Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 90
Tổng truy cập: 1446795
CON NGƯỜI ĐẾN TÌM KIẾM NHỮNG GÌ ĐÃ MẤT
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Hải Phương)
“Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Kitô, vì Người sắp qua đó”. Dakêu là một người giàu có, vì ông là trưởng phòng thuế của thị trấn quan trọng như Giêricô. Các lời đồn đại về Chúa Giêsu đã cuốn hút Dakêu, ông đã tìm cách xem Chúa Giêsu là người thế nào? Nghe tin Đức Giêsu sắp đi ngang qua nhà, Dakêu tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu, cho dù phải chen lấn, thậm chí phải leo lên cây để được xem thấy Đức Giêsu, Đấng ông hằng ước ao. Sự khao khát đó đã được Đức Giêsu cho thoả mãn khi Ngài nói:” Này ông Dakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời ông nên tốt, trở nên con người mới và ban cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu thánh thể, Ngài là Đấng mà ai gặp gỡ cũng tìm được hướng sống mới, tốt đẹp và hữu ích cho đời. Nơi Ngài đã toả lan một sức sống kỳ diệu. Sự lôi cuốn này không khước từ một ai, từ Maria Mađalena, một cô gái điếm, đến Phaolô, một người chuyên bách hại các Kitô hữu. Điều quan trọng hơn, Ngài đã biến đổi cuộc đời họ. Ngài biến đổi đời họ với một cái nhìn bao dung và đầy yêu thương. Chúa ơi, đã biết bao lần chúng con chối bỏ Ngài. Ngọn lửa mến Chúa yêu người trong tâm hồn chúng con đã tắt lịm hoặc chỉ leo lét. Những lo lắng vật chất hàng ngày đè nặng trên tâm trí, khiến chúng con chỉ biết lao vào vòng xoáy tiền tài danh vọng mà quên rằng xung quanh chúng con còn biết bao người cần giúp đỡ, cần sự sẻ chia. Xin đốt lên trong tâm hồn chúng con sự khao khát tìm gặp Chúa, biết sẻ chia với anh em. Chúa hãy biến đổi con người chúng con. Con người hẹp hòi, ích kỷ trở nên bao dung, biến đổi hận thù ghen ghét thành yêu thương.
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã từ bỏ ngôi vị cao sang trên Thiên quốc, vâng lời Thiên Chúa xuống thế làm người để tìm và cứu loài người khỏi ách thống trị của ma quỉ. Kể từ lúc ông bà nguyên tổ phạm tội, cuộc sống con người mất hẳn ý nghĩa. Nhưng Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người, Ngài đã sai Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế để tìm kiếm những tâm hồn lầm lạc, đến những người bị xã hội khinh khi,.. Ngài đã đến nhà ông Dakêu và biến đổi con người của ông. Thiên Chúa không muốn để mất một ai. Ngài luôn mở rộng vòng tay yêu thương để chờ đón chúng ta. Chúa Giêsu đã từ bỏ địa vị cao sang, xuống thế làm người để cứu chữa những tâm hồn tội lỗi.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Vì yêu thương và không muốn con người bị hư mất, Ngài đã xuống thế làm người mang lấy tội lỗi của loài người và chết nhục nhã trên cây thập giá. Ngài đã đến để tìm những con chiên lạc. Ngài là cầu nối yêu thương để chung chuyển tình yêu của Chúa Cha xuống cho loài người. Phần chúng con, đã biết bao lần chúng con sống xa cách khinh miệt những người nghèo, những người thương tật, những kẻ bị ruồng bỏ. Thậm chí không ít lần đã góp phần chối bỏ nhân vị. Đó là những lúc chúng con làm ngơ trước những vấn nạn của xã hội, chạy theo những lối sống không phù hợp với đạo lý Tin Mừng.
Xin ban cho chúng con biết quý trọng những người anh em xung quanh. Biết tôn trọng dù họ là người tội lỗi trước con mắt thế gian. Xin giúp chúng con mở rộng vòng tay đón nhận những người anh em mình, những người đau yếu bệnh tật. Xin dạy chúng con tìm đến với tha nhân để cùng sẻ chia những gánh nặng của cuộc đời. Sau hết xin lấy khỏi lòng chúng con quả tim chai đá và ban tặng quả tim biết yêu thương. Amen.
ĐỨC GIÊSU LUÔN THẤY KẺ TÌM KIẾM NGƯỜI, VÀ NGƯỜI ĐI BƯỚC TRƯỚC
(Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp)
Điều gì đã khiến chúng ta khựng lại? Gần đây ở Raleigh, nơi tôi sống, một đại lý xe hơi bắt đầu bán loại xe Maserati. Giá khởi điểm cho mỗi xe là 100.000 Mỹ kim – hoặc hơn nếu như quý vị muốn thêm những phụ kiện. Tờ báo địa phương có đăng tải bức ảnh của một trong những chiếc xe hơi đắt tiền, bóng bảy màu đỏ này. Giả như một chiếc Maserati chạy xuống đường phố của quý vị, liệu hình ảnh đó có khiến cho những khách bộ hành khựng lại dòng suy nghĩ của mình hay không. Có phải nó bắt mắt không? Gần đây, tôi đi cùng với chị tôi ngang qua một cửa hàng. Tôi thấy một cậu bé hai tuổi đang bám lấy áo khoác của mẹ. Thấy thế, chị tôi dừng lại, reo lên “Ôi, dễ thương quá đi thôi!”Rồi chị khen bà mẹ đó. Ngay cả lúc chúng ta đang vội vã thì một vài thứ cũng tóm lấy chúng ta và khiến chúng ta khựng lại.
Bài Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng đức Giêsu “cố ý” đi ngang qua Giêricô. Nhưng Ngài dừng lại. Không phải vì một cỗ sa mã nhanh nhất và hiện đại nhất chạy ngang qua. Cũng chẳng phải vì một cậu bé hai tuổi cực kỳ dễ thương đã gọi Ngài – dù có Ngài dừng lại vì điều đó. Nhưng là một vị trí ngớ ngẩn của một người trưởng thành, một người lớn giàu có, đang ở trên một cây sung – tất cả chỉ có thế! Những người khác cũng bận tâm đến hình ảnh của Giakêu ở trên cây. Có lẽ họ đã nhìn lên ông đầy khinh bỉ. Dân chúng trong vùng chắc là chẳng ưa gì ông – ông “đứng đầu những người thu thuế”.
Những người thu thuế là người Dothái nhưng lại đi thu thuế cho người Rôma. Họ biết rõ hoàn cảnh địa phương nên biết cánh đồng nào thu hoạch được nhiều, và dân chúng có bao nhiêu chiên, dê. Họ biết làm thế nào để tận thu từng đồng Seken (tiền của người Dothái) – tất cả để phục vụ cho quân đội, cho sự đàn áp của Rôma và để tiế tục đô hộ những người láng giềng Dothái của họ. Thế nên, người dân trong vùng đã chẳng thích Giakêu một tí nào, và người ta có thể không ngần ngại chỉ vào Giakêu ở Hội đường và nói toặc ra với nhau rằng “Hãy nhìn tên thu thuế này, và tất cả tiền bạc của hắn ta, và hắn đang hành xử như một tên ngốc”.
Nhưng khi đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài đã dừng lại. Ngài có lẽ đã nhìn thấy người đàn ông giàu có ăn mặc đẹp. Ngài có thể nhìn thấy một kẻ phản bội dân tộc của Ngài. Dĩ nhiên, Ngài nhìn thấy những gì láng giềng của ông ta nhìn thấy – người đàn ông đó đang cử xử như một tên ngốc. Tại sao Giakêu lại làm hành vi ngờ nghệch như vậy nơi công cộng? Kinh thánh nói ông đang: “tìm cách để xem Đức Giêsu là ai.” Đó là điều khiến Đức Giêsu dừng lại. Giakêu là một người tìm kiếm; ông bước ra ngoài để tìm gặp Đức Giêsu.
Có lẽ Giakêu muốn thấy liệu Đức Giêsu có thứ mà ông đang tìm kiếm hay không. Đó có thể là gì? Có phải ông đã chán ngấy lối sống của ông? Có phải ông chán dù có nhiều tiền của và tất cả mọi thứ đều được cung cấp nhưng vì khi ông có mọi thứ ông muốn thì ông lại không thể có thứ ông cần – một cuộc sống chân thật. Ông cũng không được bà con láng giềng tôn trọng. Phải chăng gia đình ông cũng bị tẩy chay? – “Có vợ và các con của người thu thuế không tốt đó.” Ông ta biết mình làm giàu trên công sức của những người láng giềng. Ông ta cũng biết mình đã quay lưng lại với Đức Chúa, vì ông đã giúp đỡ ủng hộ người ngoại bang. Ông “đứng đầu những người thu thuế” như thánh Luca cho chúng ta biết. Ông có rất nhiều vàng bạc trong túi nhưng lại chẳng có một tẹo Thánh Thần. Vì thế, chúng ta thấy ông chạy ra ngoài để cố gắng gặp đức Giêsu.
Ý định của Giakêu có thể không hoàn hảo. Chúng ta cũng không nhất định phải hoàn hảo để được Thiên Chúa chú ý hay quan tâm. Có phải chính cuộc sống bất tiện của ông đã đưa ông ra bên ngoài ngày hôm ấy? Có lẽ đức Giêsu đã thấy sự bất mãn hay khốn khổ trên gương mặt Giakêu. Có phải có cả sự tò mò trong đó nữa? Và Đức Giêsu có lẽ cũng thấy sự căm thù và khinh bỉ trên nét mặt của những người hàng xóm của Giakêu. Trong khi ông ta không phải là mẫu người cần được tha thứ (vì Ngài chẳng gọi ông ta ra để nhận sự tha thứ), tuy nhiên Đức Giêsu đã dừng lại và tác động đến ông ta, Ngài tự mình vào nhà kẻ tội lỗi.
Điều gì khiến cho dân chúng thấy buồn vì Đức Giêsu vào trong nhà của Giakêu? Bởi vì trong thế giới Trung Đông của Đức Giêsu, bước vào nhà một người, “bẻ bánh” cùng với họ, là bước vào một không gian linh thánh và riêng tư. Ngay cả nhà của một kẻ nghèo cũng là nơi thánh. Kẻ thù không được phép vào. Bước vào trong nhà, như Đức Giêsu làm, là trở nên thành viên của gia đình đó. Nếu kẻ thù được mời vào trong nhà để bẻ bánh, dùng bữa, thì đó được xem như hành động hòa giải. Nghĩa là, quá khứ được bỏ qua, và tương quan mới được dựng nên.
Thánh Thể đến từ truyền thống Trung Đông, nơi đó khi kẻ thù ăn uống cùng nhau thì được hòa giải. Đó là điều mà chúng ta cần nghĩ đến trong mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Ai là người chia sẻ cùng một bữa tiệc với chúng ta? Nhìn xung quanh, đón nhận, và hành động trong sự hòa giải với những gì đang xảy ra.
Đức Giêsu nhìn thấy kẻ tìm kiếm và đã đi bước trước. Ngài chẳng quan tâm xem Giakêu đã tự chuẩn bị nhiều như thế nào. Ngài cũng chẳng cần ông phải công khai bày tỏ đức tin, hay “ăn năn cách trọn”. Đức Giêsu lấp đầy chỗ trống và chỗ thiếu và bước vào nhà ông Giakêu cũng như chính cuộc đời của ông. Đức Giêsu bảo Giakêu: “hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này”. Tất cả mọi người trong gia đình đều được hưởng ơn phúc khi mà chỉ mình người này mời Đức Giêsu vào cuộc đời ông. Chúng ta biết đến kinh nghiệm như thế khi mà một người có đức tin trong gia đình có ảnh hưởng đến tất cả những người khác xung quanh họ…khi mà một người tin thì phúc lành đổ xuống cho tất cả mọi người sống dưới cùng một mái nhà đó.
Giakêu không hoàn hảo, ông ta cũng bất tất, linh tinh và chưa đâu vào đâu. Thế mà Thần Khí của Đức Chúa đã đánh động ông để hôm ấy ông rời nhà mình và trở thành kẻ tìm kiếm. Ông ta nghĩ mình sẽ nhìn Đức Giêsu bằng cặp mắt thể lý của mình. Nhưng việc xảy ra cho ông còn nhiều hơn thế: khi Đức Giêsu nhìn thấy Giakêu, Ngài khựng lại và đón nhận ông như chính ông, rồi bước vào cuộc đời của ông và cuộc sống của gia đình ông.
Giống như Giakêu, tất cả chúng ta cũng được Thánh Thần thúc đẩy. Thực ra, sự thúc đẩy này bắt đầu ngay từ khi chúng ta được rửa tội, khi chúng ta được thanh tẩy để bước vào cuộc sống thần linh. Và chúng ta được tác động luôn mãi. Được tác động khi chúng ta gặp một người cần chúng ta giúp, hay cần chúng ta chia sẻ, lắng nghe. Được thúc đầy khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng mùa đông và vẫn cố gắng đến nhà thờ. Được thúc đẩy khi chúng ta đứng lên bảo vệ cho những người áp bức hay bị bỏ rơi. Được Thánh Thần thúc đẩy khi chúng ta tình nguyện đến nhà thờ để “giúp một chút xíu” và điều đó biến thành rất nhiều – và chúng ta thích làm thế! Được thúc đẩy khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua những thử thách và đau khổ. Được thúc đẩy để phá vỡ những thói quen mà dường như chúng ta cảm thấy không thể thay đổi, và chúng ta đã làm được.
Còn những cách khác mà chúng ta kinh nghiệm được sự thúc đẩy của Thánh Thần. Chúng ta nhận ra rằng tinh thần của chúng ta đang đói và chúng ta bắt đầu tìm kiếm thức ăn. Có lẽ chúng ta tham dự tĩnh tâm cuối tuần; đọc sách thiêng liêng do một người bạn đề nghị; nói đến linh hướng, đặt mua báo về đời sống thiêng liêng; tìm kiếm trên Internet những chủ đề về cầu nguyện, … Khi chúng ta đáp lại những thúc đẩy như thế, chúng ta giống như Giakêu, người đã trèo lên trên cây. Chúng ta trở thành kẻ tìm kiếm và nóng lòng muốn lấp đầy cơn đói khát bên trong chúng ta. Chúng ta nhận ra mình đang ở khúc ngoặt của cuộc đời mình và muốn nhìn thấy Đức Giêsu.
Nhưng lại giống như Giakêu, khi chúng ta còn đang tìm kiếm Đức Giêsu thì Ngài đã dừng lại vì chúng ta rồi. Ngài luôn nhìn thấy chúng ta, dù chúng ta còn lâu mới hoàn hảo và còn bất toàn, linh tinh, điên cuồng hay tội lỗi. Ngài biết chúng ta đang tìm kiếm và Ngài đáp lại chúng ta, với chính con người của chúng ta. Ngài muốn vào nhà chúng ta, như vào nhà ông Giakêu, theo cách đầy ngạc nhiên và mới mẻ. Và chúng ta cũng muốn những gì xảy ra cho Giakêu thì cũng xảy đến cho chúng ta: là cả gia đình chúng ta đều được chúc phúc: bỏ qua một bên quá khứ đau buồn, mọi thành viên trong nhà được hòa giải và trái tim bao dung hơn với nhau.
Có một khoảnh khắc trong câu chuyện của Giakêu khi quý vị chứng kiến việc trao đổi ánh mắt giữa ông Giakêu với Đức Giêsu. Cái nhìn trao đổi đó cũng xảy mỗi khoảnh khắc trong mọi ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì khi cảm nghiệm ánh mắt của Ngài nhìn chúng ta. Chúng ta có đang tìm kiếm Ngài không? Tại sao chúng ta lại không nói với Đức Giêsu như cách chúng ta mời khách vào nhà chúng ta… “Xin mời vào. Hãy cứ tự nhiên như ở nhà. Rất vui được gặp anh / chị”.
Nền giáo dục Việt Nam đang gặp khủng hoảng lớn. Giữa một xã hội đầy bạo động, lừa dối, tham nhũng, thối nát, nhà giáo làm được gì để cải tiến con người cho tương lai dân tộc? Làm sao thoát được ma lực của đồng tiền để có thể hướng dẫn bạn trẻ hôm nay?
Muốn tìm được lối thoát cho nền giáo dục hôm nay, thiết tưởng nên tìm đến Tin Mừng để thấy được nơi Đức Giêsu con đường giáo dục đầy sáng suốt, khoan dung và thực tế. Lịch sử cứu độ cũng chỉ là đường lối giáo dục đầy khôn ngoan, kiên nhẫn của Chúa dành cho dân Người mà thôi.
ĐỨNG TRƯỚC ĐÁM ĐÔNG
Trên đường về thành Giêrusalem, Chúa Giêsu muốn tập trung cao độ vào mục đích sứ mạng cứu thế giới. Người biết mình sắp phải hy sinh mạng sống. Trước giờ phút khắc nghiệt ấy, dĩ nhiên Chúa chẳng quan tâm tới của cải vật chất. Nhưng khi những biến cố tử nạn và cái chết sắp đến, Người cấp bách kêu gọi những ai muốn theo Người phải từ bỏ của cải. Đối với Chúa, của cải là một trở ngại, vì nó cột chặt con người vào những trách nhiệm và làm cho họ quá bận tâm.
Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung vào những điều cốt yếu, những điều quan trọng thực sự. Người nói chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Người truyền chúng ta phải thi hành công lý, yêu người nghèo khổ, hy sinh để chiếm lấy vinh quang cuối cùng. Quá nặng nề với của cải vật chất, không thể chu toàn bổn phận đó.
Quần chúng chỉ biết có tiền. Chẳng hạn trước chương Lc 19 ít câu, thái độ người thanh niên giàu có cho thấy anh không thể vượt trên lối sống và nếp nghĩ quần chúng. Xung quang vấn đề ông Giakêu hôm nay cũng chỉ là tiền. Quần chúng uất hận, vì nếu không có bọn người tay sai như Giakêu, họ không bao giờ bị bóc lột tận xương tủy như vậy! Bởi đó, dứt khoát họ không thể đội trời chung với Giakêu. Dĩ nhiên Chúa chia sẻ quan điểm này với quần chúng. Chúa thông cảm, nhưng không thể đánh giá con người phiến diện như họ. Đồng tiền có thể làm cho con người hư hỏng. Nhưng thần tài làm sao mạnh hơn Thiên Chúa?
Một đàng Chúa kêu gọi môn đệ phải dứt khoát từ bỏ của cải. Đàng khác, Chúa cho ta thấy của cải cũng không thể phá hủy con người hoàn toàn. Nơi sâu thẳm vẫn còn tiếng lương tâm, tiếng nói của Thiên Chúa. Trừ phi cố chấp buông theo đam mê vật chất, con người luôn là đối tượng cứu độ. Đó là chỗ khác biệt giữa Chúa và quần chúng. Quần chúng không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại ghé nhà Giakêu, một người “đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.” (Lc 19:2) Phải chăng Chúa muốn chơi với người giàu có và quyền lực? Phải chăng Chúa cấu kết với bọn đế quốc? Thực ra, Chúa đến với ông để cho mọi người thấy Tin Mừng cứu độ không có một biên giới nào. Chúa không trục lợi hay tìm một chỗ ẩn núp nơi ông. Bằng chứng, ông chẳng hứa cho cá nhân Chúa điều gì.
Ông quá giàu tiền của, nhưng thật nghèo nàn về tình cảm. Không ai chơi với ông. Mọi người đều lánh xa. Mặc dù đầy quyền lực và giàu có, nhưng ông bị nỗi cô đơn gậm nhấm theo thời gian. Đó là cái giá ông phải trả cho những việc ông đã làm tổn thương nhiều nguyên tắc đạo đức và lòng ái quốc, cũng như đã cộng tác với quân Roma để được vinh thân phì da. Nhưng của cải không đủ lấp đầy con tim. Ông mơ ước ai đó sẽ đem lại cho mình môt ý nghĩa cuộc sống. Bởi đó, sau bao ngày thầm phục trước con người đã tạo thời cuộc là Đức Giêsu, giờ đây ông làm mọi cách để có thể đối diện với Người. Ông tin gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, vì Người sẽ ban cho mình sư sống và lẽ sống. Hơn nữa, hiện hữu trên đời để làm gì, nếu không phải là để sống đời đời? Ông tin Chúa sẽ chỉ cho ông con đường ngắn nhất đi đến cuộc sống đích thực.
Trong nỗi cô đơn chất ngất, ông cảm thấy thèm khát được gặp một người lừng danh như Chúa. Hêrôđê cũng đã từng muốn gặp Chúa như vậy. Nhưng khác Hêrôđê, ông liều mình ra tận ngoài đường, chen chúc với đám đông và leo lên tận cây cao để dễ phóng tầm nhìn đến Chúa. Ra ngoài gặp đám đông quả là một cực hình, vì mọi người đều biết ông đã từng lừa đảo và ức hiếp. Đám đông ồn ào chen lấn và ngăn cản ông. Kích thước khiêm tốn đã là một cản trở. Bây giờ cơn giận quần chúng càng làm ông mất thế trước Chúa nữa. Quần chúng muốn Chúa phải dừng lại để nói với họ đôi điều.
Giữa lúc mọi người đều tẩy chay như thế, ông lại được Chúa đoái thương. Thật là một điều kinh ngạc đối với ông. Ông quá vui mừng, vì nhận thấy Chúa khác hẳn và vượt xa quần chúng, mặc dù ông chưa thấy Chúa làm phép lạ nào. Khi được Chúa gọi đích danh, ông giật mình và nhận ra tất cả sự thật và hạnh phúc lớn lao đang đến với mình.
Có bị mọi người xa lánh và khinh bỉ, mới cảm thấy sâu xa cử chỉ yêu thương và lời ngỏ đầy thân ái của Chúa hôm nay có nghĩa gì. Giakêu đã chìm sâu trong biển lặng cô đơn và tủi nhục giữa đồng bào mình. Họ chỉ muốn không những xa lánh mà còn đòi công lý trừng phạt con người tội lỗi ấy. Nhưng thay vì giáng phạt, Chúa đã cứu vớt ông lên. Đòi hỏi của quần chúng hoàn toàn không hoàn toàn nghịch công lý. Nhưng công lý không có tình yêu sẽ đem lại hậu quả khốc hại. Phải bắt nguồn và đặt nền tảng sâu xa trong tình yêu, công lý mới đem lại hạnh phúc đích thực cho mọi người.
Phép lạ lớn nhất hôm nay là tình yêu đã mở mắt và biến cải con người Giakêu hoàn toàn. Quá xúc động trước tình thương trời bể, Giakêu đã rũ bỏ hoàn toàn tất cả. Từ một người bóc lột dân nghèo, ông trở thành vị đại ân nhân của họ (x. Lc 19:8). Chỉ tình yêu mới có sức mạnh biến đổi lớn lao như vậy! Nhưng đó chưa phải là kết quả lớn nhất của tình yêu. Kết quả lớn nhất chính là “hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này.” (Lc 19:9) Chúa đã vận dụng mọi cách để cứu con người, dù họ có bị mọi người bỏ rơi và khinh bỉ. Dưới mắt Chúa, không một ai cô đơn.
Mọi người chỉ đánh giá theo hình dáng bên ngoài, nên không thể thấy những biến chuyển bên trong tâm hồn Giakêu. Đây mới là điều đáng kể đối với Chúa. Thực vậy, Giakêu đã trải qua một cuộc sám hối. Điều Chúa Giêsu yêu cầu đã có một tầm ảnh hưởng quá sức lớn đối với ông. Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, muốn hiện diện để chúc lành cho ông. Đáp lại, ông muốn từ bỏ những lợi lộc bất chính và cho đi tất cả. Làm sao quần chúng có thể nghe được những điều ông hứa với Chúa? Những đầu óc hẹp hòi và tầm thường làm sao thấy cuộc biến đổi sâu xa trong cuộc đời ông mà cảm tạ Thiên Chúa? Có chăng chỉ còn những ghen tương và oán hận. Tâm hồn họ không thể rộng mở để đón làn gió canh tân và không hiểu nổi tình trạng tội lỗi của chính mình. Có nhìn vào chính mình, mới thấy mình cũng cần Thiên Chúa xót thương không kém. Nếu giàu có như ông, chắc họ cũng xử sự như ông mà thôi. Họ không thấy một phép lạ nào. Nhưng đối với Giakêu, còn có một cái gì giá trị và mãnh liệt hơn phép lạ, đó là tình yêu.
TÌNH YÊU LÀ TẤT CẢ
Ngay cả phép lạ cũng phải phát xuất từ tình yêu và được nhận ra trong tình yêu. Không tin vào tình yêu Thiên Chúa, dù có chứng kiến cả ngàn phép lạ, con người cũng không nhìn thấy gì. Tình yêu là tất cả. Khi gặp Giakêu, Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người thấy “tình yêu bao hàm và vượt trên công lý. Công lý được hoàn bị trong tình yêu.” (1) Chúng ta có thể thấy rõ điều đó nơi hình ảnh Chúa đang vượt đám đông để đến với Giakêu và gọi đích danh ông. Đó là tiếng gọi tình yêu, khác hẳn với tiếng quần chúng gào thét đòi hỏi công lý.
Càng thét gào đòi hỏi công lý, quần chúng càng làm Giakêu xa rời Thiên Chúa, cộng đoàn và bản thân. Thực vậy, “tình yêu và chỉ tình yêu (gồm cả lòng thương xót) mới có khả năng làm cho con người trở về với chính mình. (2) Quần chúng quá tin vào một thứ công lý nghiêm khắc. Bởi thế, họ mới có lý mà xầm xì với nhau khi Chúa xin trọ tại nhà một người tội lỗi (x. Lc 19:7) Họ không biết rằng “tương quan nhân loại không thể chỉ bị tiêu chuẩn công lý chi phối. Có thể nói, trong mọi lãnh vực tương quan liên vị, công lý phải được tình yêu ‘điều chỉnh’ tới một mức độ đáng kể. Như thánh Phaolô nói, tình yêu đầy ‘kiên nhẫn và khoan dung,’ hay nói khác, những đặc tính của lòng thương xót là yếu tính của Tin Mừng và Kitô giáo.” (3)
Với những đặc tính đó, Chúa đã kéo ông Giakêu từ tình trạng tội lỗi vì bất công sang tình trạng đầy ân sủng và biết chia sẻ với những nạn nhân. Nói khác, lòng thương xót đã giúp ông sửa lại những lỗi lầm quá khứ. Đó là kết quả rất tốt đẹp do công cuộc hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân khi Chúa đến thăm viếng. Hơn nữa, ông còn đươc giải thoát khỏi vòng nô lệ ma lực thần tài để bay bổng trong bầu trời tư do và hưởng ơn cứu độ. Ông tìm lại được sự bình an đã mất từ lâu do những tham vọng ngông cuồng về quyền lực và của cải, vì ông đã gặp gỡ tình yêu Thiên Chúa ngay trong tâm hồn và gia đình mình. Ông đã bước vào cảnh “trời mới đất mới.” (Kh 21:1)
Không gì đứng ngoài hồng ân cứu độ này. Đó là dấu chứng tỏ Chúa đã hoàn thành sứ mạng cách vẻ vang, vì Chúa đã hòa giải con người và thế giơi với Thiên Chúa. (4) Dưới ánh sáng chân lý là chính Đức Kitô, ông đã tự tạo được một phán đoán, làm chủ các hành vi với một ý thức trách nhiệm và cố gắng đạt tới chân lý và công lý khi tình nguyện hợp tác với mọi người. Ông đã tự nguyện đền bù cho các nạn nhân và quảng đại hứa giúp đỡ người nghèo.
Có đi sâu vào lòng người bằng chính tình yêu Thiên Chúa, Đức Giêsu mới có thể vượt trên mọi người và đưa con người Giakêu về nẻo chính đường ngay. Trái lại, nếu nhất quyết đòi công lý cách quyết liệt, quần chúng sẽ mất luôn Giakêu. Trước mắt là không có những món tiền và của cải lớn lao ông Giakêu tình nguyện cúng cho người nghèo. Nhất là, Nước Thiên Chúa sẽ mất đi một người “con tổ phụ Abraham” (Lc 19:9)!
————————-
(1) Gioan Phaolô II, Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới, 10:AAS, 96 (2004), 120, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206.
(2) Gioan Phaolô II, Tông Thư “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót,” 14, AAS 72 (1980), 1223. trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206.
(3) ibid. 1224, trích từ Toát Yếu Giáo Lý Công Giáo về Xã hội, 206.
(4) x. ibid, 455.
Chủ đề của Chúa Nhật 31 thường niên, năm C cho chúng ta thấy lòng nhân từ của Chúa qua việc Đức Giêsu ghé nhà ông Giakêu, một người lùn tịt làm nghề thu thuế nhưng lại rất dễ thương. Tin Mừng nhấn mạnh đến cuộc hoán cải đẹp của Giakêu mà chỉ mình thánh Luca đã thuật lại.
Tin Mừng của thánh Luca chương 19, 1-10 là câu chuyện đẹp, có hậu ngoài sức tưởng tượng của mọi người vì rằng mở đầu chương 19, thánh Luca thuật lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem và cuộc khải hoàn vinh quang của Chúa Giêsu, và các việc Chúa Giêsu làm ở Giêrusalem, là cuộc trở lại, biến đổi rất đẹp của Giakêu.
Việc thân hình Giakêu thấp chủn, lùn tịt xấu bên ngoài và đối với xã hội Do Thái lúc đó Giakêu lại là người tội lỗi bởi vì ông làm thủ lãnh thu thuế ở ngay cửa ngõ vào Giêrusalem, một nghề hái ra tiền, một nghề mà người Do Thái thời Chúa Giêsu cho rằng đó là tội tầy đình, không thể tha thứ. Giakêu thấp bé đến nỗi nghe tin Chúa Giêsu sẽ đi ngang qua đó, ông liền leo lên cây sung trước để mong sẽ được thấy Chúa Giêsu. Giakêu đã bị kết án là tội lỗi.
Tuy nhiên, Chúa có đường của Chúa vì như thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma:” Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kế dõi theo! Vì nào ai biết được tâm tư của Chúa, hay có ai đã làm cố vấn cho Người? Hay có ai đã cho Người trước, để hòng được Người tạ lại! Vì mọi sự đều do Người, nhờ Người, và vì Người! Vinh quang cho Người, cho đến muôn đời. Amen! “ ( Rm 11, 33-36 ).
Chúa đã quyết định ghé nhà ông Giakêu khi ông chưa kịp ngỏ ý với Chúa Giêsu. Quả thực, Chúa đã làm một cuộc lội ngược dòng thật ngoạn mục. Chúa Giêsu đã bất chấp mọi sự vì tấm lòng đầy yêu thương của Ngài đối với tội nhân. Chúa Giêsu đã bất chấp tất cả để chỉ mong cứu được một linh hồn. Câu chuyện kết thức thật đẹp, một sự hòa hợp đất trời, giữa một kẻ bị gán là tội lỗi với một Đấng cứu độ đầy nhân từ, yêu thương, Ngài tới để tìm người hư mất và được ông ta đón nhận với tất cả lòng thiện chí của mình.
Hôm nay, chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã đưa Giakêu đến một khúc ngoặt thật bất ngờ. Chúa đã biến đổi hoàn toàn đời ông và cả gia đình vợ con của ông Giakêu. Vâng, Chúa đã đụng tới chỗ nhạy cảm nhất của Giakêu đó là tiền bạc, tài sản của ông. Của cải, tiền bạc đã đánh mất giá trị đời ông và ông đã bị ghép vào hạng tội lỗi. Tuy nhiên, hôm nay và giờ này trước mặt Chúa: Giakêu đã trả lại cho những người ông cho là bị ông làm thiệt hại. Ông đã phân phát tiền bạc cho những kẻ khó nghèo. Nhờ cho đi, ông đã tự cứu thoát ông. Giakêu đã nhận ra tất cả, ông cảm thấy niềm vui và ông được giải thoát, được cứu độ.
Việc hoán cải của Giakêu đã làm cho ông được nhẹ nhõm vui mừng. Thiên Chúa là Cha tình thương luôn đi tìm những gì đã hư mất. Ngài như nguồi Cha đi tìm con chiên lạc, như người cha nhân hiền giang tay rộng đón đứa con hoang trở về. Chúa luôn luôn chờ đón con người trở về với Người. Cuộc hoán cải của Giakêu giúp chúng ta hiểu rõ hình bóng của Giakêu cũng là hình bóng của mỗi người chúng ta khi chúng ta biết trở về, biết thống hối ăn năn, biết bám chặt lấy Chúa và luôn biết tin vào tình thương vô biên của Chúa.
Chính vì thế, chúng ta luôn tin tưởng rằng mỗi lần chúng ta phạm tội mà biết ăn năn sám hối chắc chắn Chúa sẽ nhận lời chúng ta và tha thứ tội lỗi cho chúng ta. Chúa là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Chúa xét xử con người theo lẽ công minh. Thiên Chúa là Cha nhân từ chứ không không phải là Vị Thẩm phán khó tính và khắt khe. Chúng ta hãy gặp gỡ Đức Kitô,. Sự hiện diện của Ngài là một hồng ân lớn lao cho chúng ta. Mỗi lần gặp gỡ Chúa là chúng ta đều nhận được niềm vui.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra lòng từ bi nhân hậu của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Luca 19, 1-10 trong Chúa Nhật 31 thường niên, năm C, chúng ta hết sức bỡ ngỡ và ngạc nhiên. Bởi vì, Giakêu leo lên một cây sung để có thể nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua nơi đó; Chúa Giêsu còn đang ở xa đã ngước mắt nhìn lên Giakêu. Đám đông hiện diện hôm đó đang hết xức xôn xao, xì xào vì những điều đang xẩy ra… Câu chuyện ông Giakêu cho chúng ta hiểu gì?
Ông Giakêu là một người bị khinh dể ở Giêrichô vì Ông làm nghề thu thuế, và hơn nữa Ông còn làm trưởng của những người thu thuế. Giakêu bị khinh thường vì Ông lợi dụng nghề thu thuế để thu những khoản thuế bất chính, lạm thu. Do đó, Ông Giakêu bị liệt kê vào hạng tội lỗi nặng, bị loại trừ và không được xã hội chấp nhận, bị khinh khi, miệt thị. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại nhìn khác, Ngài nhìn với con tim nhân hậu, với cái nhìn khoan dung, độ lượng. Ngài hiểu cõi lòng thâm sâu của Ông Giakêu. Giakêu chạy trước, leo lên một cây sung, Chúa Giêsu nói với Ông: “Hãy xuống mau” (Lc 19,5 ). Ông Giakêu vội vàng leo xuống trong tư thế ngạc nhiên, hơi bối rối, Ông vẫn còn mệt, còn thở vì leo lên cây sung mà. Nhưng Ông đã bất thình lình thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, nầy đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” ( Lc 19, 8 ).
Chúa Giêsu đã nói: “Hôm nay ơn cứu rỗi đã đến cho nhà này, bởi chưng người này cũng là con cái của Abraham” (Lc 19,9). Ngày hôm nay của Chúa đã đến với một người, một gia đình mà người ta cho là tội lỗi. Nhưng Chúa lại rất khác: “… Con Người đã đến để tìm cứu sự đã hư đi” (Lc 19,10).
Chúng ta vẫn cảm thấy như có một cái gì thật chua xót, thật lạc điệu, một cái gì đó khựng lại. Đám đông thấy vậy thì lẩm bẩm, xầm xì “ Ông này trọ tại nhà một người tội lỗi”. Đó là sự chua xót của thế gian vì người đời chỉ nhìn bề ngoài nhưng không nhìn thấu suốt tâm hồn con người. Đám đông chỉ nhìn hời hợt bên ngoài. Đám đông không thể thấy con tim của Ông Giakêu, cũng như họ không thấy được con tim nhân hậu của Chúa Giêsu. Một đám đông dân chúng đang xếp hạng Giakêu là người tội lỗi, còn Chúa Giêsu chỉ là một vị ngôn sứ… Họ chưa nhìn ra cõi lòng nhân hiền của Chúa Giêsu. Ông Giakêu trong thâm tâm chỉ dám ước ao nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu lại cho Ông một đặc ân hết sức lớn lao, một hồng ân vô biên, bất ngờ là cho Ông và cả gia đình của Ông được ơn cứu độ. Ông Giakêu đã một lần được nghe nói Chúa đã chữa lành, làm sáng đôi mắt cho anh mù Bactimê, nên Ông Giakêu muốn được thấy Chúa, nhưng không ngờ Chúa lại chữa lành đôi mắt tâm hồn của Ông Giakêu.
Ông Giakêu đã bừng sáng, Ông đã nhìn thấy Chúa Giêsu không chỉ là một con người bình thường Ông muốn thấy, nhưng Ông đã thấy chính Đấng cứu độ, đã ban ơn giải thoát tội khiên cho Ông và cả gia đình: vợ, con của Ông. Ông Giakêu đã nhìn thấy Đấng đầy lòng thương xót, Đấng hiền lành, khiêm nhường. Ông đã không chỉ nhìn thấy và ham mê của cải tiền bạc, nhưng Ông đã hiểu được thế nào là chia sẻ, thế nào là trao ban, thế nào là sống tinh thần khó nghèo vì thế Ông đã hứa phân chia gia tài và đền thiệt hại cho những kẻ Ông đã làm họ thiệt hại như Ông đã thưa với Chúa Giêsu…
Sau khi đã toại nguyện với những cam kết của mình với Đấng Cứu Thế Giêsu, Ông Giakêu đã vui mừng, hân hoan ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa. Ông Giakêu chắc chắn không còn giầu có như xưa, nhưng Ông sẽ hạnh phúc gấp bội. Ông Giakêu chắc chắn không cao thêm được một gang tấc nào, nhưng tâm hồn Ông trở nên cao thương hơn xưa…Chúa đã thương xót Giakêu, Ông đã hoán cải. Giakêu đã bỏ nếp sống cũ, nếp sống tội lỗi để mặc lấy Chúa Kitô, và bước đi trên con đường lương thiện.
Câu chuyện của Ông Giakêu đã nói lên một thực tại của lòng tin: để đón nhận ơn cao cả của Chúa, người ta phải khao khát thực lòng và muốn đón nhận với lòng biết ơn và sau đó, đích thân đến tìm gặp Chúa với lòng tin thâm sâu.
Một điều chúng ta cảm nghiệm sâu xa và xác tín thâm sâu là dù chúng ta ở đâu, dù chúng ta thế nào đi nữa, Chúa vẫn thương yêu chúng ta, Chúa vẫn tìm kiếm chúng ta, vẫn chờ đợi chúng ta và muốn sống gắn bó thân mật với chúng ta và muốn ban ơn cứu độ cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta luôn phải mau mắn, chóng vánh đón tiếp Chúa với tất cả lòng tin của chúng ta và sống sao cho xứng với Tin Mừng và ơn huệ Thiên Chúa trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết mau mắn quay trở về để qua Bí tích hòa giải chúng con được Chúa tha thứ. Amen.
CHÚNG TA ĐÃ THỰC HIỆN NHỮNG GÌ ĐỂ NHẬN LÃNH LỜI CHÚA?
Bài Phúc Âm Luca đoạn 19, câu 1 đến câu 10 dùng dụ ngôn ông Gia Kêu vì thân người bé nhỏ đành leo lên cây sung để có thể chiêm ngưỡng Chúa Giê su và được Ngài ghé qua dự tiệc nơi nhà ông. Bài Phúc Âm kết luận với câu nói, “Người nầy cũng là con cái Abraham. Vì chưng, Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc. 19: 10).
Thử xét vị thế của ông Gia Kêu nơi xã hội Do Thái thời hai ngàn năm trước. Ông là người mang nhiệm vụ thâu thuế cho chính quyền La Mã nên bị coi là kẻ hợp tác với ngoại bang đàn áp dân chúng nên bị coi là kẻ tội lỗi theo quan niệm thời bấy giờ. Tất nhiên, so với dân Do Thái, dẫu bị coi là kẻ tội lỗi nhưng có quyền hành, và dĩ nhiên thời nào chẳng thế, quyền lực, tiền tài luôn luôn sánh đôi nơi bất cứ triều đại nào nhất là trong một xã hội bị trị.
Tuy nhiên, bởi nghe nói về Chúa Giê su, ông muốn nhận biết con người của Ngài ra sao nhưng vì thân xác thấp bé nên đành chấp nhận trèo lên cây để được nhìn thấy cho rõ ràng. Có thể nói, chính vì lòng thực sự hay chân thành hiếu kỳ nên đã được Chúa Giê su ghé qua nhà. Giả sử ông Gia Kêu dù háo hức muốn nhận biết Chúa Giê su nhưng vì cảm thấy với thân xác bé nhỏ không thể chen lấn hoặc nhìn thấy Ngài khi đứng cách xa nơi Ngài đi qua thì đâu có cơ hội được diện kiến Ngài.
Mỗi người chúng ta được sinh ra với lòng khát khao nhận biết Thiên Chúa. Nói cách khác, ai cũng mang nỗi khắc khoải muốn nhận biết về thực thể chính mình, tự đâu mình được sinh ra dưới thân phận kiếp người; mục đích cuộc đời của mình là gì; và sau khi thân xác qua đi, cuộc đời mình sẽ ra sao. Thử dành đôi phút chân thành đối diện với lòng, mình đã thực hiện, đã làm gì để thoả mãn lòng khát vọng bẩm sinh đã bao năm thao thức.
Chúng ta tin, tuyên xưng Lời Chúa là lời hằng sống. Chúng ta tin, không những thế, chân thành chấp nhận Chúa Giê su là đường, là sự thật, và là sự sống. Thử hỏi, chúng ta đã có thái độ nào đối với đường lối Chúa Giê su đã chỉ dẫn. Chúng ta đã làm gì với sự thật Chúa Giê su đem đến cho chúng ta. Sự sống Chúa Giê su rao giảng là gì, có ảnh hưởng hoặc liên hệ gì đến cuộc sống nhân sinh trong những ngày hiện diện nơi trần thế này.
Điều hiển nhiên ai cũng kinh nghiệm, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho bất cứ ai thì tất nhiên cũng không ai có thể suy nghĩ, nghiệm chứng, thực chứng dùm cho bất cứ ai. Hơn nữa, có những điều, sự vật, môi trường tốt, may mắn cho người này nhiều khi trở thành tai hại hay bất hạnh cho người khác. Như vậy, không ai có thể nghiệm chứng, suy tư Lời Chúa, Phúc Âm dùm cho bất cứ ai.
Thế nên, chúng ta cần tự hỏi đã được bao nhiêu phút trong một ngày mình thực sự suy tư, đặt vấn đề để tìm hiểu lời giảng dạy của Chúa Giê su, hay chỉ có thói quen chờ người khác suy nghĩ và giải thích. Sự thật hiển nhiên, trong khi đói, dẫu nghe ai đó giải thích về giá trị của thực phẩm nào đó dẫu tuyệt vời đến mấy, đói vẫn hoàn đói. Chúng ta phải ăn. Sự giải thích về Lời Chúa thuộc về kiến thức chẳng khác chi giải thích món ăn. Suy nghiệm, nghiệm chứng và áp dụng nơi cuộc đời mình mới bổ ích cho hành trình đức tin, hành trình tâm linh.
Phúc Âm có câu, “Trong có tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Gn. 6:45). Nghe và học nơi Cha có nghĩa suy nghiệm, suy tư, nghiệm chứng về thực thể hiện hữu của mình. Mình là gì; mình là ai; những sự việc đã xảy đến nơi cuộc đời tự đâu phát sinh và có ảnh hưởng cũng như mình đã học được bài học nào.
Ông Gia Kêu vì thân hình bé nhỏ thực hiện việc leo lên cây để được nhìn thấy Chúa Giê su. Chúng ta đã dành được mấy phút trong một ngày để suy nghiệm về lời giảng dạy của Chúa Giê su qua Phúc Âm hay chỉ đợi người khác giải thích, nghiệm dùm, ăn dùm.
“Lạy Chúa trước thánh nhan Ngài, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai trên đất. Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kng 11,22-23)
Đó là thông điệp tác giả sách Khôn Ngoan gửi đến cho con cái Israel ở Ai Cập khi họ sinh lòng thù ghét những tay sai của đế quốc thống trị, đến nỗi họ muốn Thiên Chúa trừng phạt, tru diệt bọn chúng ngay tức khắc.
Vâng, Thiên Chúa không xử trí với con người tội lỗi theo cách của con người, đúng như thông điệp sách Khôn ngoan đã dạy. Không chỉ trong thời Dân Thiên Chúa lưu đày, mà ngay hôm nay, người gian ác, kẻ tội lỗi, người hô to đã đảo Thiên Chúa, cấm cách bức bách đạo Chúa…. vẫn sống nghênh ngang, vẫn thói vênh vang, vẫn tự do trên đường “thênh thang ta bước” ngông cuồng đi về phía phủ nhận Thiên Chúa, phủ nhận cả công trình tình thương của Ngài. Có người nói: “Sống chung với lũ”, còn dễ sống hơn “sống chung với lũ”. Lòng thù của con người thời nào cũng thế, có thể nói đến mức quá độ, khi nỗi áp bức của “lũ tay sai cho giai cấp thống trị”, “cho satan”, hoành hành ngang ngược. Nhưng, đối với “Thiên Chúa đầy lòng yêu thương, thì Ngài vẫn yêu thương mọi loài hiện hữu. Vì giả như Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên” (Kng 11,24). “Chúa sửa dạy từ từ. Ngài cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (Kng 12, 2).
Khác với con người, Thiên Chúa không có lòng thù. Thiên Chúa chỉ có lòng thương. Đức Giêsu Kitô đã đến và mặc khải tình thương bao la ấy. Trang Tin Mừng hôm nay chứng minh cho điểm nầy. Dưới con mắt thế gian, thì Giakêu, tên trưởng ty thuế vụ, cũng chẳng khác gì mấy tên tay sai cho ngoại bang, cho giai cấp thống trị thời Ai cập. Giàu có mua được chức trưởng ty, rồi thu quén của dân bù khoản chi ấy. Cuối cùng, nhân dân là người gánh chịu. Bị một tên vừa lùn vừa bé, vừa đè đầu cưỡi cổ, vừa móc túi lấy tiền, làm sao mà người dân không hậm hực tức tối. Cách sống đó không chỉ là tội lỗi mà còn là tội ác. Thế mà, “Chúa nhắm mắt làm ngơ”, “Chúa đã sửa dạy từ từ” cách nào đó. Chúa đã “cảnh cáo” cách nào đó” để cho ông ta biết ông ta “đã phạm tội gì” để rồi hôm nay “ông đã bỏ điều ác mà tin vào Chúa” (xem Kng 11,24).
Quả vậy, khi nghe tin Đức Giêsu đi ngang qua Giêricô, ông tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Sự khao khát tìm gặp Đức Giêsu, đã phát sinh trong ông cái sáng kiến “leo lên cây sung” cho dễ nhìn. Ông đã bất ngờ, vì khi chưa kịp lên tiếng gì, thì Chúa Giêsu đã ngước nhìn lên và bảo “Giakêu, ông xuống đi, vì hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông”. Chúa Giêsu cũng đã có một sáng kiến bất ngờ: “hôm nay tôi sẽ ở lại nhà ông”, một sáng kiến ngoài kế hoạch trên đường về Giêrusalem- một sáng kiến đảo lộn cái ý nghĩ thấp bé của loài người: “Nhà người này tội lỗi, mà ông ấy cũng ghé thăm” (Lc, 19,7). Hai sáng kiến của lòng khao khát nơi “con người bị cho là tội ác tày trời”, và của tình thương “Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi”đã gặp nhau, và trổ sinh một cuộc đổi đời kỳ diệu. Sự biến đổi thâm sâu trong cõi lòng “tên Gia kêu gian ác”, đã khiến ông thốt lên lời quyết tâm: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Cuộc sống mới mở ra, trước tiên là lấp lại cho đầy cái hố sâu bất công, tham nhũng, cùng với việc biết bỏ đi cái lòng ích kỷ nhỏ nhoi để nghĩ đến những người nghèo do chính tội tham nhũng của mình gây nên.
Thiết nghĩ, trước đó, ông Giakêu đại diện cho những con người chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, ánh sáng của Tin mừng. Ông đã sống và làm việc theo cách suy nghĩ rất con người tự nhiên trong cuộc chạy đua của danh vọng và sinh tồn. Sự gian ác của ông như là một quy luật tất yếu trong cuộc vật lộn với cuộc sống “mạnh được yếu thua”. Suy nghĩ ông chỉ có thế, thấp bé và ngắn ngủn như vóc dáng ông lùn tịt. Nhưng khi gặp được Đức Kitô, ông bỗng thay đổi thành một con người mới, con người của Tin Mừng, con người được ơn cứu độ. Chúa Giêsu nói: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà nầy, bởi người nầy cũng là con cháu của tổ phụ A-bra-ham” (Lc 19 9). Câu nói nầy minh chứng cho Lời Thiên Chúa trong sách Khôn ngoan: “ Chúa không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra” (Kng 11,24), và Ngài đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu “đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19,10).. Chúa Giêsu đã tái lập cho ông một tương quan với Thiên Chúa và ông đã thể hiện sự công bằng theo lề luật Chúa- điều kiện ắt có và đủ để ông bắt đầu một cuộc làm chứng về Thiên Chúa và vào được Nước của Ngài
Vẫn còn trong tôi, trong bạn, trong thế giới loài người chúng ta, những suy nghĩ ngắn ngủn thấp bé và cách sống của con người cũ, con người gian ác tự nhiên trong cuộc sinh tồn như Gia kêu. Và luôn còn một Thiên Chúa kiên nhẫn đợi chờ con người tiếp nhận ánh sáng của cuộc sống mới nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Tin mừng. Tiếc là đã có người nhìn thấy ánh sáng, nghe biết Tin Mừng, nhưng không tiếp nhận vì không muốn chia tay với chủ thuyết không Thiên Chúa, chưa khao khát một lối tìm về, lại muốn giữ cách sống cũ của con người cũ để được những lợi lộc của trần gian. Thiên Chúa yêu thương đã kiên trì cảnh cáo, giáo dục bằng nhiều cách. Đã có người bỗng dưng thuộc lòng tiểu sử các Thánh Tử đạo Việt Nam dịp phong thánh 19-6-1988, có cơ hội tiếp cận với Thiên Chúa, với những chứng nhân Đức Kitô, nhưng rồi sức cuốn hút của đồng tiền, quyền lực và sự thoải mái thế gian mà Satan ban tặng vẫn làm mờ mắt họ, và họ chưa tiếp nhận ánh sáng. Đã không ít cơ hội dành cho họ, đã không ít nỗ lực của những chứng nhân Chúa Kitô trong một bối cảnh chấp nhận cách kiên trì, nhưng vẫn chưa thấy nhiều tín hiệu của “Gia kêu mới”. Vì thế, cơn giận loài người của con cái Chúa đôi lúc không kiềm hãm nỗi, có khi còn buồn trách Chúa sao cứ để cho sự dữ hoành hành, cho người gian ác vẫn vênh váo trong khi vẫn phạm hết tội ác nầy đến tội ác khác trầm trọng hơn…
Bài học của Tin mừng hôm nay không cho phép tôi tiếp tục dòng suy tư theo kiểu loài người cũ rích như thế. Ý hướng của Thiên Chúa về cuộc đấu tranh cho Nước Trời là cuộc sống Chứng Nhân Chúa Kitô cách cụ thể qua đời sống công chính, đời sống mới của Tin Mừng. Không nhất thiết phải phóng loa la lên ầm ỉ để những người gian ác nghe được, nhưng là thể hiện khuôn mặt và tính cách của Đức Kitô mà họ phải nhìn thấy, nếu họ chưa muốn “leo lên cây sung của Gia kêu với thành ý kiếm tìm”.
Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi tội nhân, trong đó trước tiên là tôi, là bạn, hãy khoan nghĩ đến ai khác. Và khi chính chúng ta, đổi đời thành những “Gia kêu mới”, thì cách sống của chúng ta sẽ thu ngắn thời gian chờ đợi, tìm kiếm của Thiên Chúa trong công cuộc cứu chữa những gì đã hư mất. Nhạc Sĩ Phạm Duy cũng đã ngộ ra: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác, tên nó là vô lương….”. Hãy giết kẻ thù ta trong chính con người ta trước đã, và mặc lấy sự công chính của Chúa Kitô, làm cánh tay, làm chứng nhân nối dài cho ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Tác động qua lại của việc làm chứng cho Thiên Chúa tương tự xảy ra giữa Chúa Giêsu và Giakêu sẽ xảy ra với chúng ta, như Thánh Phaolô quả quyết: “ Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô” (2Th. 1,12).
Lạy Chúa, Chúa luôn kiên nhẫn đợi chờ người tội lỗi trở về, và ban ơn canh tân trong lòng họ. Xin cho chúng con biết mình tội lỗi, biết tìm về với Chúa, và được Chúa biến đổi thành con người mới, chứng nhân cho công trình cứu rỗi của Thiên Chúa, qua Chúa Kitô. Amen.
Mỗi khi người bán địa ốc muốn quảng cáo để bán nhà, họ thường chú trọng 3 điều này: địa điểm, vị trí và hướng tốt. Ông Dakêu là một người giàu có nhà cửa. Thánh Luca nói rằng ông ta là người chỉ huy những người thu thuế ở thành phố Jericho.Thành phố đó tọa lạc tại địa điểm của một nơi buôn bán sầm uất nên rất giầu có. Do vậy ở đó có thể thu rất nhiều thuế cho đế quốc La Mã, và là nơi có nhiều người thu thuế sinh sống. Thành phố đó cũng là nơi người giầu có thường đến nghỉ mát. Vua Hérod cũng có một dinh thự xây dựng ở đó. Dinh thự có nhiều vườn hoa và một rạp hát. Ở đất Palestine là nơi nhiều sa mạc, không có cây cối. Nhưng Jericho là một thành phố có nhiều cây cối và hoa quả. Nhiều người giàu có sinh sống ở đó, và ông Dakêu là một trong số những người giầu ở đó. Dân Do Thái không ưa những người thu thuế cho người La Mã. “địa điểm, vị trí và hướng tốt” Jericho là địa điểm giúp Dakêu làm ra nhiều tiền.
Hôm nay chúng ta gần đến cuối năm phụng vụ, và phúc âm thánh Luca đã được đọc trong những chúa nhật năm C. Những bài phúc âm chúng ta đã nghe Chúa đã chỉ trích người giàu, và Chúa đã cho họ biết họ sẽ gặp khó khăn để vào nước trời.. Ngay trong đoạn trước bài phúc âm Chúa khuyên người giầu: “Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao! Quả vậy con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”(18:24-25).
Ông Dakêu chọn một địa điểm tốt để được thấy Chúa và để được Ngài thấy ông, ông ta tìm một vị trí tốt là trèo lên cây sung. Chúng ta đã nghe chuyện này nhiều lần rồi. Nhưng hôm nay chúng ta không nên bỏ qua những điểm đặc biệt trong chuyện vì Chúa trong trường hợp này không theo lẽ thường mà phúc âm được trình bày. Sau khi được nghe Chúa chê bai chỉ trích những người giầu có, chúng ta nghỉ nếu Chúa thấy ông Dakêu chắc Chúa không ngần ngại chỉ trích ông ta và dùng ông ta làm thí dụ điển hình người tội lỗi cần phải ăn năn. Đáng lý ông Dakêu phải được báo trước là Chúa chẳng ưa thích gì ông ta đâu.
Chúa có lẽ cũng sẽ giảng dạy về những bất công của người giàu bóc lột người nghèo. Đây là điều có lẽ chúng ta nghỉ như vậy. Và có lẽ đám đông quần chúng theo Chúa cũng nghỉ như vậy, vì phần đông họ là những nạn nhân của ông Dakêu. Nhưng Chúa lại không làm như chúng ta nghĩ. Chúa đã không theo lẽ thường, và Ngài đã cho thấy Ngài nghỉ như thế nào. Chúa chào đón ông ta và ban ơn Ngài cho ông ta như Chúa đang ban ơn Ngài cho chúng ta hôm nay.
Ngày hôm đó trên đường Chúa đi chắc có nhiều người nhận được ơn Chúa ban. Có lẽ chúng ta cũng thuộc về những người ấy. Đó là những người tốt, làm ăn trung thực và thiếu thốn, họ muốn tìm một chổ để trông thấy một thầy rao giảng nỗi tiếng mà biết bao nhiêu người hy vọng được nhận diện. Tại sao Chúa lại không chọn một trong những người ấy để đến nhà một người đạo đức được kính nễ trong dân chúng? Sao lại đến nhà ông Dakêu? Nếu hôm đó chúng ta có ở đó và khi nghe Chúa nói với Dakêu, chắc chúng ta cũng không khỏi phiền trách. Ông Dakêu đã làm gì? có chăng chỉ là việc tìm một địa điểm tốt để trông thấy Chúa, để được Chúa nhận ra ông và tự nghỉ Chúa sẽ đến nhà ông? Chúng ta nên nhớ đây là một chuyện về ơn Chúa, và chúng ta không đáng được ơn Chúa. Chúa ban ơn Ngài cho chúng ta sau khi chúng ta trông mong được bám vào ơn Chúa và vui mừng đón nhận ơn Chúa như ông Dakêu đã làm.
Một trong những đề tài chính của phúc âm thánh Luca là sự hoan hỉ vui mừng. Chúng ta đang sửa soạn kết thúc năm phụng vụ sau khi đã đọc hết phúc âm thánh Luca, và sự hoan hỉ đã được ban cho chúng ta ngay từ đầu phúc âm thánh Luca. Ơn Chúa đến là khi Chúa ban cho ai điều gì và người đó cảm nhận đón chào ơn sũng trong đời họ bằng một thái độ vui mừng. Chúng ta còn nhớ sự vui mừng của các mục đồng khi nghe thiên thần báo tin Chúa sinh ra (2:10), hay khi Chúa nói với những người đang lắng nghe Chúa “các con hãy nghe và đón nhận những lời ta dạy”(8:13). Sau nầy khi Chúa sống lại, Ngài hiện ra với 11 tông đồ, thánh Luca viết:”… vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng”(24:41). Sự vui mừng hoan hỷ xảy đến mỗi khi chúng ta nghe lời Chúa. Đó chính là sự vui mừng của ông Dakêu ngay khi nghe Chúa muốn đến nhà ông ta để dùng bữa. Đó là sự vui mừng của những người được ân sũng mà cảm thấy bất xứng.
Chúa đang mời chúng ta đến đón nhận tình thương yêu của Chúa. Có lẽ ông Dakêu dã phạm nhiều lỗi và không đáng được những người đi theo Chúa ngày hôm đó chú ý đến để cho ông ta được trông thấy Chúa. Dụ ngôn trước nói về Chúa chữa người mù. Người đó đã thưa với Chúa:”Lay Ngài xin cho tôi được thấy.”(18:35-43). Chúa chữa ông ta ngay ở ngoại thành Jericho. Bây giờ Ngài đã vào trong thành phố. Ông Dakêu được thấy một cảnh khác là thấy Chúa có vẽ như muốn tìm thấy ông ta, vì ông không biết Chúa đang đi ở đâu. Chúa cho biết Ngài ban ơn cho một người bất xứng:”Vì Con Người đến để tìm và cứu những kẻ đã hư mất.”(19:10)
Đoàn người theo Chúa ngạc nhiên không phải vì cử chỉ của ông Dakêu, vì ông đã leo lên cây, Thật ra họ bàng hoàng vì Chúa. Họ nghĩ đáng lẽ Chúa phải biết rõ ông đó là ai chứ. Sao một người giảng đạo tốt lành như vậy lại đến ở nhà một người tội lỗi? Câu chuyện này dường như nhắc lại chuyện người Phariseu cầu nguyện trong đền thờ trong bài phúc âm chúa nhật tuần trước. Người này không nghỉ mình là người tội lỗi, và bởi thế nghỉ rằng mình không cần gặp đấng đang đi tìm kiếm những người đã bỊi hư mất.
Nhưng ông Dakêu hiểu điều đó và đón nhận ơn Chúa. ông ta sẽ dọn bữa ăn ở nhà ông để đón Chúa. Và ơn đó đã làm cho ông thay đổi. Chúa không đòi hỏi ông phải làm điều gì. Nhưng ông ta tự dêng một nữa của cải của mình cho người nghèo và đền lại cho những ai mà ông đã cưỡng doạt, “ trả đến gấp bốn lần …” Ơn Chúa đã thay đổi đời sống ông ta. Bây giờ ông đã thấy nhưng đoàn người theo Chúa vẫn không thấy, họ vẫn còn mù, họ không thấy ơn Thiên Chúa ban cho họ qua Chúa Giêsu. Đời sống của ông Da-keu là một đời sóng an nhàn, nhiều tiện nghi. Nhưng ông ta cũng là một người bị giam cầm, ông ta cần được giải phóng, và lời Chúa đã giải phóng ông ta. Từ nay ông ta không còn sống như trước và bắt đầu một đời sống mới. Bây giờ ông ta có Chúa đến nhà và không những đến với ông ta, mà còn đến với tất cả gia đình ông. Chúng ta không buộc ai vào nhà chúng ta được. Chúng ta ai cũng có thể thay đổi đời sống vì Chúa luôn mời gọi chúng ta thay đổi. Chúa luôn tìm kiếm chúng ta, kêu gọi mỗi người trong chúng ta và luôn mong muốn đến ngủ trong nhà chúng ta.
Trong câu chuyện hôm nay, thánh Luca dùng hình ảnh Da Kiêu để giúp chúng ta hiểu về mình. Ông Dakêu là người lùn. Có lẽ đối với mọi người có phần thấp bé, không đạt tiêu chuẩn bình thường. Có lẽ chúng ta cũng thế: không mấy rộng rải; chúng ta không có lòng bao dung thông cảm, không giàu lòng tha thứ. Hôm nay chúng ta đến nhà thờ như chúng ta leo lên cây sung, hy vọng sẽ nhìn thấy được Chúa như ông Dakêu. Nghe lời Chúa giúp chúng ta nhìn thấy mình rõ hơn và nghe được ước vọng của Chúa là muốn đến ở với chúng ta và làm chúng ta thay đổi và trở nên hoan hỉ vì chúng ta đã nghe và đón nhận được tin mừng.
Nói cách khác,là chúng ta hy vọng, không những chỉ để nhìn thấy Chúa Giêsu, mà còn trông mong chú mục vào Ngài. Điều chúng ta hy vọng sẽ xãy ra tại nhà thờ ngày hôm nay. Đây là cây cao mà chúng ta đến để leo lên, và Chúa sẽ nhìn thấy chúng ta, gọi tên chúng ta và nói là Ngài muốn đến ngự trong lòng chúng ta. Đó là điều mà ông Da-keu và gia đình đã được Chúa ban tặng một cách nhưng không khi Chúa ngồi vào bàn ăn với họ.
Trở nên một Kitô hữu không hẵn là một chuyện cá nhân. Chúng ta không thể cứ ngồi trên cây cao để nghe lời Chúa, và nhìn đoàn người đi với Ngài. Chúng ta không thể dấu được đức tin của chúng ta. Nhà thờ là nơi chúng ta gặp Chúa. Ông Dakêu đưa Chúa về nhà với gia đình, ở đó cả gia đình ông ta được hưởng ơn Chúa vì họ được gặp Chúa Giêsu. Ông Dakêu không phải được gọi để trở thành một tu sĩ ẩn mình trên cây cao. Ông có gia đình như một thường dân, ông sống với xã hội với lời mời gọi của Chúa là ông sẽ giử lời đã hứa với Chúa:”Thưa Ngài này đây phân nữa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Người bán địa ốc nói đúng “ địa điểm, vị trí và hướng tốt.”. Chuyện ông Dakêu cho biết địa điểm quan trọng nhất cho ngôi nhà chúng ta là gặp được Chúa Kitô. Rồi Chúa sẽ nói riêng với chúng ta và ban ơn Ngài cho chúng ta.Nhờ thế chúng ta sẽ đáp lại Chúa bằng sự thay đổi đời sống chúng ta. Nhưng chúng ta không cứ ngồi ở địa điểm đó. Chúng ta sẽ đi đến những địa điẻm khác, vì chúng ta đã được ơn thánh Chúa thay đổi. Và với lòng đầy hoan hỉ và quyết chí thay đổi đời sống chúng ta ở bất kỳ địa điểm nào: tại nhà, nơi làm việc, ở trường học và lẽ cố nhiên là trong xã hội toàn cầu.
Chuyển ngữ Fx Trọng Yên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc câu chuyện ông Gia kêu có lẽ ai cũng phải nực cười xen lẫn cảm động. Cái nực cười thứ nhất là Gia kêu thấp bé, vóc người không giống ai. Cái nực cười thứ hai, ông Gia kêu làm trưởng ban thu thuế thời Chúa Giêsu. Gia kêu lúc nào xem ra cũng rổn rẻng với tiền bạc, với việc làm giầu vv…Con người bề ngoài khác thường về vóc dáng, nhưng thực tế lại là một con người đầy lòng nhân từ, biết sám hối, biết hối cải. Chúa Nhật 31 thường niên cho chúng ta một cái nhìn rất thực tế, đầy an ủi về lòng nhân từ bao la của Chúa:” Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống: Trước Thanh Nhan, ôi vui sướng tràn trề “( Tv 15, 11 ).
Gia kêu nếu xét theo một nghĩa nào đó thực là một người đáng ghét, đáng khinh vì ông làm việc cho đế quốc Roma, làm nghề thuế vụ, làm trưởng ban thuế, làm cái nghề tiếp tay với ngọai bang bóc lột dân chúng. Gia kêu giầu có, có quyền lực vì ông làm việc cho đế quốc Roma. Dân Do Thái không ưa ông, ghét ông, xếp ông vào hàng tội lỗi và đặt ông ngang hàng với bọn điếm đàng. Đối với dân Do Thái, ông không thể ăn năn, không thể hối cải. Ông đáng sa vào hỏa ngục lửa thiêu. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại chọn nhà ông Gia kêu để ghé thăm nhà ông. Gia kêu chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu đi ngang chứ làm sao dám mời Chúa Giêsu ghé thăm nhà ông được. Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ được. Chúa đã chọn nhà ông Gia kêu. Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người được Thánh Thần hướng dẫn khi thấy ông Gia kêu giữa đám đông. Chúa Giêsu minh chứng Người đã tới Giê-ri-khô để cứu một người giầu có.Tuy nhiên, người Do Thái vẫn dị nghị, vẫn hiểu lầm Chúa và hiểu lầm cả ông Gia kêu. Họ cho rằng “ Chúa lại vào ở nhà người tội lỗi “. Nhưng thực ra Chúa Giêsu hiểu mọi người và hiểu ông Gia kêu. Chúa đến nhà của Gia kêu không phải vì miếng ăn, vì bữa tiệc, vì chén rượu, chén trà, nhưng vì ơn cứu rỗi của ông và của gia quyến ông. Dịp này, ông Gia kêu và cả gia đình ông đã công khai thú tội trước mặt Chúa Giêsu và trước mặt mọi người dự tiệc, và hứa “ xin bán đi nửa gia tài, phân chia cho kẻ nghèo khó, và đền trả một gấp bốn cho những ai ông gây thiệt hại”( Lc 19, 8 ). Chúa Giêsu đã nói về ông:” Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19, 9 ).
Tự sức con người, con người không thể làm lành, nhưng Thiên Chúa có thể làm được tất cả. Chúng ta hãy đọc các đọan Tin Mừng như:” Con chiên lạc. Đồng bạc đánh mất. Người con hoang đàng. Người phụ nữ ngọai tình vv…” để thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa như thế nào. Con người phản nghịch, con người tội lỗi nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Thiên Chúa yêu con người và không muốn để bất cứ ai bị hư mất. Ông Gia kêu dư biết thiên hạ ganh ghét ông và thèm được như ông. Gia kêu đâu có phải là người xấu bụng dù rằng ông đã nhúng tay vào việc thật xấu xa, nhưng trong cõi lòng sâu kín của ông vẫn còn chứa chất điều thiện, ông thầm tin tưởng và cám ơn Chúa Giêsu mà ông coi như một vị ngôn sứ lớn. Ông tha thiết muốn gặp gỡ Chúa Giêsu, do đó ông và cả gia đình ông đã được ơn cứu độ. Chúa đã giải thoát cho ông và gia đình ông khỏi tội lỗi, khỏi hư đi. Ân huệ cao vời Chúa ban cho ông khiến ông đã bộc lộ tất cả những gì là tốt lành, là nhân ái, còn chứa trong nỗi lòng sâu kín nhất của ông. Gia kêu đã trở nên mẫu gương cho những ai biết đón nhận ơn tha thứ bằng việc thật tâm hối cải, quay trở về với Chúa. Đúng thật, Chúa tới để tìm kiếm những gì đã hư mất.
Bí Tích Giải Tội là Bí Tích do Chúa Giêsu thiết lập và là một hồng ân cao vời Chúa ban cho nhân lọai. Đây là phươn thế giúp chúng ta làm hòa với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em,là phương thế Chúa ban lại sự an bình tâm hồn cho con người và thêm sức mạnh cho tương lai, trả lại tình trạng trong sáng đã bị tội lỗi làm lu mờ. Bí Tích Giải Tội nối những gì tội lỗi đã làm con người xa lìa Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải yêu mến Bí Tích Giải Tội và luôn siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa để được gần gũi Thiên Chúa, gần gũi Giáo Hội và gần gũi anh chị em.
Lạy Chúa xin cho chúng con có tấm lòng như Chúa, có đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Amen.
Các bài đọc Chúa Nhật hôm nay nhấn mạnh về ơn cứu độ do Chúa Giêsu mang lại. Đó là đề tài mà Luca ưa thích. Luca thường nhắc đi nhắc lại việc Đức Giêsu đến là để cứu vớt loài người: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5,32). Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Độ (Lc 2,11).
Nhưng ơn cứu độ hệ tại ở điều gì? Thiết tưởng cần phải cắt nghĩa điều này dựa vào trình thuật ông Dakêu, bởi lẽ nhiều Kitô hữu quan niệm ơn cứu độ một cách không chính xác. Họ kể ơn đó như là việc cứu lấy linh hồn mình bằng mọi giá, kể cả thực hiện điều đó vào phút chót. Hãy coi ai đó suốt đời sống xa cách Chúa trong tình trạng tội lỗi và ích kỷ, nhưng vào phút chót, người đó xưng tội. Vậy người đó được cứu! Quan niệm như vậy về ơn cứu độ quả là sơ sài. Chúa Giêsu đã không quan niệm như vậy như ta thấy trong trình thuật ông Dakêu.
Cứu độ là hiệu quả của tình yêu
- Trước hết phải nói rằng ơn cứu độ là hiệu quả của tình yêu Thiên Chúa. Ta hiện hữu vì Thiên Chúa yêu thương ta: Chúa yêu thương mọi tạo vật và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì thì Người đâu có tác tạo nó. Tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt hơn tội lỗi loài người vì Chúa “nhắm mắt làm ngơ” trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chính vì Người yêu ta nên Người muốn ta tồn tại mãi mãi. Đó chính là ơn cứu độ! “Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được.” Thật là tuyệt đẹp trang sách Khôn Ngoan ta nghe trong bài đọc 1 Chúa Nhật hôm nay.
Được cứu là được hoàn toàn triển nở
- Ơn cứu độ gồm một phương diện bản vị mà thánh I-rê-nê diễn tả bằng một câu nói súc tích rất đẹp là “Vinh danh Thiên Chúa chính là con người đang sống” tức là được hoàn toàn là mình, được hoàn toàn triển nở. Khi sinh ta ra, Thiên Chúa Cha đã nhìn ngắm Con chí ái của Người là Đức Giêsu và Người đã tạo thành ta theo hình ảnh của Người Con chí ái đó: “Vì … Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29). Người giao cho ta nhiệm vụ suốt đời phải thể hiện hình ảnh Đức Giêsu, mỗi người theo mức độ Chúa Cha đã ấn định. Hình ảnh đó của Đức Giêsu mà mỗi người phải thể hiện chính là nhân cách riêng của từng người, là cái tôi đích thực của mỗi người. Ta có thể dùng hình ảnh mà tông đồ Phaolô đã dùng (1Co 3,10-15) là mỗi người chúng ta phải xây dựng bản thân bằng cách sử dụng cũng những vật liệu từng hình thành nên Đức Giêsu. Không ai có thể vào thiên đàng ở với Thiên Chúa nếu không thể hiện hình ảnh Con của Người: thiếu hình ảnh đó ta sẽ không được cứu và còn phải ở luyện tội. Thiên đàng gồm đầy những người thành công, không ai thất bại cả! Ta thấy điều đó nơi ông Dakêu: ông từng là người tội lỗi vì nhắm tiền của như mục đích đời mình, ông từng sống ích kỷ. Như vậy là ông đã từng đặt mình ra ngoài kế hoạch mà Thiên Chúa dành cho ông. Kế hoạch ấy hệ ở việc tăng cường về khả năng tự hiến cho Thiên Chúa và cho đồng loại theo gương Đức Giêsu. Vì thế ôn đã “hư mất”. Đức Giêsu mang lại cho ông ơn cứu độ vì Người thúc đẩy ông mở rộng sự sống của ông ra cả hai phía trên và dưới: cần phải ra khỏi ích kỷ để bước vào tình yêu, bước ra khỏi đời sống tập trung vào mình để tiến tới một đời sống tập trung vào người khác: tức là sống theo gương mẫu của Con Thiên Chúa là Đấng đến “không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10,45) Tiếp theo cuộc viếng thăm của Đức Giêsu, ông Dakêu đã trở nên một con người mới “con người sống động”: vì ông đã bắt đầu trở nên một con người qui về Thiên Chúa và tha nhân, như Đức Giêsu. Ông bắt đầu xây dựng lại cái tôi của ông từng bị méo mó do tính ích kỷ.
“Tôi là một cô gái 21 tuổi, đang học đại học, yêu đời, thích sống tự do và độc lập. Tôi đã được cơ may sinh ra trong một gia đình đạo đức; nhờ đức tin và sự hướng dẫn của cha mẹ, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân đã đâm rễ rất sâu trong tâm hồn tôi và giúp tôi có một cuộc sống tương đối trưởng thành. Bằng việc khắc chế tình dục, mặc dầu có rất nhiều người theo đuổi tôi, tôi đã có được cuộc sống trong sạch cho đến nay.
“Cách đây 3 tháng, tôi đã bắt đầu yêu một người đàn ông 40 tuổi, có vợ và 2 con. Tại sao tôi lại sa ngã như thế? Vì trong người đàn ông này, tôi đã khám phá ra và tìm thấy sự chân thành mà những bạn đồng lứa với tôi không hề có. Ông nói với tôi ngay từ ban đầu rằng ông thích tôi và mong muốn có tôi, nhưng không bao giờ ông sẽ bỏ vợ con ông. Ông muốn tôi phải lựa chọn chơi với ông hoặc thôi.
“Tôi đã chấp nhận chơi với ông ta. Tôi ý thức rằng tôi đang sai lầm và phá vỡ tương lai của tôi; nhưng tôi không thể xa lìa ông ấy, vì tôi quá thích ông.”
Cô gái vừa mới chia sẻ những điều vừa nói đã đặt mình ra ngoài con đường cứu độ, bởi lẽ cô ta đã bước ra khỏi con đường của yêu thương, của tự hiến, để sa vào con đường tìm kiếm mình, chính là con đường ích kỷ. Như vậy là cô ta không còn xây dựng bản thân để nên giống Đức Giêsu nữa. Cô ta cần được Đức Giêsu đến viếng thăm cõi lòng mình.
Điều gì xảy ra khi Dakêu được cứu
- Ông Dakêu đã tiếp đón Đức Giêsu đến cứu ông, tức là ông đã đặt mình trở lại trên con đường của yêu thương là chấp nhận Đức Giêsu như mẫu mực đời mình. Đó là phương diện bản vị của ơn cứu độ, là phương diện liên quan tới mối tương quan thiết thân của mỗi người với Thiên Chúa. Nhưng ông Dakêu còn đi xa hơn khi nói: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Ông ta đổi mới tận căn các mối tương quan ông có với đồng loại. Ông bắt đầu thể hiện đức ái (= ông bố thí nửa gia tài của ông cho người nghèo) và thực thi công bằng bằng cách đền bù lại những thiệt hại ông đã gây nên cho người khác.
Đó là phương diện cộng đoàn của ơn cứu độ, là phục hồi lại tình huynh đệ giữa con người với nhau. Ông Dakêu nhìn nhận ông đã đối xử với người lân cận như kẻ thù địch thay vì như người anh em: ông đã bóc lột họ. Đó chính là điều đã đưa ông bước ra ngoài con đường cứu độ và khiến ông phải “hư mất”. Phúc thay cho ông, vì nay Đức Giêsu đến cứu ông bằng cách đặt ông trở về con đường của tình huynh đệ. Ơn cứu độ đòi ta không những phải lo cho mối tương quan bản thân ta với Thiên Chúa mà còn phải lo cho mối tương quan của ta với anh em đồng loại. Tình yêu và công bằng đối với anh chị em đồng loại là hai phần thiết yếu của ơn cứu độ. Điều đó Luca nói rất rõ trong trình thuật Dakêu.
Không cần phải đi đâu xa để gặp gỡ “tha nhân” là người mà bạn có lẽ “đã không thấy”: đó là “người duy nhất” được Thiên Chúa sai đến với bạn vào thời điểm đích xác này: “Sáng hôm đó khi ra khỏi nhà tôi gặp một người trẻ tới xin bố thí. Tôi để ý nhìn thấy đó là một cậu con trai tuổi chừng 20, rất dơ, như mơi vượt ngục và đang bị lùng bắt. Cặp mắt đẹp đẽ của chàng như van xin: “Tôi đói!” Tôi dẫn chàng tới tiệm bánh mì vì chàng chỉ xin tôi bánh mì mà thôi. Thấy chàng thực sự đói, tôi đã cho thêm ít kẹo xô-cô-la. Nhưng bước ra khỏi tiệm, chàng vẫn còn tiếp tục theo tôi, miệng nhai ổ bánh mì. Chàng cho tôi biết chàng từ tỉnh Lille tới. Tôi gợi ý để chàng nghĩ tới mẹ chàng với những âu lo vì chàng. Tôi nói như người mẹ trong gia đình trách móc người con đi hoang. Tôi đã hoàn toàn thu hút sự chú ý của chàng. Chàng nhìn tôi với bộ mặt sửng sốt đầy thắc mắc. Tôi được biết chàng từng ngủ nơi đầu đường xó chợ. Tôi cho chàng địa chỉ ở thành phố Nice nơi chàng có thể xin vé ăn tiệm do một xứ đạo cung cấp. Chàng ngồi ghi địa chỉ và chuyển sang một câu chuyện nghiêm chỉnh. Tôi năn nỉ yêu cầu chàng hãy trở về ngay thành phố Lille để mẹ chàng an tâm. Chàng có vẻ cảm động trước những lý lẽ tôi nêu. Tôi hỏi cho biết tên riêng của chàng và được biết nó trùng hợp với tên riêng của đứa con trai út của tôi là Phát (Patrice). Từ lúc đó tôi gọi chàng bằng tên Phát. Tôi thấy chàng cảm động và suy nghĩ đăm chiêu. Lập tức chàng quyết định lên đường trở về thành phố Lille nhờ còn giữ vé xe trở về. Khi hướng tới nhà ga, chàng xin phép để ôm hôn tôi mà nói: “Em sẽ không bao giờ quên được chị…” Khi cất bước, tôi quay đầu lại để nhìn theo chàng. Tôi thấy chàng chạy lại phía tôi, tay cầm một chiếc móc chìa khóa bằng bạc rất đẹp. Thoạt tiên tôi không muốn nhận kỷ vật thiết thân đẹp như vậy, sợ chàng phải mất mát vì tôi. Nhưng chàng mạnh mẽ năn nỉ tôi khi nói: “Đó là đồ vật quí báu duy nhất em hiện sở hữu. Em từng gắn bó với nó nhưng chị có quyền trên nó: chị đã cứu em, chị có biết không?” Tôi hiểu rằng tôi sẽ xúc phạm tới chàng nếu tôi từ chối không nhận lấy cái móc chìa khóa chàng đặt trong lòng bàn tay tôi. Một lần nữa chàng ôm hôn tôi, cho tôi thấy rõ dấu chỉ của niềm vui, và chàng đi đến nhà ga với bước đi vững vàng và khẳng khái.”
(Suy niệm của Lm Vũ Khắc Nghiêm)
Văn hòa Victor Hugo viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables) đã kể câu chuyện vền Văn Giang (Han Valjean), một tên sát nhân bị tù 19 năm. Khi được tha về, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi, vào nhà trọ, vừa thấy mặt anh, người ta đóng cửa lại, vào ổ chó, chó sủa inh ỏi, vào trọ nhà Đức Giám mục Myriet được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp cây đèn bạc rồi trốn đi. Chính quyền bắt được, giải tới Đức Giám mục. Ngài nói: “Chính tôi tặng anh và tặng thêm hai cây đèn nữa.” Rồi Ngài nói với anh: “Anh cầm lấy, anh hãy bỏ ác theo thiện. Tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa.” Từ đó, Van Giang suy nghĩa, hối cải và sau này trở thành một Thị trường rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với người thu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự. Lối thứ nhất sợ “gần mực thì đen.” Lối thứ hai “gần đèn thì sáng”. Lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn được vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử thứ nhất của những người xì xầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ.” Theo quan niệm dân Do Thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma, và nhất là hạng người thu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng người tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng cách tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai là tạo ra hạng người kiêu căng, tự coi mình là trong sạch, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa tha thứ. Họ không được phép kết án ai để khỏi bị Thiên Chúa kêu án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: “Ai không có tội, hãy ném đá chị đi! Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án.
Lối xử thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giầu có.” Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thu thuế. Người chủ thầu mặc sức thu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu ở những thành khác vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn 10 ngàn năm, và nổi tiếng văn minh, thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Giosuê dẫn dân Do thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được khi Đức Giêsu đi qua. Đức Giêsu lúc đó đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm chỉ là một ngôn sứ nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Đức Giêsu không là gì, không có chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: Ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay nhà này đươc ơn cứu độ.”
Đời ông đã đổi mới hẳn. Ông sẳn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức bác ái của ông dâng cao. Đức công bằng cũng không kém. “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn.” Ông Giakêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Kitô chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa. Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho mọi loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật cho kẻ công chính cũng như bất lương, là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những người tội lỗi, hướng dẫn những người lầm đường lạc lối, cứu chữa những người yếu đuối, tìm kiếm những người hư mất, phục sinh những người đã chết. Thật ra, “toàn thể vũ trụ trước mắt Người chỉ là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn xót thương. Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao!” (Bài đọc 1). Thiên Chúa nhân hậu và quí trọng sự sống của chúng ta như vậy, cho nên thánh Phaolô cầu nguyện cho chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ.” Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Lạy Chúa! Xin cho con vững tâm tin tưởng mừng rước Chúa đến ngự vào nhà con, cho con được đổi mới và được ơn cứu độ như ông Giakêu. Amen.
Harold Hughes đã viết về lúc còn trẻ như sau:
“Tôi từng là một kẻ nghiện rượu, gian dối và lừa đảo người khác.” Một quãng cuộc đời ông tưởng rằng đã phá đổ và đánh mất tất cả. Một buổi tối nọ, ông đã vào bồn tắm và định tâm sẽ tự sát. Ông lấy khẩu súng và chỉa mũi súng vào miệng ông. Khi Hughes đang định bóp cò súng thì ông chợt nhớ lại tự hại thân thể mình thì có tội. Ông viện mọi lý do giãi bày với Chúa tại sao ông làm như thế. Sau khi giãi bày với Chúa, ông đã quì xuống đất và cúi đầu xuống. Ông nói chuyện với Thiên Chúa và khóc nức nở. Trong tâm hồn, ông cảm thấy một cảm nghiệm rất sâu xa mà ông không thể nào quên được. Ông viết lại cảm nghiệm này như sau: “Một cảm nghiệm bình an dạt dào bừng lên trong tâm hồn tôi… Tất cả tội lỗi trong mình tôi như tan biến hết… Thiên Chúa như đang cúi xuống và chạm đến tôi… Như một đứa con đang run sợ đi lạc trong cơn bão tố và nó bất chợt tìm thấy được bàn tay rất ấm áp của Cha nó… Quì trên sàn nhà phòng vệ sinh, tôi đã dâng mình cho Chúa và thưa cùng Chúa rằng tôi sẽ làm tất cả mọi sự gì Chúa muốn.”
Chính giây phút linh thiêng cảm động đó đã biết đổi của đời của Harold Hughes. Mười năm về sau, ông được bầu làm thống đốc tiểu bang Iowa. Mười bảy năm sau đó, ông được bầu làm thượng nghị sĩ Hoa kỳ. Khi về hưu, ông đã tham gia vào công việc giúp những người nghiện rượu và hút sách.
Câu chuyện về Harold Hughes giống với câu chuyện ông Giakêu trong bài Phúc âm hôm nay.Đó là một câu chuyện kể về một người đã được ơn biến đổi từ một cuộc đời tội lỗi thành một cuộc sống phục vụ. Đó là một câu chuyện về một người đã biết mở rộng cửa lòng đón nhận Thiên Chúa và được tràn đầy niềm vui hạnh phúc mà ông không hề tưởng sẽ được.
Chúa Giêsu muốn đi vào trong cuộc đời chúng ta và biến đổi chúng trở nên tốt hơn như Ngài đã làm cho Giakêu. Chúa Giêsu không bao giờ cưỡng ép chúng ta, hoàn toàn tôn trọng tự do của chúng ta. Trong sinh hoạt hằng ngày, Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống mỗi ngưòi chúng ta như Ngài đã bước vào cuộc sống của Giakêu. Chúng ta chỉ cần bám lấy Ngài, và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi điều như Ngài đã từng làm cho những người khác.
Chúa Giêsu có thể bước vào cuộc sống chúng ta, gần gủi với chúng ta qua ba trường hợp nầy. Thứ nhất Chúa Giêsu có thể nói với chúng ta khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa. Như vậy Chúa có dịp bước vào tâm hồn chúng ta. Thứ hai là lúc chúng ta đón rước Chúa Giêsu Thánh thể. Chúa Giêsu nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy. (Jn 6:56). Sau hết, Chúa Giêsu bước vào trong cuộc sống của chúng ta lúc chúng ta gặp những người nghèo khổ túng quẫn. Chúa Giêsu dạy: “Ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này là làm cho chính Ta.” (Mt 25:40)
Khi gặp Ngài, chúng ta hãy xin Ngài làm cho chúng ta những điều Ngài đã làm cho Hughes và Giakêu. Đó là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay. Đó là điều chúng ta đang cùng nhau cử hành trong phụng vụ hôm nay.
Các tin khác
.: GIẢNG LỄ MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: CẦN SỰ HIỆP THÔNG HUYNH ĐỆ KHI THAM DỰ TIỆC THÁNH (21/06/2025) .: ĐỨC GIÊSU BẺ BÁNH (21/06/2025) .: HOÁ BÁNH RA NHIỀU HAY BẺ BÁNH (21/06/2025) .: BÍ TÍCH THÁNH THỂ - DẤU CHỈ TÌNH YÊU (21/06/2025) .: TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: TÌNH YÊU HY SINH TRAO BAN CHÍNH MÌNH (21/06/2025) .: THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH LÒNG THƯƠNG XÓT (21/06/2025) .: LƯƠNG THỰC BAN SỰ SỐNG (21/06/2025) .: BỮA TIỆC THẦN THIÊNG (21/06/2025) .: MÌNH MÁU THÁNH (21/06/2025) .: ĐỂ TƯỞNG NHỚ ĐẾN THẦY (21/06/2025) .: Ý NGHĨA CỦA BÁNH VÀ RƯỢU TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ (21/06/2025) .: TRAO BAN CHO NGƯỜI (21/06/2025) .: CHÚC TỤNG BẺ RA VÀ TRAO BAN (21/06/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam