Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 90

Tổng truy cập: 1446795

ĐẤNG KITÔ CỦA THIÊN CHÚA

Đấng Kitô của Thiên Chúa.

(Suy niệm của Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Đoạn 23:35-43 là màn chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân. Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ lãnh và quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của cảnh chế giễu nầy.

Luca đã dùng phân từ “kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) - và các thủ lãnh” - “và quân lính” - “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái” (c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).

Dân chúng (c. 35)

Luca chỉ ghi nhận “dân chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29, Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29). Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô (23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu (động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những người lên tiếng chế giễu Người.

Các thủ lãnh (c. 35)

Ở đây Luca chỉ nói đến “các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c. 35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50; 17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau. Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c. 39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).

Nhóm quân lính (c. 36)

Sau các thủ lãnh tôn giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63), Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái” nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos (x. 23:2).

Cho đến lúc nầy, cả các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai. Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì Người biết họ không tin vào Người (22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.

Tấm bảng (cc. 23:38)

“Và” (xem trên) liên kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x. Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng. Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh. Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.

Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)

Luca dùng động từ blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu. Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần (12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu (22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.

Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)

Người nầy ngỏ lời trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi, người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.

Nói về Chúa Giêsu, ông bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế (23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa (4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với “Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: - “Giêsu” là Con Thiên Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; - “Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; - Nước của Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân Do thái”.

Chúa Giêsu trả lời với phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng. Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người (x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người, nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng Nước Trời (x. 12:8).

Chúa Giêsu không chết trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.

 

37. Chúa Kitô, vua nhân từ - Lm. Minh Vận, CRM

Thánh Gioan Cantius, người Balan sinh năm 1390. Khi còn nhỏ, ngài là một cậu bé thông minh, tốt lành. Sau khi chịu chức Linh Mục, ngài làm giáo sư Kinh Thánh tại đại học Cracow, rồi làm Cha Sở nhiều năm, chuyên lo việc tông đồ phục vụ người nghèo. Ngài hành hương Rôma bốn lần, đi bộ, vai mang hành trang, một trong bốn cuộc hành hương này, ngài bị bọn cướp chặn lại và lấy hết tiền của, tra hỏi ngài còn tiền của gì nữa phải đưa hết. Ngài trả lời: Thưa đã hết cả rồi. Bọn chúng cho ngài ra đi. Đi được một quãng đường xa, ngài nhớ lại còn một số tiền nữa khâu ở dưới gấu áo, nên ngài vội vã trở lại và trao hết cho bọn cướp, xin lỗi họ vì đã quên lãng mất... Thấy lòng chân thật, nhân từ và thánh thiện của Thánh Nhân, bọn cướp bỡ ngỡ, cảm động nên đã bảo nhau trả lại cho ngài tất cả.

I. VUA TÌNH THƯƠNG VÀ CHÂN THẬT

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng Lễ Chúa Kitô Vua. Chúa là Vua của chúng ta, chúng ta là thần dân của Người. Người là Vua trên muôn vua, là Chúa muôn loài, là Đấng mọi loài trên trời, dưới đất và trong hỏa ngục đều phải tôn thờ, phụng sự, sùng bái, kính tôn và yêu mến.

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Philatô đã hỏi Chúa: "Ông có phải là Vua không?" Chúa long trọng tuyên bố: "Tôi là Vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về chân lý đó. Ai thuộc vào chân lý thì nghe tiếng Tôi" (Jn 18:37).

Là thần dân của Vua Kitô; hơn nữa, còn là các Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Đấng Thiên Hoàng, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Chúa chúng ta là Vua thế nào? Vương Quyền Ngài ở đâu? Quyền năng Ngài ra sao?

Kinh Tiền Tụng Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay trả lời cho chúng ta tất cả những câu vấn nạn trên: "Cha đã xức dầu hoan lạc tấn phong Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, làm Linh Mục đời đời và làm Vua vũ trụ, để khi hiến thân trên bàn thờ Thập Giá làm lễ phẩm giao hòa và tinh tuyền, Người hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc chúng con. Khi đã bắt mọi loài qui phục quyền bính mình, Người trao lại cho Cha là Đấng uy linh cao cả, một Vương Quốc vĩnh cửu và vô biên: Vương Quốc đầy tràn sự thật và sự sống, Vương Quốc đầy tràn ân sủng và thánh thiện, Vương Quốc đầy tràn tình thương, công lý và bình an".

II. CHÚA KITÔ THIẾT LẬP VƯƠNG QUỐC

Chúa Kitô là Thiên Chúa nhập thể làm người nơi trần gian để làm Vua, tự bản tính Ngài là Vua; không như các vua trần gian, được làm vua do dòng tộc loài người, do chiến đấu dành dân mà được tôn lên ngôi vị... Chúa chúng ta đã thiết lập Vương Quốc Ngài nơi trần gian bằng sự khiêm nhu, bằng tình thương yêu, lòng nhân từ tha thứ, bằng cái chết làm Hy Lễ Cứu Độ trên bàn thờ Thập Giá để qui phục mọi người về với Ngài.

Trước khi Ngài hoàn tất công nghiệp Ơn Cứu Độ, Ngài đã chọn mười hai Tông Đồ, bảy mươi hai Môn Đệ, đa số là những người dân chài, quê mùa dốt nát, thật thà lương thiện, để giữ những chức vụ, mà theo lối trần gian, chúng ta thường gọi là các tổng trưởng, bộ trưởng, dân biểu thượng viện, hạ viện... Ngài đặt Phêrô làm Quốc Vụ Khanh lập nội các và các nghành Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, để phục vụ trong Vương Quốc Ngài đã thiết lập... Thánh luật của Vương Quốc Chúa là Bộ Thánh Kinh, bao gồm thánh ý Thiên Chúa được mạc khải qua lời các tiên tri, các tổ phụ, các thánh ký, nhất là bộ sách Tin Mừng do chính Chúa Kitô đã chỉ thị, giáo huấn, ban bố, đã sống và đã làm gương... Quốc sách cai trị trong Vương Quốc Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh xả kỷ vị tha, chân lý và an bình. Biên cương Vương Quốc của Chúa Kitô bao la vô tận vượt mọi không gian và thời gian, không chỉ hệ tại nơi vũ trụ vật chất hữu hình này, mà còn bao gồm mọi tâm hồn con người... Giáo Hội Công Giáo chính là Vương Quốc của Chúa Kitô.

III. GIÁO HỘI, VƯƠNG QUỐC CỦA VUA KITÔ

Giáo Hội là một Siêu Quốc Gia, không theo một chính thể nào trên trần gian, quân chủ hay dân chủ, nhưng là được tổ chức theo thần quyền do Chúa thông truyền theo phẩm trật, không làm chính trị, không có quân đội hay sức mạnh trần thế, không chiến đấu tranh dành với ai.

Quốc sách cai trị trong Vương Quốc của Chúa Kitô là tình yêu thương, lòng nhân từ tha thứ, đức bác ái hy sinh, lòng xả kỷ vị tha, sự thánh thiện cao cả của Thiên Chúa.

Biên cương hữu hình theo pháp lý chỉ là mấy chục mẫu đất, xây dựng các cơ sở, đặt các cơ quan điều hành trung ương tại Rôma, nhưng được bao gồm mọi chủng tộc, mọi quốc gia trên khắp thế giới, vượt mọi không gian và thời gian, đến tận tầng thâm sâu linh thiêng của các tâm hồn, nơi Thiên Chúa hiển trị.

Thần dân của Vương Quốc Chúa Kitô là mọi Tín Hữu rải rắc trên khắp năm châu bốn bể, là tất cả mọi người chúng ta, gồm tất cả mọi người tin theo Chúa Kitô, làm nên một Đoàn Chiên duy nhất của Chúa nơi trần gian.

Đấng kế vị Thánh Phêrô, là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng thứ 264, đại diện Chúa Kitô phục vụ Giáo Hội, Vương Quốc hữu hình của Chúa nơi trần gian, Đấng mà chúng ta có thể mệnh danh là Chúa Kitô đang sống nơi trần gian. Đấng mà mọi tôn giáo, mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi sắc tộc dù theo chính thể nào, ngay cả những kẻ thù cũng phải kính nể, tôn trọng ngài như vị Đại Diện tối cao của Thiên Chúa, vị Lãnh Đạo tinh thần thế giới.

Kết Luận

Là con cái Chúa, chúng ta tôn xưng Chúa là Vua chúng ta, Vua các tâm hồn, Vua toàn thể vũ trụ và muôn loài thụ tạo trên trời dưới đất và trong hỏa ngục. Không gì làm Chúa hài lòng và chứng minh lòng chúng ta thần phục Vương Quyền Người, bằng cách chúng ta hãy mặc lấy tinh thần lòng chân thật, nhân từ tha thứ và thánh thiện của Chúa.

Thánh Gioan Cantius người Balan là một vị Thánh có lòng chân thật, khiêm nhu, nhân từ tha thứ, khiến cho kẻ trộm cướp, người tội lỗi cũng phải kính phục sám hối trở lại. Còn chúng ta, là con cái Chúa, chúng ta đã sống thế nào?

 

38. Người trộm lành - Lm. Thu Băng, CRM

Tôi còn nhớ vào lúc lên 12 tuổi, vừa bắt đầu vào lớp trung học, cái thú của tuổi trẻ là đấu kiếm và mê "Thần tượng Đồ Long Đao, chém một nhát 7 đầu người khỏi cố". Trong lóp tôi có một người bạn giỏi đấu kiêm mà cả lớp không ai địch lại được những đường lả lướt của hắn. Ai cũng tôn hắn là "Đại Ca mắt lươn". Bao nhiêu trận đụng độ với các lớp, chúng tôi đều phải nhờ đại ca mắt lươn này dàn trận.

Thần tượng của giới học sinh là ông thầy giỏi, là bà cô giỏi.

Thần tượng của đám trẻ chơi là người bạn có mưu cao và có tài biến báo.

Thần tượng của các tay anh chị Bến Nghé là Dũng Đakao hoặc Năm Mỏ Lét.

Thần tượng của Tôn Giáo là đấng sáng lập nên tôn giáo đó (Như Thích Ca Mâu Ni, như Lão Tử, như Khổng Tử hay như Chúa Giêsu...) Các ngài đã tìm ta một con đường giúp người ta giải thoát khổ nạn và tìm được niềm hạnh phúc.

Đọc cuốn sách "Những bộ xương khô" của một nhà sưu tầm tôn giáp Pháp, kể lại chuyện của những nhà sư nổi tiếng trở lại Công Giáo, trong đó có một cầu chuyện rằng: Nhà sư T..... áo vàng Ấn Độ ngồi trên xe lửa bên vị Linh Mục. Dựa vào cảnh toa xe không có khách, hai vị tu hành ngồi nói chuyện tôn giáo với nhau. Vị khất tu T.... đặt câu thắc mắc:

- Tại sao nhân sinh lại theo nhiều tôn giáo khác nhau? Sao Cha lại theo Chúa Giêsu mà không thờ đức Thích Ca là người dẫn đường đi trước? Vị Linh Mục trả lời:

- Chuyện đó dễ thôi, thế giới ngay nay người nào giỏi thì được tôn làm đại ca. Nhưng những đại ca gở thì ai thèm ngó tới. Tôi rất kính phục các vị đại ca của các tôn giáo, vì các ngài đã tìm ra một lối giải thoát cho con người. Còn tôi, tôi không phục hết cả các ngài trừ ra đấng Đại Ca của tôi. Xưa kia tôi cũng là một nhà sư như đại đức đây. Cũng chính tại nghĩ đến lời đại đức vừa nói mà tôi tìm ra được vị đại ca tối cao này. Vị đại ca có quyền thế trên các vị đại ca khác là Đức Kitô. Tôi trà tầm hết cả các đường lối dẫn độ của các tôn giáo, nhưng tôi chỉ thấy có một vị dám xưng là "Chúa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao trên toàn cõi đất" Các vị khác không ai dám xưng như vậy.

Điều chứng minh Ngài chính là đại ca đã nhiều người được thấy tận mắt những việc Ngài làm mà chúng tôi gọi là phép lạ chứ không phải là phép phù thủy.

Ngày thứ 6 tuần thánh, Chúa Giêsu bị người Do Thái tố cáo rằng Ngài tự xưng là vua. Do đó quan Philatô hỏi:

- Ông tự xưng là vua Do Thái ư? (Mt.27:11).

Philato đâu có ngờ đó là một sự thật, sự thật mà Chúa không thể nói cách nào khác để tránh né. Ngài phải nhận:

- Tôi là vua.

Ngài cũng đã dám tuyên xưng vương quyền của Ngài chẳng phải ở thế gian này và giáo lý của Ngài không ai áp đảo được như thánh Phaolô nói:

- Ngài là vua đứng đầu mọi thụ tạo. Ngài là vua vô hình và mọi loài trên trờ dưới đất đều phải thờ lạy. Ngài cai quản mọi loài, và Ngài có trước mọi loài.

Người trộm lành trong giây phút cuối cùng đã đặt hết hy vọng vào Ngài , nên Ngài đã hé môi "Hôm nay con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng" Chúng ta đang sống trong cảnh thiếu hạnh phúc cũng cần nhằm đến một thần tượng, một vua bất diệt.

Chuyện kể rằng: Trong lúc phong ba bão lớn, người nào cũng tin có Đấng Thượng Đế tối cao có quyền trên biển cả, nên họ kêu gào cầu cứu. Nhiều khi họ hứa sống hứa chết thay đổi cuộc đời xin Ngài cứu thoát. Tiếng lòng thành kêu xin được đáp lời ai nấy đều sửng sốt nói lên lời cảm tạ. Nhưng tháng ngày trôi qua, việc an lành đã đến, lúc đó họ chỉ còn nhìn thấy "thần Dolas" trước mắt. Họ cố gắng quên lời thể hứa đã qua.

Thần tượng của đời này được người ta tôn thờ là "Thần Tài, Thần Danh" Thực ra đó chỉ là phương tiện mà chúng ta đặt lên làm cứu cánh, còn chính Chúa Giêsu là cứu cánh, chúng ta hạ xuống làm phương tiện. Phương tiện cũ rồi không xài nữa, để cho màng nhện chăng. Chúa lúc nàu cầu không thiêng, thôi dẹp.

Nhân dịp cuối năm, Giáo Hội mừng kính Chúa Kitô là vua, nhắc nhở chúng ta xét lại quan niệm sống và cách xử đối với Đấng là Vua, là minh chủ, là đại ca mà chúng ta tôn thờ. Hãy tôn vinh Người là vua thực sự trong tâm hồn, trong cuộc sống, trong gia đình và ngoài xã hội.

 

39. “Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi”

(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.

Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôm, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.

Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?

Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.

 

40. Mở cửa về hướng tình thương.

(Suy niệm của Achille Degeest)

Bài Phúc Âm nêu rõ ngộ nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là những kẻ luẩn quẩn trong cái nhìn thuần tuý trần tục về sự vật, bên kia là những tâm hồn được Đức Kitô tác động cho nên mở rộng đến cực độ. Địch thủ của Chúa đứng ở bình diện những viễn ảnh sơ đẳng mà tước hiệu ‘Vua’ gợi ra trong trí họ. Trái lại, Đức Giêsu mở ra cho kẻ tội lỗi những viễn ảnh vô tận về một Vương quốc của tha thứ và yêu thương. Hai bình diện hoàn toàn khác biệt. Con người bị ràng buộc nặng nề vào những chân trời hạ giới, cho nên thảm trạng của Đức Kitô (cũng là thảm trạng Giáo Hội) ở chỗ rất khó đưa con người lên tới tầm cao định mệnh toàn diện và siêu nhiên của nhân loại. Bản thân Đức Giêsu là một cơ may lịch sử tặng cho con người để gặp Thiên Chúa. Thế mà trong lịch sử thời Phúc Âm và trong Giáo Hội ngày nay, chúng ta thấy gì? Một số từ chối Đức Kitô vì mắt họ vấp phải cái khía cạnh trông thấy được của Đức Kitô làm người, của Giáo Hội gồm toàn những con người với bản chất rất nhân loại. Những kẻ khác thì thích ứng, đức tin họ chỗi dậy, và nhờ được tha thứ cho những giây phút yếu đuối, họ tiến vào Nước Thiên Chúa. Chúng ta nhận xét thêm. Đứng trước nhân loại, Giáo Hội có trọng trách phải có bộ mặt giống tôn nhan Đức Kitô khiêm hạ, nghèo khổ, không vị lợi, quay về cả hai phía Thiên Chúa và con người, cho nên Giáo Hội thu hút những tâm hồn muốn tiến lên trong đức tin. Chúng ta nhấn thêm vào hai điểm trọng yếu trong bài Phúc Âm hôm nay.

1) Đức Kitô không thiết lập một triều đại thế gian có quyền năng kỳ diệu hoặc nhiều phép thần thông. Con người, nhất là kẻ không tin, rất háo hức muốn được chứng kiến những cuộc biểu diễn phép thần. Kẻ thù của Chúa đứng bên chân thập giá, tấn công về điểm tâm lý ấy. Họ nói: Chúa hãy làm cử chỉ phi thường xuống khỏi thập giá là người ta sẽ tin vào Chúa ngay. Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Chúa sống trên một bình diện quá cao. Ở đây chúng ta có nên đặt ra một câu hỏi có tính chất thời sự không? Phải chăng một số nào đó, gồm cả Kitô hữu, đòi Đức Kitô dùng phép thần làm cho thế giới hết đau khổ, bất công, giặc giã, …? Có những kẻ dám nói, nếu Đức Kitô có quyền năng của một ông vua thì xin hãy cải thiện xã hội! Với những kẻ ấy, Đức Giêsu không đáp lời bằng phép lạ, bằng điều phi thường.

2) Đức Kitô thiết lập triều đại tha thứ yêu thương. Tha thứ yêu thương là những ân huệ nhận được từ Trên, như thể muốn biểu hiện luật nội tâm của Trái Tim Thiên Chúa. Kẻ nào lãnh nhận ân huệ đó cũng phải lấy tha thứ yêu thương làm luật nội tâm cho mình trong cách đối xử với anh em. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, mỗi người chúng ta có thể, trong sự thật, nói như kẻ trộm lành: Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi vào Nước Trời. Thốt lên như thế là cầu xin cho định mệnh vĩnh cửu của chúng ta, nhưng cũng là xin được hưởng ngay bây giờ ơn yêu thương tha thứ của Chúa. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định: Trong cách đối xử với anh em, chúng ta không được chậm trễ, ngay hôm nay chúng ta phải sống ơn tha thứ, sống tình thương yêu. Đó là hai thực tại cực kỳ ý nghĩa của vương quốc Đức Kitô.

 

home Mục lục Lưu trữ