Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 67
Tổng truy cập: 1446027
ĐẤNG XÓA TỘI TRẦN GIAN
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình…
Như ba Tin Mừng nhất lãm, Tin Mừng của Gioan mở đầu sứ vụ của Đức Giêsu bằng sứ vụ của Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan. Những, như những Thánh sử khác, và còn hơn thế, Gioan khởi đi từ sự kiện lịch sử này (xảy ra khoảng năm 27) để cho chúng ta một suy tư thần học (mà ngài có thời gian nghiền ngẫm đến chín muồi đến khoảng năm 95 lúc biên soạn).
Gioan không mô tả “phép rửa” của Đức Giêsu, ngài chỉ dùng một từ để gợi ra ý đó.” Gioan không nói rộng việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả kêu gọi hoán cải. Sau phần lời tựa (Ga 1,1-18) là một thứ thi ca về Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa, Gioan “xây dựng” một thứ “tuần lễ đầu tiên” của Đức Giêsu, nhắc lại tuần lễ cao trọng đầu tiên của việc Sáng Thế: ngày đầu tiên (Ga 1,19): chứng từ tiêu cực của Gioan Tẩy Giả: tôi không Phải là Đấng Kitô… nhưng kìa người đến ở giữa các ông”. ngày thứ hai (Ga 1,29): chứng từ tích cực của Gioan Tẩy Giả đây là một đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay. Ngày thứ ba (Ga 1,35): theo sự chỉ dần của Gioan Tẩy Giả, bốn môn đệ của ông đi theo Đức Giêsu. Ngày thứ tư (Ga 1,43): ơn gọi của Philípphê. Và của Na-tha-na-en. Ngày thứ bảy (Ga 2,1): “Ba ngày sau những cảnh diễn ra ở bờ ông Giođan gần với Gioan Tẩy Giả, có tiệc cưới ở Cana miền Galilê và Mẹ Đức Giêsu cũng ở đó, và Đức Giêsu cũng được mời các môn đệ” “Dấu chỉ” đầu tiên!
Trong suốt tuần lễ khai mạc này, và chắc chắn không phải bởi sự ngẫu nhiên, Gioan tích lũy những “tước hiệu” thần học mà những Tin Mừng khác tiết lộ tuần tự sau này.
Qua lởi tựa, Gioan đã tức khắc kéo chúng ta lên đỉnh cao. Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã trở thành người phàm” (Ga 1,1-2-14) “Ánh sáng của thế gian” (Ga 1,4-9) “Con Một của Thiên Chúa Cha mà không một ai đã thấy bao giờ” (Ga 1,14-18) “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1,29-36) “Đấng có trước” (Ga 1,15-30) “Con của Thiên Chúa có Thần Khí từ trời xuống và ngự trên Người” (Ga 1, 32.33.34) “Thầy hay Rápbi” (Gioan 1,38-49) “Đấng Mêsia hay Kitô” (Ga 1,41) “Đức Giêsu Nagiarét con ông Giuse” (Ga 1,45) “Đấng mà Luật pháp vàcác Ngôn sứ đã nói” (Ga 1,45) “Con Thiên Chúa và Vua Israel” (Ga 1,49); và sau hết là Con Người (Ga 1,51). Bản văn rữc rỡ này, hoàn toàn đốt mọi giai đoạn mà các môn đệ phải từ từ khám phá ra căn tính của Đức Giêsu; nó báo cho chúng ta biết rằng chúng ta không thể giữ mãi một cách đọc và lý giải nông cạn và có tính giai thoại.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con vượt qua những vẻ bề ngoài. Biết bao lần, chúng ta không biết nhìn những người sống với chúng ta, và khư khư với những sự đánh giá mặt ngoài.
Rất nhiều người vào thời Đức Giêsu. đã không hiểu Người là ai. Vậy chúng ta hãy lắng nghe những chứng từ của Gioan Tẩy Giả kèm theo một loại “phát xạ” bổ sung mà Gioan nhà thần học và là chứng nhân đã đưa vào bằng sự suy niệm lâu dài của ngài. Bởi vì lúc đó, Gioan Thánh sử cũng có mặt trên bờ sông Giođan ấy.
Ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
“Đây là” không chỉ là môt tiếng bình thường, một từ dùng để chỉ. Từ gốc Do Thái ” in neh” hoặc “zeh” là một từ ngữ Kinh Thánh rất thường gặp để chỉ “một mặc khải”, bắt người ta phải tin: Chúng ta không trông mong gì, nhưng rồi đây là “Này (Đây là) trinh nữ sẽ thụ thai” (Is 7,14). “Đây là Môsê, chúng ta không biết điều đã xảy đến với ông” (Xh 32,1). “Đây là người sẽ nắm quyền trên dân Ta” (1 Sm 9,17).
“Chiên Thiên Chúa” “Đấng xóa bỏ tội trần gian”
“Chiên”! “Tội”! Hai tiếng ấy không đi vào trong những phạm trù trí tuệ của con người hiện đại hậu công nghiệp. Những từ mà chúng ta lặp lại và ca hát nhiều lần ở mỗi thánh lễ. Tuy nhiên, đó là những từ “phát xạ” nếu như chúng ta biết nhận ra sự tỏa sáng của chúng. Những từ dùng để tuyên xưng đức tin của các cộng đoàn đầu tiên.
Những từ chứa đựng cả một nền thần học cả một quan điểm về lịch sử và về con người. Những từ mà người ta không thể chỉ lấy ý nghĩa ngây thơ của chúng: sự hiền lành, yếu đuối và âu yếm của con chiên nhỏ. Những từ ấy chỉ có thể hiểu được trong sự sâu sắc của Kinh Thánh, bằng việc chấp nhận nền văn hóa mà những từ ấy chuyển chở. Chúng ta hãy thử để cho mình được “chiếu xạ” bởi sức chứa nóng bỏng của chúng, nhưng vẫn luôn ở trong hiện tại.
Đối với các thính giả Do Thái, sự ám chỉ về “chiên” xuất hiện rõ ràng ở đền thờ Giêrusalem, mỗi ngày, người ta hiến sinh một con chiên để thanh tẩy tội lỗi của dân. Với máu của một con chiên vượt qua bị cắt cổ vào mùa xuân khi sự sống hồi sinh sau mùa đông, người ta bôi máu đó lên cửa nhà; để nhớ lại kỷ niệm bồn chồn của ngày giải phóng khỏi sự áp bức của Ai Cập (Xh 12). Theo sau Giêrêmi, các ngôn sứ đã so sánh Israel bị lưu đầy với chiên con vô tội để người ta đem đi sát tế mà không mở miệng nói một lời nào (Is 53,7; Gr 11,19). Các giáo trưởng đã giới thiệu Đấng Mêsia sẽ đến như một con cừu đực vinh quang, với cặp sừng mạnh mẽ, sẽ quật ngã những kẻ thù của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta không còn có những chuồng chiên dịu dàng. Chúng ta bị chìm ngập trong tính thời sự khắp nơi. Bạo lực, đàn áp đủ loại. Mọi thời đại và thời đại của chúng ta cũng thế, niềm hy vọng giải phóng luôn chỗi dậy: NGÀY HÔM NAY. Khoa học tiến bộ kỹ thuật, những cuộc đấu tranh xã hội và chính trị được đẩy tới mức huyền thoại hóa những lãnh tụ đấu tranh thành những người cứu độ. Than ôi! Những cuộc cách mạng, khi đã hoàn thành thường chỉ là đổi chỗ những bất công và những sự chuyên chế áp bức. Và con người vẫn còn mãi đói khát một sự giải phóng, một sự cứu độ triệt để.
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Cơ cấu áp bức bên ngoài chỉ là sự biểu hiện một sức mạnh khác ở nội tâm: cái xấu, ác ở bên trong; trong tôi, trong bạn, trong họ. Tôi ở đây là danh từ dùng ở số ít, không phải là chuyện nhỏ mà phải hiểu là toàn thể! Đức Giêsu sẽ gánh lấy, và làm biến mất toàn thể tội lỗi của thế gian trong một cuộc chiến đấu đẫm máu, Người sẽ đổ hết máu mình làm vật hiến tế trước những tay đao phủ. Đức Giêsu, Cứu Chúa của chúng ta! Đấng cất bỏ tội lỗi. Ơ đây Thánh Gioan dùng một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa kép mà thánh sử thích dùng cả hai: “airein”, vừa có nghĩa “gánh vác, lãnh nhận” vừa có nghĩa “cất đi, lấy đi làm biến mất” Đức Giêsu không phát triển công cuộc giải phóng bằng cuộc chiến đấu bên ngoài theo kiểu “đội đặc công” trả đũa áp bức bằng bạo lực; nhưng bằng cách lãnh nhận trên chính người, bằng cách chịu đựng trong sự liên đới với mọi người bị áp bức của thế giới.
Bạn hỡi! khi bạn hát đến những lời này trong thánh lễ, bạn hãy để cho những lời ấy làm bạn tỏa sáng, mà chớ dừng lại ở bề mặt các từ ngữ và cử chỉ. Đồng thời, nếu bạn làm một cử chỉ chúc bình an hãy nghĩ đến sự súc tích của cử chỉ ấy: Sự hòa giải chân thật, tình huynh đệ chân thật tình yêu thương chân thật với người đối diện. Mọi nỗ lực hiểu biết người khác không ở trong tầm tay của bạn, dù khi bạn luôn giơ tay mình ra. Đó là một ơn mà bạn phải nhận từ Thiên Chúa và mọi nỗ lực của bạn tuy cần thiết cũng không thể kiến tạo sự hiểu biết ấy. Bạn hãy mở bàn tay bạn ra. Bạn hãy nhận lấy Mình Chúa bi nộp vì bạn. Bạn hãy tiếp nhận Golgotha vào lòng bạn.
Chính Người là Đấng mà tôi đã nói tới khi bảo rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi. Tôi đã không biết Người. Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Israel. tôi đến để làm phép rửa trong nước”.
Về mặt lịch sử và con người, Gioan Tẩy Giả đã được thụ thai và sinh ra trước Đức Giêsu. Nhưng phải vượt qua những vẻ bề ngoài, những sự hiển nhiên duy lý. Đức Giêsu đến từ nơi khác. Nếu Người có thể “cứu chúng ta một cách triệt để, bởi vì Người hơn một con người. Lấy lại sự suy niệm của lời tựa, Gioan nói lại với chúng ta sự có trước của Ngôi Lời. “Nhờ Người, vạn vật được tạo thành”, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời. Đức Giêsu thực hiện lại hành động Sáng Thế. Vũ trụ, bị tội lỗi làm hư hỏng, bị bao lực làm tổn thương, bị sự không có tình yêu làm cho nhiễm độc; sẽ được “tái tạo” toàn bộ, từ đầu đến cuối: Đó là “tuần lễ đầu tiên” của sự canh tân. “Tôi đã không biết Người” Gioan Tẩy Giả nói. Tuy nhiên đó là em họ của ông. Chúng ta không biết Đức Giêsu chừng nào chúng ta vẫn còn ở lại trên bình diện con người.
Ông Gioan còn làm chứng: tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuồng và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Đàng sau vẻ bề ngoài tầm thường của con người Nagiarét, Cả một mầu nhiệm được che giấu. Người được xức dầu, thánh hiến, được thấm nhuần. Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên Người và ở lại trong Người! Sự hiện diện không ai biết. được che giấu. Tôi đã không biết Người. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng đón nhận” (Ga 1,5-10). Đôi khi chúng ta thường nghĩ rằng mình biết Đức Giêsu, thật ra chúng ta không bao giờ hết chấm phá ra Người. Chúng ta phải hoàn toàn nhỏ bé, nghèo khó, hoàn toàn mở ra cho sự mạc khải.
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.
Một vài thủ bản cho bản văn mà các nhà chú giải thấy đúng hơn và bản dịch tiếng Việt theo bản văn đó: “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” thay vì “Con Thiên Chúa”. Cách diễn tả này tương đương với “Người yêu dấu” “Con yêu dấu” “Con Một”; ám chỉ đến các bài thơ của Người Tôi Tớ mà chúng ta đọc hôm nay và Chúa nhật vừa qua trong bài đọc một (Is 42,1 – 49,5).
Bạn hỡi, vào lúc mà con yêu dấu bắt tay thực hiện một sự sáng thế mới, giải thoát mọi người khỏi tội lỗi đã bắt sự sáng thế đầu tiên phải hàng phục, lúc ấy bạn sẽ để cho mình được tái tạo. Phải chăng bạn sẽ chấp nhận Đức Kitô tái tạo bạn. Bạn sẽ chấp nhận phép rửa và sự nhúng chìm mình trong Chúa Thánh Thần, bạn sẽ để mình đổi mới từ bên trong; bạn sẽ để mình được nhân bản hóa đến cùng trong sự “tham dự vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Ngày nay, hai thanh niên gặp nhau đó là Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Một thế giới mới bắt đầu; một thế giới của tình yêu thương.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
ĐÂY LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA- Chú giải của Fiches Dominicales
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Trong một bối cảnh thù nghịch cuộc vận động của các thầy cả, thầy lêvi yêu cầu Gioan tự xác định vai trò trong cuộc chờ đợi Đấng Cứu Thế: “ông là ai”. Gioan Tẩy Giả đã trả lời trước hết bằng ba phủ định: ông không phải là Đấng Cứu Thế, không phải là Êlia, cũng không là một đại tiên tri. Rồi ông tuyên bố. “ở giữa anh”, “một người mà anh em không biết; chính Ngài đến sau tôi nhưng tôi không xứng đáng cởi dây giày cho người” (l,2-27).
Bây giờ, Gioan Phúc âm xác định là ngày hôm sau, đối diện với các môn đệ, sau khi nhóm người điều tra bỏ đi.
+ Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu “tiến về phía Ngài”. Không phải là để xin rửa tội như ta tự nhiên nghĩ tới vì phép rửa đã xảy ra, nhưng để làm ứng nghiệm lời sấm của Isaia 40,10 “Chúa đến”.
+ Cũng trong chiều hướng làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia 40,2 đã loan báo cho Israel biết rằng “tội lỗi họ đã được tha thứ”, Gioan tuyên bố: “Đây là hiểu ngầm một lời mời hãy nhận xem chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội tràn gian. Một nhận dạng mà ta sẽ gặp lại ở chương 1,36.
Sự đối chiếu với Chiên Thiên Chúa có thể có 3 nền tảng trong Cựu ước. Hoặc con chiên của Israel 53,7: “Như con chiên bị đưa đến lò bát tế, như cừu đến trước mặt kẻ xén lông… Trong trường hợp này, thánh sử Gioan đã thấy nơi Đức Giêsu khuôn mặt của Người Tôi Tớ đau khổ gánh lấy tội lỗi thế giới. Nhưng cũng nên biết rằng cùng một từ ngữ Aram ấy có thể có 3 nghĩa: “trẻ em”, “tôi tớ” hoặc “con chiên”. Hoặc con chiên bị sát tế và đứng trong sách Khải Huyền, có thể thắng vượt tội lỗi và sự chết, là Đức Kitô phục sinh (Kh 5,6; 14,10; l.7,14). Hoặc con chiên vượt qua. Thực vậy, theo Gioan 19,14, Đức Giêsu bị kết án vào giờ mà các thầy cả bắt đầu sát tế chiên để mừng lễ Vượt qua. A. Marchadour nhận định: “Một tước hiệu như thế có thể có 3 ý nghĩa. Một độc giả không am hiểu bối cảnh Kinh Thánh của từ ngữ sẽ ghi nhận rằng có 2 so sánh vay mượn. Ở thế gian động vât: con chiên Thiên Chúa và chim bồ câu từ trời xuống. Hai hình ảnh của sự bất bạo động này rất thích hợp với bản chất của Đức Giêsu và với công cuộc nối kết với thế giới của Thiên Chúa”. Và làm chứng: “Chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Rồi, khi gợi lại phép rửa ở sông Giođan, Gioan Baotixita, người đã loan báo trước về Đấng Messia mà không biết (“Tôi không biết Ngài câu 31 và 33), đã làm chứng: “người đã thấy Ngài quả quyết 2 lần như vậy (câu 32 và 34): “Mọi người sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và ơn cứu độ Nơi Đức Giêsu, trên Ngài Gioan đã nhìn thấy “Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống từ trời và đậu lại”, Thiên Chúa đã mạc khải cho ông biết đó là Con Thiên Chúa…X lon Dufour nhận xét: “Sự chứng nhận này hiển nhiên phù hợp với lời tuyên bố của Thiên Chúa khi Đức Giêsu chịu phép rữa: Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người (Mt 3,17). Nhưng đây không phải là tiếng nói từ trời cao. Đó là tiếng nói của người phàm, Gioan Tiền hô đã nói.
Trong tước hiệu “Con Thiên Chúa” độc giả Kitô hữu tìm ra ý nghĩa vượt quá lời tuyên xưng về Đấng Messia, tước hiệu ấy nối kết với tước hiệu “Con duy nhất” đã được nhấn mạnh ở phần nhập đề. Đó chính là ý nghĩa mà bản văn này nhẩm tới, vì Phúc âm đã viết “để anh em tin rằng Đức Giêsu, Đấng Messia là con Thiên Chúa (20,31).
BÀI ĐỌC THÊM:
- Dấu chỉ đến từ Thiên Chúa.(Mgr. L. Daloz, “Nous avons vu ta gloire”, DDB).
Nơi ngọn nguồn của việc tỏ mình ra của Đức Giêsu, chứng từ của Chúa Cha: “Đấng mà trên Người ngươi sẽ thấy. Thần Linh xuống và ở lại, chính người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần”. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu sau lời mạc khải của Chúa Cha. Đức Giêsu thường nhắc lại: “Ai nghe lời Cha và đón nhận thì đến với Ta” (6,45). Và chính Thánh Thần do Chúa Cha sai đến đã chỉ cho Gioan Tẩy Giả biết Đức Giêsu. Nhờ ông, ta đi vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Ta chỉ nhận biết Đức Giêsu khi Thánh Thần Thiên Chúa đến mở mắt và chỉ cho ta thấy. Nếu không có Thánh Thần, không có lời chứng của các chứng nhân, ta sẽ không nhận biết Người. Người đâu phải là đối tượng của khoa học nhân văn mà ta có thể nhận dạng nhờ việc nghiên cứu và suy gẫm. Người là ngôi vị Con Thiên Chúa mà ta chỉ nhận biết được khi chính Thiên Chúa tỏ ra cho ta. Người là đối tượng của một chứng từ, không ai có thể nhận biết Người nếu họ không có trái tim rộng mở đón nhạn những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần.
- Con đường của Con Chiên.
(H. Denis, 100 mots pour dire la foi. DDB).
Hằng bao lần ta đã chẳng đọc và nghe: Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian sao? Thư thánh Phêrô sử dụng một đề tài Kinh Thánh cổ xưa như chuyện phiêu lưu của Môsê bên Ai Cập, tôi muốn cùng các bạn đi lại con đường của Con Chiên Thiên Chúa, Người đi từ sự báo oán giải phóng đến sự bất bạo động hoà bình.
Con đường ấy khởi đi từ một lịch sử đẫm máu. Dân Thiên Chúa được cứu khỏi Ai Cập nhờ máu Con Chiên. Con Chiên sẽ trở nên biểu tượng của công cuộc giải phóng Israel. Vì, ta đừng quên điều này, cuộc gặp gỡ của Môsê ở bụi gai cháy đỏ không, phải là một câu chuyện thần bí phóng đại hoặc truyện trẻ em ham thấy Chúa Mẹ hiện ra. Không, Môsê đã giết ngọt một tên Ai-cập đáng ngờ và Thiên Chúa của ông, dù chưa rõ tên Ngài, đã hứa nghe thấy dân Ngài đang bị nô lệ kêu xin. Như thế Con Chiên thuộc về phía cánh tay báo oán của Thiên Chúa, cùng với tất cả sức mạnh của Người. Nhưng chẳng bao lâu, đặc biệt với các ngôn sứ (Is 53, Gr 11…) Con Chiên này sẽ trở nên kiểu mẫu của những ai chết cho dân Người, như con cừu câm rùn bị dẫn tới lò sát sinh…
Thiên Chúa rời bỏ ngai Đấng toàn Năng. Ta nói rằng Người đứng về phía Con Chiên chịu đau khổ. Như thể thời gian dần dần chín mùi để đón nhận một Đức Giêsu nào đó, được Gioan tuyên xưng là Đấng xoá tội trần gian, còn thư Phêrô thì nhận là Con Chiên không khiếm khuyết, không tì vết, giải thoát ta khỏi cuộc sống không mục đích như là chiên vất vưởng lầm lạc. Nhưng sự đảo ngược hình ảnh chưa hoàn toàn. Cuộc giải phóng bằng việc báo oán của Thiên Chúa chưa chuyển hoá thành lễ dâng của một vát hy sinh tự nguyện và tự hạ. Thật vậy, Con Chiên phải mặc lấy những màu sắc và những hình thức của Sự Sống thực sự và của Vương triều thiên quốc. Đó chính là Con Chiên của sách Khải Huyền, hiện diện trong biết bao trang sách khi thời gian viên mãn. Điều đó nhắc tôi nhớ tới một bức bích hoạ rất đẹp và rất cổ xưa ở vùng ngoại ô Lyon, trong đó ta thấy Đức Kitô vinh hiển dưới hình Con Chiên mặt người. Đó là cuộc khải hoàn của niềm bình an, sức mạnh của sự bất bao động của Thiên Chúa. Vâng, chỉ Con Chiên mới có thể ban sự Bình An của lễ Phục Sinh, niềm bình an được hứa ban cho thế giới đã được giải phóng. Xin ban bình an cho chúng con.
CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN- A
CON THIÊN CHÚA (*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đều xoay quanh một chủ đề: Người Tôi Trung của Thiên Chúa có sứ mạng cứu độ muôn người.
Is 49: 3, 5-6
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo rằng Người Tôi Trung mà Thiên Chúa ủy thác sứ mạng không chỉ dẫn đưa dân Ngài trở về với Ngài, nhưng còn là ánh sáng cho muôn dân.
1Cr 1: 1-3
Thánh Phao-lô tự giới thiệu mình với các tín hữu Cô-rin-tô rằng Thiên Chúa đã gọi thánh nhân làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô.
Ga 1: 29-34
Sau cùng, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ tự xóa mình trước Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị và làm chứng cho Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 49: 3, 5-6)
Trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), có bốn bài thơ về “Người Tôi Trung”. Chân dung “Người Tôi Trung” được phác họa trong bốn bài thơ xem ra liên quan đến lúc thì toàn thể dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật biệt phân lãnh nhận một sứ mạng đặc thù. Vào Chúa Nhật II Thường Niên này, chúng ta sẽ đọc bài thơ thứ hai trong bốn bài thơ này. Khía cạnh tập thể và khía cạnh cá nhân đan quyện vào nhau rất rõ nét ở nơi bài thơ thứ hai này.
Trước hết, điểm nhấn được đặt trên khía cạnh tập thể, vì trong bài thơ này cốt là ơn gọi của dân Ít-ra-en: là vinh quang của Đức Chúa, quy tụ cho Thiên Chúa một dân tín trung, và là ánh sáng muôn dân.
*1.Vinh quang của Đức Chúa:
Như ở bài ca thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử của bài thơ thứ hai là cảnh giam cầm ở Ba-by-lon. Dân Ít-ra-en mà vị ngôn sứ ngỏ lời, qua giọng nói của Người Tôi Trung mầu nhiệm, là cộng đoàn của những người lưu đày, cộng đoàn trong cơn thử thách, bị thương tổn và ê chề nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp (tất cả mạch văn của chương này đều theo chiều hướng này); Ngài sẽ giải thoát dân Ngài. Các quốc gia ngoại giáo nghĩ rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en không còn nhớ đến dân Ngài, nhưng rồi họ sẽ thấy rằng bằng quyền năng, Thiên Chúa này sẽ tiêu diệt những kẻ áp bức. Dân Ít-ra-en sẽ là vinh quang của Ngài.
*2. “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng”:
Sau một thời gian dài Thiên Chúa thinh lặng, nay Thiên Chúa lại lên tiếng; Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài, dân mà Ngài để ý đến ngay từ khi còn trong trứng nước:
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ lúc tôi chào đời, Người đã nhắc tên tôi” (49: 1)
Diễn ngữ “từ khi tôi còn trong lòng mẹ” trở thành kinh điển để nhấn mạnh tính tiền định của ơn gọi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ này (Gr 1: 5) và thánh Phao-lô lấy lại diễn ngữ này mà áp dụng vào ơn gọi của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 15-16). Chính ở đây vấn đề được đặt ra: phải chăng Người Tôi Trung biểu thị cộng đoàn của những người lưu đày hay một nhân vật được tác riêng ra để trở thành vị lãnh đạo hay người hướng dẫn của dân?
*3.Sứ mạng kép của Người Tôi Trung:
Dù Người Tôi Trung này là cộng đoàn của những người lưu đày – quả thật, trong lịch sử cứu độ, cộng đoàn này đóng vai trò của “một nhóm nhỏ còn sót lại” – hay đây là một nhân vật biệt phân đi nữa, thì sứ mạng hàng đầu của Người Tôi Trung này là:
“Đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người” (49: 5)
Chắc chắn phải hiểu “đem về” theo nghĩa kép, vừa địa lý vừa luân lý: đem những người lưu đày về quê cha đất tổ của họ và đem một dân bất trung và bị trừng phạt về với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn làm cho dân này thành hạt nhân vững chắc, qua đó Ngài sẽ tái lập dân tộc thánh.
*4. “Quy tụ dân Ít-ra-en”:
Một trong những bận lòng lớn lao của những người lưu đày, đó là quy tụ tất cả các chi tộc bị tản mắc khắp nơi. Vai trò của Người Tôi Trung sẽ là tái lập sự hiệp nhất. Đây là sứ mạng tràn đầy niềm tin tưởng, công việc đầy phấn khởi. Người Tôi Trung thẩm định vinh dự được dành cho mình: “Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng”. Nhưng công việc này thật khó khăn, phải nương tựa vào ơn trên: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.
*5.Ánh sáng muôn dân:
Đức Chúa cho rằng công việc tái lập dân Ngài này là chưa đủ:
“Người phán: ‘Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (49: 6).
Bài thơ này nối kết và làm sáng tỏ bài thơ thứ nhất qua diễn ngữ: “ánh sáng muôn dân”. Rõ ràng sứ mạng của dân Ít-ra-en – hay ở đây có thể sứ mạng của “nhóm nhỏ còn sót lại”, tức là những người lưu đày được cứu thoát – chính là làm cho ánh sáng cứu độ được bừng sáng, đó không gì khác hơn chính là công việc của Đức Chúa.
Thánh Phao-lô đã cảm thấy một cách sống động những điểm tương đồng của ơn gọi Người Tôi Trung, được tuyển chọn cách đặc biệt để là “ánh sáng muôn dân”, với ơn gọi của chính mình. Thánh nhân áp dụng vào chính mình những lời của vị ngôn sứ, với cung giọng thống thiết, trong hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a khi mạnh dạn nói với những người Do thái cứng lòng tin rằng, từ nay, thánh nhân quay về phía dân ngoại, vì họ mở rộng lòng mình đón tiếp lời Chúa hơn (Cv 13: 46-47).
*6.Khía cạnh Mê-si-a:
Trong viễn cảnh xa, ẩn hiện dung mạo Người Tôi Trung thập toàn, tức Chúa Ki-tô, ở nơi Ngài Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Chính Ngài sẽ quy tụ dân Do thái và lương dân thành một dân duy nhất, Ngài sẽ là “ánh sáng thế gian” và nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó cũng là những ngôn từ của bài ca “An Bình Ra Đi” của cụ già Si-mê-on:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
và vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2: 29-32).
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 1-3)
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Đây là thành phố thương mại, có một vị thế địa lý đặc biệt với hai hải cảng. Thành phố này đang trên đà phát triển, với những tương phản xã hội: những nhà tài chính và thương mại giàu có bên cạnh những phu khuân vác và nô lệ. Thủ phủ xa hoa tráng lệ với đền thờ tôn kính nữ thần Aphrodite được hàng ngàn nữ tư tế phụng thờ, tức là những cô điếm thánh. Sau cùng, với tư cách là cái nôi văn hóa, thành phố Cô-rin-tô được mệnh danh là nơi có nhiều trường phái triết học trăm hoa đua nở.
*1.Một cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi:
Thánh Phao-lô đã trải qua mười tám tháng ở Cô-rin-tô và đã để lại ờ đây một Giáo Đoàn sống động. Nhưng ngay sau khi thánh nhân ra đi, Giáo Đoàn đã gặp phải biết bao những khó khăn nghiêm trọng khiến thánh nhân phải bận lòng: buông thả luân lý, bất đồng nội bộ, ngờ vực đạo lý, lạm dụng phụng vụ. Thánh nhân viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô để can thiệp, nhưng thư này bị thất lạc không được lưu truyền đến chúng ta.
Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, thánh nhân sai cộng tác viên của mình viếng thăm cộng đoàn này. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem theo một loạt câu hỏi mà thánh Phao-lô trả lời trong thư được gọi là “thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô” này, nhưng thực ra đây là thư thứ hai. Quả thật, thánh Phao-lô đã viết bốn bức thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong số đó, bức thư thứ nhất và bức thư thứ ba bị thất lạc. Bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất, thực ra là thư thứ hai; và bức thư mà chúng ta gọi thư thứ hai, thực ra là thư thứ tư.
Thánh nhân viết thư thứ nhất này từ Ê-phê-xô vào mùa xuân năm 55.Những chia rẻ xé nát cộng đoàn non trẻ này và sẽ là đối tượng phần thứ nhất của bức thư này. Đây là những lời khuyên bảo phải nên “một lòng một ý” với nhau mà chúng ta khởi sự đọc vào Chúa Nhật hôm nay và tiếp tục đọc vào những Chúa Nhật kế tiếp.
*2.Khủng hoảng nghiêm trọng:
Chúng ta không thể đọc thư này mà không xúc động, và đồng thời thán phục những lập luận thần học của thánh Phao-lô hay phương pháp huấn giáo của thánh nhân. Đối với thánh nhân, cuộc khủng hoảng xảy ra ở Giáo Đoàn Cô-rin-tô là một sự thử thách nghiêm trọng, vì thánh nhân không chỉ thấy công trình của mình bị đe dọa, nhưng ngài còn phải chịu những lời lăng mạ liên quan đến cá nhân mình. Thánh nhân quyết định viết một bức thư nghiêm khắc “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em” (2Cr 2: 4).
Tấn thảm kịch này giúp cho chúng ta nhận ra biết bao khó khăn trong việc cấy Ki-tô giáo vào môi trường ngoại giáo, môi trường này vốn đã được đào luyện bởi một nền văn hóa hoàn toàn khác với Do thái giáo và Giáo Hội vào lúc đó chỉ vừa mới hình thành nên chưa có đủ những quy định chặc chẻ.
*3.Lời mào đầu:
Đoạn trích thư hôm nay là lời mào đầu, phù hợp với tập quán thư tín của thời ấy, bao gồm: tên và phẩm chất của người gởi, cũng như tên và phẩm chất của người nhận.
Ngay từ đầu thư, thánh Phao-lô giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô tự ý kể ra rằng thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình trực tiếp từ Thiên Chúa: thánh nhân là Tông Đồ với cùng tước hiệu như nhóm Mười Hai. Tiếp liền sau đó, thánh Phao-lô nêu tên “ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi”: “người anh em” là danh xưng mà những người Ki-tô hữu xưng hô với nhau.
Người nhận là những Ki-tô hữu, họ hình thành nên “Hội Thánh của Thiên Chúa” ở Cô-rin-tô (đây là diễn ngữ ưa chuộng của thánh Phao-lô). Họ cũng đã được kêu gọi làm “dân thánh”, nhưng ngay tức khắc, thánh nhân mời gọi họ hãy khiêm tốn khi đặt mình trên cùng một bình diện với anh chị em của họ trong đức tin: thánh nhân cho họ thấy rằng phẩm chất đích thật của các Ki-tô hữu là hiệp nhất với nhau, vì thế mọi sự chia rẻ đều biểu lộ tình trạng kém phẩm chất của Ki-tô giáo.
Trong lời nguyện chúc sau cùng: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”, thánh Phao-lô hiệp nhất lời chào Hy lạp “ân sủng” và lời chào Do thái “bình an”, ngầm ủy thác cho họ những nguồn phong phú mới trong Đức Giê-su Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 1: 29-34)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật II Thường Niên Năm A này được trích dẫn từ Tin Mừng Gioan chứ không Tin Mừng Mát-thêu như theo lẽ thường của Phụng Vụ năm A. Một cách nào đó, đoạn Tin Mừng này tiếp nối với đoạn Tin Mừng của ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rữa. Tuy nhiên, đây không là đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng là lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, tất cả phần mở đầu của Tin Mừng Gioan được xoay chung quanh vai trò quan trọng của Gioan Tẩy Giả với tư cách nhân chứng.
Tựa Ngôn bị gián đoạn hai lần để đưa nhân vật Gioan Tẩy Giả vào nhằm nhấn mạnh vai trò chứng nhân của thánh nhân: lần thứ nhất, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su là ánh sáng (1: 6-8); và lần thứ hai, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su cao trọng hơn ông (1: 15). Đoạn Tin Mừng hôm nay lập lại cùng những ngôn từ với lời chứng của Gioan Tẩy Giả về sự cao trọng của Chúa Giê-su. Đây là điểm nhấn của Tin Mừng Gioan.
Tình tiết xảy ra vào những ngày Chúa Giê-su, sau khi trở về từ hoang địa, sắp bắt tay vào sứ mạng công khai của Ngài. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra sự cao trọng của Đấng mà ông đã làm phép rửa; vì thế, thánh nhân lên tiếng làm chứng cho Ngài:
-Thánh nhân đồng hóa Đức Giê-su với Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,
-Thánh nhân khẳng định cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su và tính ưu việt của Ngài,
-Thánh nhân chứng thực điều mà thánh nhân đã thấy và đã nghe: Đức Giê-su, được Chúa Thánh Thần tấn phong, đích thật là Con Thiên Chúa.
*1.Chiên Thiên Chúa:
Lời chứng thứ nhất của Gioan Tẩy Giả về Đức Giê-su:“Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Đây là tước hiệu mầu nhiệm, nhưng được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn đây là tước hiệu Mê-si-a. Đối với những người Ki-tô hữu mà Tin Mừng Gioan ngỏ lời, tước hiệu này gợi lên việc Chúa Ki-tô bị sát tế, Ngài sẽ nhận án tử thập giá vào giờ mà các con chiên lễ Vượt Qua bị sát tế. Một quan điểm như thế không thể nào là quan điểm của vị Tiền Hô được.
Quả thật, Cựu Ước đã mô tả Người Tôi Trung “bị ngược đãi, cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Đối với Gioan Tẩy Giả, xem ra còn hơn thế nữa, chiên là hình ảnh của sự vô tội và tinh tuyền. Đấng mà vị Tiền Hô đã không muốn làm phép rửa vì ông nhận ra Ngài là một con người vô tội, chính Đức Giê-su này hiện có mặt ở đó và đang tiến về phía mình: Ngài như con chiên không tì vết mà Lề Luật truyền lệnh dâng hiến thành hy lễ.
Mặt khác, văn chương khải huyền, vẫn còn nở rộ vào thời Chúa Giê-su, hình dung Đấng Mê-si-a đến dưới hình dạng của một con chiên yếu ớt, nhưng Thiên Chúa ban cho Ngài sức mạnh và quyền năng, và làm cho Ngài thành một con chiên khải hoàn. Chính xác, tác giả Tin Mừng Gioan sẽ lấy lại trong sách Khải Huyền của mình hình ảnh Con Chiên khải hoàn mà thánh nhân sẽ đồng hóa với hình ảnh Con Chiên bị sát tế.
Đây là kiểu nói độc nhất trong toàn bộ Tân Ước và được lập lại mỗi lần cử hành Thánh Thể: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến tham dự bàn tiệc Thiên Chúa”. Tin Mừng Gioan nói về tội lỗi ở số ít. Khi đặt tội lỗi ở số ít, thánh sử hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh tội lỗi của người Do thái và tội lỗi của lương dân, vì diễn ngữ “trần gian” chỉ tất cả nhân loại.
*2.Cuộc sống tiền hữu và tính ưu việt của Chúa Giê-su:
Lời chứng thứ hai của thánh Gioan Tẩy Giả: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”, đã được đưa vào trong Tựa Ngôn rồi, được lập lại ở đây vừa khẳng định cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su vừa tính ưu việt của Ngài.
Quả thật, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm đưa gia phả của Chúa Ki-tô lên đến tổ phụ Áp-ra-ham (Tin Mừng Mát-thêu) hoặc lên đến nguyên tổ A-đam (Tin Mừng Lu-ca), thì Tin Mừng Gioan lại đưa gia phả của Đức Giê-su lên cho đến lúc khởi đầu tuyệt đối:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (1: 1).
Như vậy, ở nơi lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả, cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su được nêu bật rất rõ nét bởi một sự đối lập rất mạnh giữa “có người đến sau tôi” ở phần đầu và “có trước tôi” ở phần sau cùng: về phương diện con người, Đức Giê-su chào đời sau Gioan Tẩy Giả, nhưng về phương diện Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan Tẩy Giả.
*3.Con Thiên Chúa:
Lời chứng thứ ba của Gioan Tẩy Giả nhắm đến tước vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giê-su được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa. Trong khi ba Tin Mừng Nhất Lãm gán lời khẳng định này cho tiếng phán từ trời, thì Tin Mừng Gioan đặt tiếng phán này trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả. Chính thánh nhân là người công bố: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Con Thiên Chúa”.
Đồng thời thánh Gioan Tẩy Giả xác định sứ mạng tiền hô của mình: sứ mạng của thánh nhân chính là bày tỏ Đức Giê-su cho dân Ít-ra-en. Tự bản thân mình, thánh nhân đã không biết chân tính của Đức Giê-su: “Tôi đã không biết Người” (động từ “biết” có một nghĩa rất sâu xa trong Tin Mừng Gioan); nhưng nhờ cuộc Thần Hiển vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa mà thánh nhân xác nhận tính siêu việt của Đấng mà thánh nhân loan báo. Hơn nữa, Thánh Thần đã báo trước cho thánh nhân rồi.
Mặt khác, Tin Mừng Gioan là Tin Mừng duy nhất nhấn mạnh Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tấn phong khi nói rằng Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Chúa Giê-su, chiếm đoạt lấy Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su, sinh hạ bởi quyền năng của Thánh Thần, được Thánh Thần hằng ở cùng ngay từ khi thụ thai.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su ở đây loan báo ngày lễ Ngũ Tuần: các Tông Đồ cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong trước khi các ngài bắt tay vào việc loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, người Ki-tô hữu vào lúc chịu phép Rửa lãnh nhận sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong họ.
*4.Khía cạnh lịch sử:
Cuối cùng, chúng ta không thể loại trừ rằng Tin Mừng Gioan đã có một hậu ý biện giáo, hay đúng hơn truyền giáo, khi nhấn rất mạnh tính trổi vượt của Chúa Giê-su trên Gioan Tẩy Giả. Quả thật, một thời gian dài sau khi vị Tiền Hô qua đời, vẫn còn có những cộng đoàn xem thánh nhân là Đấng Mê-si-a và họ tiếp tục thực hành phép rửa sám hối. Sách Công Vụ nói cho chúng ta biết có một nhóm như thế ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7). Vì thế, Tin Mừng Gioan muốn xóa tan mọi ngộ nhận như vậy bằng cách khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Mê-si-a.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam