉ để giải khát bên ngoài, nhưng có khả năng giải khát tâm hồn con người. Sau đó, người phụ nữ khi đã đón nhận nước hằng sống, đã trở thành chứng nhân, chạy đi báo tin cho người trong làng cùng biết và cùng đến với nước hằng sống là Đức Giêsu Kitô. Một câu chuyện thật nên thơ, nhưng cũng đầy ý nghĩa, cũng là bài học lớn cho mỗi người kitô hữu chúng ta.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta có tin Chúa Kitô là nước hằng sống không? Khi đã tin, ta có sẵn sàng đem chia sẽ niềm tin đó cho người khác không?
39. Đổi mới
Anh chị em thân mến.
Nếu có dịp đi qua bến phà hay những nơi công cộng, anh chị em nhìn thấy những cảnh hết sức thương tâm của người dân Việt Nam , đó là cảnh người nghèo đói còn quá nhiều. Những người ăn xin hiện diện khắp nơi, với những kiểu dáng hết sức phong phú, làm động lòng trắc ẩn khách đi đường. Họ cố gắng dùng mọi cách để làm sao kiếm được những đồng tiền để sinh sống. Nhiều vị khách đã động lòng mở rộng vòng tay nhân ái để giúp cho họ. Nhưng có phải vì túng thiếu không có phương tiện cần thiết để sống, nên họ mới chọn phương cách này không? Có người là như thế. Nhưng cũng có người không phải thế. Họ chọn việc ăn xin như là một nghề nghiệp của mình và không muốn từ bỏ nó, chứ không phải vì túng thiếu nên họ mới rơi vào tình trạng như thế, nên họ không muốn thay đổi cuộc sống của mình, họ muốn ở mãi trong tình trạng đó, vì nó đem lại cho họ nguồn lợi. Họ vẫn biết việc làm của mình không hay lắm, nhưng vì đồng tiền mà quên đi danh dự.
Chúng ta vừa chứng kiến một phong cảnh đẹp của Phúc Âm. Nơi bờ giếng Chúa Giêsu hoán cải được một thiếu phụ, cũng từ đó Ngài làm cho cả dân làng có được một niềm tin và một sức sống mới. Ngài không bắt ép họ, nhưng gợi ý và để họ tự do hành động. Họ đã biết lựa chọn và hành động đúng.
Nếu người thiếu phụ đó cứ giữ mãi sự hiềm khích trong lòng cùng với sự căm hờn, nếu bà ta ích kỷ nhỏ nhen mà không nán lại một chút, chỉ biết lo trốn chạy vì sợ mất thời gian của mình trong một việc vô ích, thì làm sao bà ta nhận ra được hồng ân Thiên Chúa ban cho mình. Nếu chị ta nóng nải bỏ đi ngay tức khắc thì dân làng làm sao có thể nhận ra Đấng Cứu Độ đang đến với mọi người. Chúa Giêsu đến với mọi người, nhưng Ngài cũng chờ đợi mọi người biết đứng lên để đến với Ngài. Dân làng đã làm được điều đó, họ đứng lên và chạy đến với Ngài, nên họ nhận ra được hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho họ. Chính vì sự hy sinh nhẫn nại của một người mà cả dân làng mới có cơ hội tiếp nhận được hồng ân quý báu, và cũng nhờ họ có một tâm hồn quảng đại, biết lắng nghe nên họ đ ược hơn điều mình mơ tưởng.
Cơ hội không bao giờ thiếu cho con người, chỉ có con người không biết đón nhận và không biết tận dụng mà thôi.
Cơ hội cũng đến với chúng ta thật nhiều lần trong cuộc sống, cũng nhiều lần chúng ta bỏ qua một cách vô tình, có khi còn cố ý để cho cơ hội qua đi để tránh sự phiền phức.
Biết bao nhiêu lần vì ích kỷ sợ mất thời giờ quý báu của mình, chúng ta không chịu lắng nghe, nên không thể nghe được những điều hữu ích cho cuộc sống. Nhiều lần vì sự hiềm khích, vì nóng giận, vì sự tự ái trong người chúng ta quá lớn, nên chúng ta không có kiên nhẫn chấp nhận người khác, những lúc đó chúng ta cũng bỏ qua cơ hội ngàn vàng để biết đứng lên và quay trở về với Chúa. Cũng nhiều lần vì sợ mất đi những gì mình đang có như: thời giờ, tiền của, danh vọng, hay những thú vui trong cuộc sống, nên chúng ta cũng không thể lắng nghe để làm cho đời sống mình trở nên tốt hơn, đồng thời giúp cho những người chung quanh được lợi ích nhiều hơn. Chính những lần như thế, không phải là chúng ta không có phương tiện để sống tốt, nhưng vì mình không muốn. Như thế chúng ta không phải như những người ăn xin không phải vì hoàn cảnh, nhưng vì muốn làm nghề ăn xin và không muốn vươn lên. Không lẻ đời sống con người của chúng ta không thể đỗi mới được mà cứ phải lầm lủi trong bóng đêm mãi sao.
Nếu chúng biết mở rộng vòng tay ban phát những gì mình có cho những người cần đến, nếu chúng ta biết nhắt bước chân của mình để mang niềm vui đến cho người khác như người đàn bà bên bờ giếng, nếu chúng ta biết mang con tim yêu thương đến cho mọi người bằng hành động trong cuộc sống, khi đó chúng ta cũng dám nói như những người trong làng: bây giờ không cần chị nói, nhưng chính chúng tôi đã nghe và đã biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian.
Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.
40. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
(Sưu tầm của Linh Xuân Thôn)
Cuộc sống con người có nhiều mối tương quan liên đới với nhau, và có nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những cuộc gặp gỡ như gió thoảng, như mây trôi… gặp đó rồi tan biến đi không để lại một dấu tích nào trong cuộc đời. Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người. Đó là cuộc gặp gỡ kỳ diệu của tôi, người con gái dân làng Samaria, với Đức Giêsu bên bờ giếng.
Hơn hai ngàn năm trước, giữa trưa hè oi bức, trong lúc mọi người đang nghỉ trưa, nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người, tôi một mình lén lút mang bình ra giếng để múc nước với hy vọng không phải gặp mặt những người thân quen. Tôi muốn chạy trốn vì gốc gác thấp hèn không trong sạch của mình, nên những người hàng xóm láng giềng luôn xa lánh tôi. Tôi muốn trốn chạy vì trót mang thân phận hồng nhan đa truân, tình duyên lỡ làng với 5 đời chồng, nên những người họ hàng bà con luôn nhìn tôi bằng con mắt khinh bỉ. Tôi muốn chạy trốn vì xã hội này đã quay lưng với tôi, đã không có chỗ dành cho tôi, đã âm thầm kết án tôi là phường đàng điếm tội lỗi …
Một mình tôi bước đi trong cuộc đời, và hôm nay, một mình tôi bước ra bờ giếng với hy vọng không phải gặp mặt người nào cả. Nhưng kìa, một người đàn ông Do Thái đang ngồi nghỉ trưa bên giếng. Ông ngước mắt nhìn tôi, tôi không còn cách nào chạy trốn nên đành phải cúi đầu bước đi trong thinh lặng. Tôi bước đi nhưng lòng tôi lại có ý nghĩ khinh miệt người đàn ông này.
Hắn chỉ là một gã Do Thái đói rách bẩn thỉu, nhưng có lẽ hắn cũng tham lam và coi trọng lề luật như bao gã Do Thái khác. Nhìn quần áo của hắn thì biết rõ hắn là một gã Do Thái nghèo. Cuối cùng bước chân nặng nề cũng mang tôi đến bên bờ giếng. Tôi mong muốn múc nước đổ đầy bình cho thật nhanh để ra về ngay, tránh cái nhìn soi mói của gã đàn ông Do Thái này. Hơn nữa, theo luật Do Thái, Samari và Do Thái là hai thế giới riêng biệt, không bao giờ được phép chung đụng, vì người Samari bị coi là phường ngoại đạo.
Bỗng dưng người đàn ông lên tiếng gợi chuyện với tôi: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga.4:8). Tôi bâng khuâng ngỡ ngàng về giọng nói trầm ấm đó. Tôi ngạc nhiên về lời xin nước để uống. Tôi ngước mắt nhìn ông, nhìn vào vầng trán cao với khuôn mặt nhân hậu … nhìn vào cặp mắt sáng ngời với nụ cười hiền hoà tươi vui … Tôi nhủ thầm trong lòng: “Chắc hẳn ông này không phải là người tầm thường”. Tôi lên tiếng nói với ông ” Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?” (Ga.4:9). Nghe tôi nói, ông nở nụ cười thật tươi, thật hiền hòa như trả lời với tôi rằng ông chẳng nặng lề luật, nhưng trọng tình người.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, tôi mới hiểu ra rằng ông chỉ giả vờ xin nước để gợi chuyện với tôi mà thôi. Ông không khát nước, nhưng từng bước rồi từng bước, ông tế nhị chỉ bảo cho tôi biết chính tôi mới là người khát, khát Nước Hằng Sống. Ông hé mở cho tôi biết ông là ai, và ông sẽ làm gì để tôi hết khát: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga.4:13-14). Sự xa lạ và nghi ngờ đối với ông trước đây đã dần dần tan biến trong tôi, nhường chỗ cho sự yêu thương kính trọng.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông nhìn thấu suốt con người của tôi: những cuộc tình vụng trộm chóng qua, những thù hận và trốn chạy trong cuộc đời, những vết thương lòng nhói đau … tất cả ông đều biết rõ, cái biết của ông không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông. Tôi giật mình sấu hổ khi thấy ông biết rõ những bí ẩn của đời tôi: “Chị nói: tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị “ (Ga.4:18). Nghe lời nói của ông, trong tôi từ chỗ yêu thương kính trọng trước đây, bây giờ tôi cúi đầu tôn kính ông là ngôn sứ của đời mình.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông chỉ vẽ cho tôi biết về Thiên Chúa:” Thiên Chúa là thần khí, và những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." (Ga.4:24). Và cũng trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, khi nghe tôi nhắc đến Đấng Mêsia, còn gọi là Đức Kitô. Ông đã lên tiếng: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây" (Ga.4:26).
Tôi đứng dậy, để lại vò nước bên bờ giếng, chạy như bay về nhà, thông báo với bà con họ hàng, với hàng xóm láng giềng, với mọi người tôi gặp gỡ… những người mà chỉ vài giờ trước đây tôi còn chạy trốn không muốn gặp mặt, nay tôi mạnh dạn lớn tiếng nói với họ: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4:29).
Giêsu ơi! Cuộc gặp gỡ kỳ diệu bên bờ giếng đã biến đổi đời con, giúp con trở thành con người mới, với trái tim mới, trái tim của yêu thương và hy sinh phục vụ... Xin cho con được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong suốt cuộc đời của con. Amen.
41. Nước hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Nước là nguồn sống. Mọi loài thụ tạo đều cần có nước để bào tồn sự sống. Thiên Chúa ban dư tràn các nguồn nước từ trên cao mây trời, từ sông suối biển hồ và từ các nguồn mạch dưới đất. Nơi nào có nước, nơi đó có hiện hữu của sự sống và sự phú túc. Câu truyện dân Do-thái lữ hành trong sa mạc bị đói khát là lẽ thường vì sa mạc khô cằn và nắng cháy. Dân chúng kêu trách Môisen vì sự khổ sở thiếu thốn đủ thứ trên đường đi về miền Đất Hứa: Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng:"Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy". (Xh 17, 3). Trong cuộc lữ hành, dân chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn nước tự nhiên của mưa sương và sông suối. Họ đã trải nghiệm sự đói, sự khát và sự thèm thuồng của ăn của uống. Cho nên họ đã phàn nàn kêu trách.
Chúa Giêsu đã cho quyền ông Môisen thực hiện một sự lạ lùng là dùng gậy đập vào tảng đá và nguồn nước sẽ vọt chảy cho dân uống. Sách Xuất Hành diễn tả biến cố có một không hai này: Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống". Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel (Xh 17, 6). Môisen đã dùng cây gậy để thực hiện nhiều phép lạ trên hành trình đi về Đất Hứa. Hôm nay, trước mặt các bậc kỳ lão và dân chúng, ông Môisen đã lo sợ và niềm tin bị chao đảo. Ông đã dùng gậy và đập vào tảng đá hai lần. Nước từ tảng đá đã chảy tràn lan lai láng. Nhưng Thiên Chúa thấu rõ sự kém lòng tin của ông, nên ông chỉ được phép lữ hành tới biên giới ngắm nhìn miền Đất Hứa mà không được vào. Ông đã chết trước khi đoàn dân tiến chiếm miền Đất Hứa.
Tôi có dịp hành hương Đất Thánh và đi thăm viếng một số nơi mà Chúa Giêsu đã có dấu chân của hai ngàn năm trước đây. Phúc âm kể rằng vào một buổi trưa hè nóng bức, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacób. Ngày xưa, các tổ phụ đã biết đào giếng để kiếm tìm nguồn nước dưới sâu trong lòng đất. Giếng nước nay thuộc quyền sở hữu của giáo hội Chính Thống Giáo. Hiện nay giếng nằm trong khu vực (West Bank) thuộc Samaria của người Palestine. Theo truyền thuyết từ lâu đời, giếng vẫn còn cung cấp nước sạch và chúng ta có thể uống thử nước từ nguồn. Chính nơi đây, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và đối thoại với người đàn bà Samaria. Chúa đã nhìn thấu rõ tâm hồn người đàn bà lầm lạc và đã mở lối giải thoát bà khỏi ràng buộc của tội lỗi. Chúa Giêsu đã giúp bà tìm đến ý nghĩa sự thật của cuộc đời. Bà đã đem chia sẻ kinh nghiệm đổi đời này với dân chúng trong thành. Giếng Giacób trở thành Giếng của sự thật (Well of Truth).
Trong cuộc đàm thoại với người đàn bà, Chúa Giêsu đã mạc khải cho bà về nguồn ân sủng, đó là nguồn nước trường sinh sẽ không bao giờ cạn: Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời" (Ga 4, 13). Từ câu chuyện đời thường, Chúa Giêsu đã khéo dẫn bà đi vào đời sống nội tâm và nhìn biết được chính mình. Biết phận mình, bà ra giếng giữa lúc trưa nắng để tránh gặp những người hàng xóm quen thuộc. Bà đã gặp được Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ cạnh giếng. Chúa Giêsu không ngần ngại khởi đầu câu chuyện xin người đàn bà cho nước uống. Thời đó, chúng ta biết giữa người Do-thái và người Samaria phân biệt không liên đới và không dùng chung các dụng cụ tại giếng. Ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên về cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà tội lỗi nơi công cộng. Nhờ cơ hội này, Chúa đã đi vào sâu thẳm trong tâm hồn khao khát sự thật của bà. Chúa đã giải thoát cho bà.
Người đàn bà đã thắc mắc với Chúa về sự thờ phượng nơi đâu cho đúng. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã đánh tan mọi giới hạn ngăn cản. Chúa Giêsu không đứng về phe phái nào cả và sự thờ phượng Thiên Chúa không tùy thuộc vào nơi này hay nơi kia, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Đây là một câu trả lời cách mạng của sự thật: Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem (Ga 4, 21). Con người chúng ta thường câu nệ vào những hình thức bên ngoài và xây lên những bức tường chia rẽ để ngăn cách nhau trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phá đổ những khuôn mẫu mà con người vì ghen tương đã dựng xây. Chúa dẫn con người đi vào tận thâm tâm sâu thẳm của trái tim chân thật.
Đến thăm viếng thành thánh Giêrusalem hiện nay, chúng ta thấy các tường thành được xây dựng khắp nơi. Các khu vực tôn thờ bị chia cắt và tranh dành quyền sở hữu. Địa sở thành Giêrusalem trở nên nơi tranh chấp và bị chiếm hữu thế tục. Nơi đây là tấc đất tấc vàng. Mỗi nhóm tôn giáo cố gắng sở hữu một khu vực để gọi là thờ phượng và lưu giữ truyền thống. Vùng đất Chúa Giêsu đã đi qua, nhưng Ngài đã không để lại một dấu vết cụ thể nào. Vì Chúa muốn xây dựng đền thờ trong tâm hồn con người. Chúa phán: Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn (Ga 4, 23). Chúa Giêsu muốn chúng ta tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, chứ không hệ ở đền thờ vật chất hoành tráng hay bằng môi miệng trống rỗng hoặc những hình thức hiến dâng lễ tế chiên bò. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở rằng Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ.
Chúa Giêsu đã mở lòng người đàn bà Samaria. Bà đã đón nhận nguồn nước sự sống trường sinh. Bà đã tìm ra sự thật của việc tôn thờ Thiên Chúa trong thần trí. Bà đã thấy và đã tin vào Chúa Giêsu. Bà trở thành nhân chứng của nước trời mang tin vui cho những người chung quanh. Dù bị xem là người dân ngoại, bà đã có lòng tin trở lại. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho dân thành Rôma đã công bố: Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa (Rm 5, 2). Đức tin dẫn đến ân sủng. Tin vào Chúa Giêsu là cửa ngõ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Niềm tin là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta rằng tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người và mọi sự sẽ được ban cho.
Cậy trông vào Chúa là chìa khóa mở cửa dẫn chúng ta vào quê thật. Chúa Giêsu mở lòng người đàn bà đến với sự thật tinh tuyền. Sự thật được gột rửa bởi sự đơn sơ thanh sạch trước nhan Chúa. Sự thật được phơi bầy xóa nhòa mảnh hồn tội lỗi chất chồng của người đàn bà Samaria. Chúa Giêsu đã tưới gội tâm hồn của bà bằng dòng nước trường sinh. Nguồn ân sủng của Chúa Thánh Thần như nguồn nước thấm nhập vào đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Các nhân đức hòa trộn dẫn dắt chúng ta đến Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ. Thánh Phaolô dạy: Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta (Rm 5, 5). Chúa Thánh Thần sẽ tác động làm đổi mới tâm can và canh tân mọi sự.
Lạy Chúa, xin cho nguồn nước hằng sống tuôn đổ vào tâm hồn, để chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa. Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội lỗi và ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương chân thành.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam