Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 71

Tổng truy cập: 1451147

ĐÔI MẮT LÀ CỬA SỔ TÂM HỒN

Chú giải của Noel Quession

Đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh

Khác với nhiều phép lạ, phép lạ này được làm không phải do một lời cầu xin. Chính Đức Giêsu chủ động đưa ra sáng kiến: “Đức Giêsu trông thấy một người mù”. Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy một người mù". Tôi có thể cầu nguyện từ chuyện đó. Đức Giêsu trông thấy những thử thách của tôi.

Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.

Câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta. Của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Những người xưa chỉ bằng lòng với một lý thuyết cổ xưa hơi quá đơn sơ một chút; sự xấu do bởi một tội lỗi. Nhưng chính Đức Giêsu lại không đặt vấn đề như vậy. Hơn nữa người không đề ra một giải đáp nào: cái xấu vẫn không chấp nhận được, không thể biện minh được. Chỉ có một phản ứng bình thường, có tính nhân bản nhất về nền tảng, đó là cố mà loại bỏ cái xấu xa này chẳng nào chúng ta có thể làm được. Và cuộc chiến đấu chống lại đau khổ không phải vô ích, hay cuối cùng chịu thất bại, bởi vì Đức Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng đấy là cuộc chiến đấu của chính Thiên Chúa: hành động rõ rệt mà vì thế Đức Giêsu tự xưng mình "là người được sai đi". Được sai đi? Bởi ai? Thế thì, Đức Giêsu này. Người từ đâu mà đến?

Vấn đề về nguồn gốc của Người này lại còn quan trọng hơn thế, vì hẳn là Người trông thấy toàn bộ việc thế gian chấm hết: Người biết Người sắp chết, đêm đã tới, và Người phải hành động bao lâu Người còn ở thế gian.

Cái chết mà Người thấy trước qua nỗi thù hận của các đối phương của Người (Ga 7,19-32.44; 8,59), đó sẽ là chiến thắng bề ngoài của sự xấu, chiến thắng của bóng đêm (Ga 13,30).

Nhưng bóng tối không chặn được ánh sáng" (Ga 1,5-9). Cám ơn Người, lạy Đức Giêsu. Vinh quang thuộc về Người, vì Người đã soi chiếu đêm tối của chúng con!

Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa" (Si-lô-ác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

Một mô tả cụ thể để lộ người chứng tận mắt, Gioan. Nước bọt của một số người, theo những người xưa, có một giá trị dược liệu. Nhưng nhất là, chúng ta khám phá ở đó, thêm một lân nữa, cái thiên tài của Gioan, nhà thần học biểu tượng chủ nghĩa... và nhà thần học nhiệm tích... Vâng, người đàn ông mù từ thuở mới sinh này, bên kia trượng hợp cá nhân đầy xúc cảm, thực sự là một biếu tượng của nhân loại bị nhận chìm trong đêm tối, khi họ không biết Đức Giêsu, khi những đau khổ của loài người có vẻ như không có ý nghĩa. Và cái giếng Si-lo-ê này, bên kia vùng nước có thật của nó trong khu vực thấp trũng của Giêrusalem, thực sự là một biểu tượng của phép rửa thanh tẩy và chiếu sáng.

Điều làm cho Gioan, nhà thần học, chú ý, đó trước hết không phải là con người kỳ diệu lạ lùng, được kể ngắn gọn chỉ bằng ba dòng, đó chính là dấu hiệu biểu trưng mà Đức Giêsu đưa ra về chính mình và được biểu lộ qua cái tên huyền nhiệm của cái giếng "Si-lô-ê có nghĩa trong tiếng Do Thái là "Shilloah" Người được sai đi". Được sai đi? Do ai?

Cái bản vị Giêsu, Đấng được sai đi, nêu ra nhiều vấn đề hoài nghi xác định lập trường, tranh cãi, Người là ai? Không người nào đã từng bao giờ đặt nhiều câu hỏi như thế. Tại sao? Định mệnh của Người là gì? Phép lạ của người mù được chữa khỏi mới xong khi Đức Giêsu dường như vừa đi khỏi hiện trường. Nhưng vấn đề chính là về Người trong quá trình một vụ án kỳ lạ tập tục, thông qua bản thân của người đã được hưởng lòng tốt của Đức Giêsu. Chúng ta sắp dự vào bốn cuộc hỏi cung liên tiếp, ngày càng bắt nhân. Nhưng cuối cùng, chính Đức Giêsu can thiệp lại để kiện lại những đối phương của Người.

VỤ KIỆN I: Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” có người nói: "Chính hắn đó!". Kẻ khác lại rằng: 'không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giồng hắn đó thôi!". Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!". Người ta liền hỏi: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?". Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Si-lô-ê mà rửa". Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được" Họ lại hỏi anh: “ông ấy ở đâu?”. Anh ta đáp: “Tôi không biết”.

Đó là những người làng xóm đã làm cuộc điều tra ưu tiên: Cái gì đã diễn ra? Nó đã diễn ra như thế nào? ai đã làm chuyện đó? Lúc này chúng ta chỉ nghĩ tới một động tác tự nhiên vì có thiện cảm nên tò mò. Ngày nay vẫn còn. Có một số đông người cùng thời với chúng ta chỉ chú ý đến Đức Giêsu tới chỗ đó: người ta nhận xét một sự kiện... nhưng người ta không muốn rắc rối cuộc đời và người ta không đi xa hơn. Còn về anh mù được chữa lành, chính anh ta trở về từ rất xa. Chúng ta lưu ý là anh ta chưa biết gì về Đức Giêsu cả, anh ta chỉ biết người ta gọi ông ấy là Giêsu.

VỤ KIỆN II: Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy." Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"

Đứng trước Đức Giêsu, ý kiến bị phân rẽ: người này thì ủng hộ... người kia thì chống đối... Người, con người có thiện chí, bắt đầu từ từ mà tiến lên. Ngoài ra đó là những điều phiền nhiễu của những người điều tra muốn đây anh ta đi xa hơn. Bây giờ anh ta khẳng định: Đó là một ngôn sứ. Lạy Chúa. xin giúp chúng con tiến đi trong đức tin.

VỤ KIỆN III: Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được." Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.

Thế là một thái độ khác đối diện với Đức Giêsu đó là một sự trốn chạy. Nhưng người ta chối từ, không muốn tự đặt cho mình một số vấn đề có thể gây ra liên lụy. Không thể tôi thường thuộc vào loại này ư? Người ta có thể đừng nên làm gì để khỏi có nhiều chuyện!

VỤ KIỆN IV: Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi." Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến." Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì." Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.

Những người Pharisêu, bị lún sâu vào trong hệ thống của họ: Họ "biết"! Đó tà tiếng họ lặp lại và tỏ rõ lòng tự mãn của họ. Họ chối từ, biến đổi, trong khi dựa vào truyền thống. Chấp nhận cái mới của một người vi phạm. Ngày Sa-bát sẽ làm cho hệ thống giáo điều của họ lâm nguy. Như vậy họ chối từ bằng chứng hiển nhiên. Và như thế họ phạm tội duy nhất có trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: chối từ lòng tin... muốn là một người không tin...bịt mắt trước huyền nhiệm Đức Giêsu. Ta hãy chú ý đến cách sử dụng tinh vi của động từ "biết" nhờ đó, người ta thấy rõ các cửa mở vào đức tin hay lối chặn cho sự không tin. 1. Cha mẹ "biết" đó chính là con trai họ... nhưng họ không muốn "biết" ai đã mở mắt cho con họ, để không bị liên lụy (9,20-21). 2. Những người Pharisêu "biết" Đức Giêsu đã từ đâu đến (9,24-29). 3. Anh mù chính anh ta không "biết" Đức Giêsu đi đâu, không "biết" đó có phải là một người tội lỗi không... nhưng anh ta "biết rằng anh ta đã được chữa khỏi và “biết" rằng Thiên Chúa không đoái nghe những người tội lỗi (9,12-25-31). Còn chúng ta, chúng ta có đi tìm chân lý không? Chúng ta có bị chặn trước những hiểu biết của chúng ta không? Chúng ta có ham hiểu biết nhiều hơn không, mở con mắt đui mù của chúng ta ra không?

Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?" Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây." Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

Trong khi những người Pharisêu bị giam hãm trong sự vô tín của họ, thì anh mù, chính anh lại không ngừng tiến lên trong lòng tin, và chúng ta chú ý là lòng tin này chỉ đạt tới đỉnh cao theo sáng kiến và vấn đề bản vị của chính Đức Giêsu. Tất cả những câu hỏi mà các đối thủ đặt ra cho anh ta, đâu làm cho anh tiến lên, nhưng sự tuyên xưng đức tin của anh ta chỉ thành tựu nhờ cuộc gặp gỡ bản thân của Đức Giêsu. Còn chúng ta, đức tin cửa chúng ta có tiến lên, theo gương của người mù này, người dần dần mở mắt trước huyền nhiệm, một cách tiệm tiến không? ban đầu người ta chỉ đứng trước "người mà người ta gọi là Giêsu (9,11). Và rồi người ta phát hiện "một ngôn sứ "(9,17)... một người nào đến từ "Thiên Chúa" (9,88)... và sau cùng "Con Người" (9,35) và "Chúa (9,38). Đây là sự trả miếng của Thiên Chúa. Người bất hạnh đáng thương đã tìm thấy hạnh phúc đích thực duy nhất. Mù từ thuở mới sinh, không được những người hàng xóm giúp đỡ nhiều lắm, không được cha mẹ nâng đỡ bị đuổi ra khỏi giáo đường như một tên bị bệnh ôn dịch... Nhưng mềm vui tin tưởng to lớn biết bao!

Đức Giêsu nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!" Những người Pharisêu đang ở đó với Đức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" Đức Giêsu bảo họ: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: `Chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn!"

Đó là sự lật ngược hoàn hoàn các tình huống: "tội lỗi không ở chỗ những người Pharisêu đã đặt nó, chính họ là những người khinh miệt người tội lỗi bẩn thỉu này bị đánh dấu từ thuở mới sinh... và coi sự đui mù đích thực không hề ở chỗ mà họ đặt ra. Chính họ là những người mù, chỉ mình họ chối từ, không trông thấy cái đập thẳng vào mắt họ.

Ta hãy chú ý đến điều Đức Giêsu khẳng định: không phải Thiên Chúa lên án họ theo bề ngoài,… chính họ là những người tự lên án mình.

Cuộc Phán xét chỉ đến chuẩn nhận cái mà người ta đã quyết đinh một cách tự do. Đó chính là sự phi lý tự sát của việc chối bỏ đức tin. Với Ni-cô-đê-mô, Đức Giêsu đã nói: Ai chối bỏ lòng tin thì đã bị lên án rồi... phán đoán là như thế này đây: những người ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng (Ga 8,18-19). Bản thân Đức Giêsu buộc phải có một chọn lựa: phải chọn lựa! Trong Thánh Gian, có một tác dụng thường xuyên giữa hai động từ "thấy" và "tin"...Người ta trông thấy những dấu chỉ muốn mời gọi tin tưởng (Ga 1,50; 3,86; 4,48; 6,26-36.40; 9,39-41; 11,45; 20,8; 20,29). Và Chúa Giêsu, ở đây, khẳng định mạnh mẽ rằng những người Pharisêu không thể dung tha vì không tin, bởi vì họ đã trông thấy dấu chỉ, bởi vì các ông trông thấy... tội các ông vẫn còn.


 

41. Nhận định về tường thuật Ga 9, 1-41

(Theo Chú Giải Tin Mừng Gioan)

1) Tường thuật này trình bày hai tiến trình: tiến trình từ mù tới sáng của người mù bẩm sinh, và tiến trình từ sáng tới mù của các người biệt phái:

TIẾN TRÌNH MÙ THÀNH SÁNG:

- Khởi điểm: anh hoàn toàn mù (c 1)

- Bước 1: Sau khi được Đức Giêsu ra tay can thiệp, ban đầu anh chỉ thấy Đức Giêsu là “một người” (c.11)

- Bước 2: Anh nhìn nhận Ngài là ”một vị ngôn sứ” (c.17)

- Bước 3: Ngài là “một người thánh thiện”, vì “Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi” (c.31).

- Buớc 4: Ngài là Kẻ do Thiên Chúa sai đến, vì “nếu người ấy không do Thiên Chúa sai đến mà không thể làm nên sự gì” (c.33).

- Điểm tới: Đức tin hoàn toàn: “Anh thưa, Lạy Chúa, con tin, rồi anh phục xuống lạy Ngài” (c.38)

TIẾN TRÌNH TỪ SÁNG THÀNH MÙ:

- Khởi điểm: một thái độ tự mãn tự kiêu. Họ luôn miệng nói “Chúng ta biết” (cc. 24.19), “Chúng ta thấy” (cc 39.41), “Bộ chúng ta cũng mù ư” (c.40).

- Bước 1: Ngạc nhiên khi thấy anh mù được sáng, và tìm hiểu “làm sao mà anh thấy được?” (c.10), “Ông ấy đâu?” (c.12).

- Bước 2: Khi biết kẻ làm phép lạ là Đức Giêsu, họ phân vân: kẻ thì nói “người ấy không phải bởi Thiên Chúa”, kẻ khác bảo “Lẽ nào người có thội có thể làm những dấu lạ lùng như thế?” (c.16).

- Bước 3: Ngoan cố chỉ nhìn nhận Môsê và tiên thiên loại bỏ bất cứ ai khác: “Còn người ấy, chúng ta không biết bởi đâu mà có” (c.29).

- Điểm tới: hoàn toàn mù về mặt thiêng liêng (cc 40.41). Sự mù này còn nguy hiểm hơn sự mù thể xác: “Nhưng các ngươi lại nói “Chúng tôi sáng mắt” nên các ngươi vẫn mắc tội”.

2) Tường thuật này cũng cho ta thấy được một cách sống động đường đi của ánh sáng vào lòng con người, những chướng ngại vật mà ánh sáng đã gặp trên con đường đó, và trận chiến mà ánh sáng đang phải giao tranh với quyền lực của tối tăm. Bởi vì con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nơi con người đã có sẵn khả năng để mù quáng: đó là khả năng tự đặt cho mình những lý do rất tốt để khỏi nhìn thấy, tự tạo cho mình những điều hiển nhiên giả tạo và từ chối mở mắt vì bảo rằng mình “trông thấy”. Ấy là bởi vì ánh sáng rất đòi hỏi. Ánh sáng bó buộc con người phải xét lại biết bao điều, từ bỏ biết bao thói quen và đôi khi phải đoạn tuyệt với cả một môi trường sống. Cái nhìn của con người đã bị rối loạn vì tất cả những điều đó. Cho nên con người cần phải tìm lại sự trong trắng của thời thơ ấu. Đó là ý nghĩa của hoạt cảnh chữa lành người mù bẩm sinh. Hoạt cảnh này chẳng khác gì một vỡ kịch diễn lại một lời nói của Đức Giêsu: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt ngươi lành lặn thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi hư hỏng thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối. Vậy nếu ánh sáng nơi ngươi mà đã tối tăm thì sẽ tối tăm chừng nào!” (Mt 6,22-23).

3) Hoạt cảnh người mù bẩm sinh còn cho ta thấy rõ tình cảnh của người tín hữu bi đát đến mức nào: đức tin có thể đòi ta phải mạnh mẽ đoạn tuyệt với thế gian và phải can đảm tuyên xưng sự thật. Người mù đã bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã nhìn nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Người ta xua đuổi anh như xua đuổi một con người tội lỗi. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh. Những lúc đó đức tin xuất hiện như một nỗi cô đơn, đức tin bị đuổi bắt. Người mù phải vượt qua sự sợ hãi, lòng vị nễ người khác, mối quan tâm quá mức đến dư luận, và phải kiên trì chinh phục độc lập, bất chấp khổ đau để đến với tự do đích thực, tự do vì Thiên Chúa.


 

42. Ánh sáng ban sự sống

Trên đường đi mua nước a-xít đậm đặc trở về để pha chế làm bình ắc-qui, anh Hiếu, thợ làm bình ắcqui, cố tránh một con chó chạy ngang qua đường, nên anh bị té xe. Những giọt a-xít từ chiếc bình bị vỡ đã bắn tung toé khắp người anh. Khủng khiếp nhất là một vài giọt đã văng trúng vào mắt anh và vĩnh viễn cướp đi đôi mắt của anh. Gặp lại anh trong cảnh mù loà, anh tâm sự: "sống trong cảnh mù loà và tối tăm này thật là khủng khiếp." Anh nói trong sự thất vọng và chán chường những lời như thế. Tôi hiểu được nỗi đau khổ quá lớn của anh và thầm cầu mong cho anh có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng cơn đau đớn và buồn khổ mà anh đang gánh chịu. Nhưng khi đó, tôi lại suy nghĩ về một sư mù loà lớn lao hơn là sự mù loà về mặt tinh thần. Sống trong cảnh mù loà thể xác đã đau khổ như thế, thì sống trong sự mù loà về mặt thiêng liêng chắc chắn sẽ còn đau khổ hơn gấp nhiều lần. Vì những ai sống trong cảnh mù loà thiêng liêng sẽ không nhìn thấy được sự thật, không nhìn thấy ánh sáng thật mang lại sự sống đời đời cho họ. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới sinh. Anh mù này đã gặp được chính nguồn sáng là chính Đức Giêsu. Ngài đã mở mắt cho anh và cứu chữa anh. Từ việc được sáng mắt thể xác, anh đã tiến đến việc sáng mắt tâm tâm hồn: nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa trợ giúp anh. Đức Giêsu chính là Ánh sáng, Ánh sáng phát xuất từ Nguồn Sáng là Thiên Chúa, Ngài là Ánh sáng ban sự sống vĩnh cửu cho con người .

Thấu hiểu sự đau khổ của anh mù, Đức Giêsu đã cảm thương anh và tự nguyện đến cứu chữa anh. Ngài đã giải thoát anh khỏi đau khổ nơi thân xác như dấu chỉ của Sa tan đang đè nặng trên con người của anh. Việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ, trên sự tối tăm và sự chết. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người, đặc biệt là cho những ai biết nhận ra Ngài. Câu chuyện của người mù cũng chính là câu chuyện của chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tuy không bị mù về thể xác, nhưng rất có thế chúng ta đang bị mù về tinh thần.

1. Mù vì không nhận ra sự thật.

Sự thật đó là:

- Thiên Chúa là Đấng Tạo hoá muôn loài và là Cha của tất cả chúng ta; còn tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.

- Con người là hồn và xác được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài

- Đức Giêsu là Con một duy nhất của Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chịu muôn vàn đau khổ và sỉ nhục chỉ vì yêu chúng ta.

- Tất cả những gì chúng ta đang có đều là hồng ân của Chúa ban.

- Ơn Chúa chính là sự sống của chúng ta.

- Hội thánh Công Giáo do Chúa Giêsu sáng lập chính là người mẹ dịu hiền của tất cả chúng ta.

Những sự thật đó rất nhiều khi chúng ta không nhìn thấy. Như vậy, có thể nói là chúng ta đang sống trong cảnh mù loà về mặt tinh thần và thiêng liêng.

2. Mù vì không sống theo những giá trị Tin Mừng đòi hỏi:

Lời Chúa là sự thật, là ánh sáng soi đường con người tìm về Chân Thiện Mỹ, dẫn đưa con người về sự sống vĩnh cửu. Nhưng nhiều khi vì muốn sống và làm theo ý riêng, vì lười biếng, vì nhát sợ, vì lợi lộc thấp hèn và những thú vui chóng qua ở đời này mà chúng ta đã bỏ qua Lời của Thiên Chúa .

Chấp nhận sống theo Lời Chúa là chấp nhận lội ngược dòng, chấp nhận bước trên con đường chẳng mấy ai đi. Nhưng chắc chắn ở phía cuối của con đường ấy là một tương lai huy hoàng dành cho những ai can đảm và trung tín đến cùng.

Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa chữa cho mắt tâm hồn chúng ta khỏi cảnh mù tối thiêng liêng, để chúng ta biết nhìn ra sự thật, hiểu được giá trị lớn lao của Tin mừng và can đảm sống theo những giá trị đích thực đó. Đừng bao giờ tìm cách huỷ diệt ánh sáng chân lý vì kiêu ngạo hay vì thành kiến như những Biệt phái trong Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người. Hãy hân hoan tìm đến với Ngài để được sống và sống muôn đời.


 

43. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn – FX Phạm Đình Phước

Thật là một hồng ân lớn khi “đôi mắt” chúng ta chiêm ngưỡng được vẻ đẹp chung quanh, chẳng hạn thấy được những người thân và những người mình yêu mến, chiêm ngắm ánh sáng lấp lánh của mặt trời lúc rạng đông, nếm hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú và chứng kiến muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với với chúng ta.

Chúng ta thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” nghĩa là đôi mắt phản ánh tâm hồn và tấm lòng con người. Tục ngữ dân gian có câu: “Người khôn con mắt dịu hiền”, “Trán cao mắt sáng phân minh, là người học rộng, công danh tuyệt vời”. Người có tâm hồn thánh thiện thì đôi mắt bao giờ cũng đẹp; nhìn vào đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều này. Mắt là cửa sổ để qua đó con người chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ vạn vật; để nhìn thấy những tấm gương những ngọn đèn soi sáng trong cuộc lữ hành trần thế.

Như thế, khi đôi mắt của ai đó không còn nhìn được nữa, thì lúc đó cảnh vật hết lung linh, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, xung quanh họ tất cả chỉ còn lại một màu đen tối. Đó là nỗi bất hạnh của một con người với đôi mắt không nhìn thấy. Người mù về thể xác là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Chúng ta có thể liên tưởng đến sự “mù lòa” về tinh thần do cặp mắt đức tin đã bị che khuất, hay do tự cao tự đại, luôn cho mình là người thông suốt nhìn rõ mọi vấn đề, cho là thánh thiện đức độ hơn người, không nhìn thấy những sai sót của mình.

Tin mừng chủ nhật IV mùa chay năm A thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt cho anh mù từ lúc mới sinh (Ga 9, 1–41). Chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là Thiên Chúa, là Ánh Sáng cho trần gian. Được chữa lành đôi mắt thể xác, đôi mắt đức tin của anh ngời sáng: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 33). Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Chúa Giêsu qua bí tích thánh tẩy, chúng ta “sống như con cái của sự sáng” theo lời dạy của thánh Phaolô, vì “hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật” (Ep 5,8).

“Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”, câu thành ngữ đã diễn tả tầm quan trọng đặc biệt của đôi mắt. Như thế, cầu xin có được đôi mắt sáng là điều cần thiết, nhưng có được một tâm hồn đẹp và sáng ngời còn là điều cần thiết hơn. Xin cho mọi người biết mở mắt và mở lòng ra để thấy được nghĩa vụ mình phải làm cho người khác hạnh phúc, hơn là chỉ thấy quyền lợi và nhu cầu của mình. Mở mắt mở lòng để nhìn thấy cái đẹp, cái tốt nơi người khác; mở mắt mở lòng để sống yêu thương nhau.

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất.

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,

Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà.

Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,

Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ.

Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con,

Đừng nắm lại giữ khư khư tất cả.

Trước cửa nhà có người nghèo đói lả,

Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng.

Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,

Để tiến lên dẫu đường sá hiểm nguy.

Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,

Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.

(Thánh thi Kinh Sách, thứ năm tuần II)


 

44. Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện

(Suy niệm của Giuse Phạm Duy Thạch)

Tin Mừng ghi lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng thứ tư ghi lại. là một tình trạng khốn cùng trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? " (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh đều là hậu quả của tội lỗi của chính đương sự hay của cha mẹ đương sự.

Quan niệm này được trình bày rất rõ trong câu chuyện của ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số trường hợp bệnh tật là do chính những lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình trạng của Anh mù là do hậu quả của tội. Ngài không chấp nhận bất cứ một phương án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn đệ về đúng với quỹ đạo của nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người đời.

Từ đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là phương tiện cho công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. Từ một người tưởng chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng được khoác lên vinh dự được cộng tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.

Công việc đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc chắn là một công việc hết sức khẩn thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm. Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt đẹp vì nó không phải của việc riêng của Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa thực hiện công việc của Chúa Cha chính là lương thực của Đức Giêsu: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”.

Tất cả những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.

Đến đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt của Ngài và đất để xức vào mắt anh để anh có thể nhìn thấy lại.

Trong dấu lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù, Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người được sai phái”. Người được sai phái chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế, đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu, người được Chúa Cha sai đến. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.

Dĩ nhiên, dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành động của chính anh mù: đi rửa ở hồ Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.

Sau khi Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như biến mất để lại một mình anh mù đối diện với cuộc sống mới thường ngày của anh. Từ một người không ai để ý đến, hoặc chỉ để ý đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh đã phải đối diện và trả lời rất nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau về việc anh nhìn thấy được. Từ những người đi đường, những người xóm giềng, đến những chức sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy được, cuộc đời anh đâm ra rắc rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi phải đối diện với nhiều nhóm người và phải trả lời nhiều câu hỏi như thế.

Tuy nhiên, tất cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố hết sức cần thiết để anh từ từ “rửa trong người được sai phái” để rồi đạt được kết quả tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô tả hết sức tài tình từng bước khám phá Đức Giêsu của Anh mù.

Bước thứ 1: Trước những chất vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và “những người khác” cũng như “những người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết “Người đó tên là Giêsu”.

Bước thứ 2: Trước những chất vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa hơn một bước khi nói: “Người ấy là một ngôn sứ” (Ga 9,17).

Bước thứ 3: Một loạt những biện luận rất hợp lý của Anh để chứng minh cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm được dấu lạ chưa từng thấy: “mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga 9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh được chữa lành mà chỉ xác nhận là trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên nhân của thái độ này là vì họ “sợ những người Do thái”. Quả thế, những người Do thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành “người bị khai trừ khỏi hội đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó cũng chính là cơ hội để cho anh đi đến bước cuối cùng trên chặng đường khám phá Đức Giêsu.

Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? Khi đã biết Con Người chính là “người đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).

Hành trình tìm kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu” “Người ấy là một ngôn sứ” “Người ấy đến từ Thiên Chúa” “Thưa Ngài, tôi tin” “bái lạy Người”.

Tin vào Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó sẽ là yếu tố quyết định cho sự sống còn hay hư mất của một con người: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).

Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.

Tạm kết

Dấu lạ chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích cực của Đức Giêsu trước những đau khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có thể “viết thẳng trên những đường cong”; Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị thật cao vời. Đau khổ mà con người đang mang có thể trở nên một cơ hội tốt để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy. Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước đưa anh từ trong đau khổ tối tăm bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.

Lương thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” Tất cả những ai đang chịu gánh nặng của những đau khổ thể xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên xưng niềm tin vào Ngài để được sự sống đời đời.

Dấu lạ chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44) là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giêsu qua việc thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh sáng thế gian và là sự sống của thế gian. Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12).

home Mục lục Lưu trữ