Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1447072

Còn Gì Nữa Không

Cập nhật : 07-11-2013
 

CÒN GÌ NỮA KHÔNG

 

Lc 20, 27 - 38

 

Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR

 

 “Chết là hết.” Thời nào cũng có những con người xác tín như thế. Không phải chỉ khi khoa học kỹ thuật tiến bộ làm lắm kẻ đánh mất niềm tin vào thượng đế và sự sống mai sau. Vào thời Đức Giêsu nhiều người đã cho rằng chết là đi vào cõi hư vô tận tuyệt. Tiêu biểu là bè phái Sađucêô. Song, điều kỳ quái là đa số thành viên của phái này lại gồm toàn những tư tế đạo Do Thái.

Sađucêô và Pharisiêu là hai nhóm người từng chống đối và bắt bẻ giáo lý Đức Giêsu cách quyết liệt, dù rằng niềm tin và đường lối của họ khác biệt nhau. Pharisiêu tin vào sự sống lại, thiên thần và thần linh; Sađucêô phủ nhận tất cả. Pharisiêu coi trọng Ngũ kinh, sách Luật và các Tiên tri; Sađucêô chỉ nhìn nhận Ngũ kinh và luật Môisen. Pharisiêu trông chờ Đấng cứu thế; Sađucêô cho là mơ mộng viễn vông.

Ngoài ra, Sađucêô còn được biết đến như những kẻ chuyên cầu thân với chính quyền, tìm kiếm một sự ổn định trong việc tế tự và địa vị lãnh đạo. Thế nên hàng ngũ Sađucêô cũng có nhiều người là quan chức cao cấp, thương gia sừng sỏ, hay địa chủ giàu có. Họ chịu ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa Hy lạp, nơi không quen với tư tưởng sống lại của thân xác.

Khi thấy đạo lý của Đức Giêsu thiên về việc sống lại giống như nhóm Biệt phái, mấy người Sađucêô đã bày trò chế diễu bằng cách nhắc đến luật “Anh Em Chồng” của Môisen. Luật ấy nói rằng : “Khi anh em của người nào chết đi mà không có con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về ai khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xóa khỏi Israel.” (Thứ Luật 25:5-7)

Vấn đề được đưa ra: Vậy khi sống lại, ai sẽ được chính thức làm chồng của người đàn bà kia, và ai sẽ phải cam chịu sống cảnh cô đơn đời đời?

Nhưng Đức Giêsu đã dùng chính vấn nạn đó để mạc khải một chân lý của sự sống mai sau. Chân lý đó không ai có thể tượng tưởng ra. Như thai nhi trong lòng mẹ không thể biết mình sẽ sống thế nào sau khi chào đời, thì một con người cũng sẽ không thể hiểu thấu thế giới bên kia cửa chết ra sao sau khi qua đời.

Song Đức Giêsu đã tiết lộ cho con người biết đôi điều căn bản. Thứ nhất: có hạnh phúc mai sau. Hạnh phúc đó không phải ai cũng có được. Người ta sẽ phải trải qua giai đoạn chịu xét xử, và “ai được xét là xứng đáng” thì mới được tặng ban (Lc 20:35).

Điều thứ hai: ai được thưởng cho sự sống lại sẽ không phải chết nữa. Ở đó “họ sống như các thiên thần” (Lc 20:36), tức là không còn chuyện cưới vợ, lấy chồng, sinh con. Như thế sự sống mai sau sẽ không diễn ra theo kiểu con người trần thế đang có. Người ta không thể chết nên không cần truyền sinh.

Điều thứ ba: “Họ nên con cái Thiên Chúa.” Có lẽ không gì tuyệt vời hơn, giá trị hơn, và hạnh phúc hơn khi hoàn toàn bước vào mối liên hệ thiết thân với Đấng Tạo Hóa. Được nối kết với Thiên Chúa Tình thường, chính là hạnh phúc đích thật mà “muôn loài thọ tạo ngong ngóng đợi chờ” (Rm 8:18).

Thương yêu là cội nguồn của hạnh phúc. Hạnh phúc nào cũng cần có yêu thương. Ngay những hạnh phúc chóng qua ở đời nầy lắm khi cũng không thể vắng bóng chữ “yêu”. Ví dụ: kẻ cảm thấy “hạnh phúc” nếu có tiền, thì đã là người “yêu tiền”; kẻ “sung sướng” vì được chức vị cao sang thì đã là người “yêu quyền”; kẻ “vui thú” vì thỏa mãn nhu cầu thân xác đã là người “yêu xác thịt”. Đối tượng tình yêu càng chóng qua, hạnh phúc tìm đến càng chóng tàn. Thế nên được liên kết với Yêu thương chân thật chính là hạnh phúc sâu xa mà Đức Giêsu muốn mạc khải cho con người. Không còn cách nào tuyệt diệu hơn để diển tả hạnh phúc của sự sống đời sau đó.

Nếu không có sự sống mai ngày, sự sống hôm nay quả đang đi vào ngõ bế tắt. Bởi sự chết sẽ thống trị tất cả. Rồi đây kẻ sang người hèn cũng như nhau. Bậc đạo đức tốt lành cũng không hơn gì kẻ gian ác mưu mô. Người dấn thân phục vụ cũng chẳng khác gì kẻ tàn phá giết hại sinh linh.

Nếu không có sự sống lại thì “ta ăn đi, uống đi, vì mai ngày ta sẽ phải chết” (Is 22:13)

Nếu không có sự sống lại thì “lời rao giảng của chúng tôi thật hư không... và việc anh em cũng hão huyền” (1 Cor 15:12-17)

Nhưng nhờ tin vào sự sống đời sau, với xét xử công bình và thưởng phạt phân minh, tôi vững vàng bước đi trong yêu thương, ngay chính, với hy vọng trở nên con cái của sự sống lại, để sống hạnh phúc và sung mãn muôn đời.

 

 

 

CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN C

 

Lc 20, 27 - 38

 

Lm Augustine S.J

 

Điều gì đã xảy ra dưới hầm đạn? 
Cuốn tiểu thuyết nhan đề Mặt Trận Phía Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh (All Quiet on the Western Front) mô tả một cảnh rất cảm động. Khi ấy chiến cuộc bùng nổ dữ dội giữa quân Pháp và Đức. Một chú lính Đức trẻ măng nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo của địch. Bất ngờ một người lính Pháp lạc bước cũng nhảy xuống cùng một hầm. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ địch dưới hầm, anh đã bị chú lính Đức đâm cho mấy nhát khiến anh ngã qụy. Anh nằm thoi thóp chưa chết ngay. Chú lính Đức chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp, chú thấy miệng người này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta liền động lòng thương nên rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Khi người ấy qua đời, chú lính trẻ người Đức cảm thấy ân hận thấm thía. Đây là người đầu tiên bị chú giết chết trong đời quân ngũ. Chú thắc mắc không rõ tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú liền kính cẩn rút ra xem. Chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một bé gái. 

Chú lính Đức vô cùng cảm động. Bỗng dưng chú nhận thấy người lính đã chết kia không còn phải là kẻ thù nữa, nhưng là một người cha, người chồng - tức là một người biết yêu y hệt như chú vậy. Động lòng thương, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ của người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ người quá cố. 

Thử hỏi điều gì đã xảy ra dưới hầm đạn nơi chú lính Đức đối diện với người mà chú mới giết chết? Phải chăng chú lính Đức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại nên chú tự bắt mình phải yêu thương người lính mới tắt thở? 

Không phải như vậy đâu! Sự việc xảy ra là: chú lính Đức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới. Chính nhờ đó thái độ của chú đã thay đổi đối với con người ấy. 

Đức Giêsu có mang lại ánh sáng? 

Bài Tin Mừng hôm nay cũng đặt chúng ta trước một số phận chết chóc của con người. Xem ra không gì có thể thay đổi số phận đó. Cả mối tương quan thâm sâu của họ với những người thân yêu nhất xem ra cũng bị cái chết chôn vùi một cách không cưỡng lại được. Giữa cái ảnh hưởng bi thảm của nghĩa địa ấy thử hỏi lời can thiệp của Đức Giêsu có mang lại ánh sáng thay đổi được tình hình chăng? 

Vấn đề chết chóc ở đây được nêu lên do một số người thuộc phe Xa-đốc. Họ đặt vấn đề này với Đức Giêsu như một phần của những cuộc tấn công nhằm làm giảm uy tín đang lên của Người. Sau cuộc hành trình dài lên Giêrusalem (Lc 9,51-19,27), Đức Giêsu tiến vào thành với tư cách là vị cứu tinh Mê-xi-a được dân chúng hoan hô nhiệt liệt (Lc 19,28-40). Người bước vào Đền Thờ và đụng độ với uy quyền của giới lãnh đạo ở đây khiến họ đòi Người phải chứng minh: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?" (Lc 20,2). Họ bực bội vì Đức Giêsu đã cả dám đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ và dám cho rằng bọn này đang biến nhà cầu nguyện thành sào huyệt của bọn cướp (Lc 19,46). Chỉ vì sợ dân, nên các kinh sư và thượng tế không dám tra tay bắt Đức Giêsu mà thôi (Lc 20,19). Vậy họ định sẽ gài bẫy Người. Nhóm kinh sư và thượng tế sai người giả bộ ngay lành đến hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho vua Xê-da không?" Mưu mô này thất bại vì Đức Giêsu đã khôn ngoan trả lời "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Lc20,25). Đó là lúc mot số người thuộc nhóm Xa-đốc đến thử chất vấn Người về tín ngưỡng, tức về sự sống lại như ta đọc trong bài Tin Mừng hôm nay. 

Đức Giêsu trước chuyện vô luân 

Nhóm Xa-đốc này không tin có sự sống lại (Lc 20,27). Họ trích sách Đệ Nhị Luật 25,5-6, để đưa ra một trường hợp buộc Đức Giêsu phải nói bản thân Người có tin vào sự sống lại hay không. Nếu Người không tin có sự sống lại, nhóm Xađốc sẽ được lời vì có thêm người về phe với họ. Ngược lại, nếu Đức Giêsu tin có sự sống lại, Người sẽ phải đối phó với điều khó khăn là giải quyết vụ hôn nhân cho người vợ goá mà sách ĐNL nói trên đề cập. Theo họ, nếu sống lại, người vợ goá ấy sẽ phải nhận bảy người anh em ruột làm chồng mình! Đó là chuyện vô luân đối với người Do Thái. 

Nguyên văn sách ĐNL mà nhóm Xađốc trích dẫn đọc như sau: "Khi anh em ở chung cùng nhau và một người của chúng chết đi mà không con, vợ của người chết sẽ không được thuộc về chồng khác ngoài nhà. Một anh em của chồng sẽ nhập phòng với nó và lấy nó làm vợ và giữ nghĩa anh em chồng với nó. Và con trai đầu lòng sinh ra sẽ lưu danh người anh em đã chết. Và như vậy tên nó sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en" (Đnl 25,5-6). Khi trích dẫn, nhóm Xađốc đã nhân số anh em ruột buộc phải lần lượt lấy người vợ goá đó, lên tới bảy người! Như vậy họ có ý bó buộc Đức Giêsu phải từ chối tin vào sự sống lại để tránh tình trạng vô luân một vợ bảy chồng! 

Đụng tới chính mục đích của hành trình 

Dĩ nhiên nhóm Xađốc đã vô tình đụng tới chính mục đích của hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Người lên Giêrusalem không phải chỉ để chết nhưng để được "rước lên trời" (Lc 9,51). Trong ba lần loan báo về cuộc thương khó, hai lần Đức Giêsu nói rất rõ Người sẽ bị giết nhưng ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy (Lc 9,22) và Người sẽ sống lại (Lc 18,33). 

Luca cũng cho thấy đối diện với sự chết và sự sống lại được loan báo, các môn đệ không những không hiểu mà còn sợ không dám hỏi về lời đó (Lc 9,45) mặc dầu trong số môn đệ, ba ông đã được thấy Đức Giêsu hiển dung và nghe thấy tiếng Thiên Chúa nói từ đám mây rằng: "Đây là Con Ta, Người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người" (Lc 9,35). Cả trường hợp sau khi chết ba ngày và Đức Giêsu đã hiện ra với các phụ nữ nhưng các môn đệ vẫn không tin. Một số môn đệ còn thất vọng bỏ Giêrusalem về quê (Lc 24,13-32). Chính Đức Giêsu phục sinh đã phải thân hành hiện đến ban cho các ông ơn để nhận biết Người đã phục sinh (Lc 24,31-32,34,36-43,44-49). 

Thực ra phải chờ tới ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đức Giêsu Phục Sinh mới thực sự hoàn thành cuộc vượt qua của Người như xưa giao ước Xi-nai đã hoàn tất cuộc vượt qua của dân Ít-ra-en và làm cho dân ấy trở nên dân riêng của Thiên Chúa. Người hoàn thành cuộc Vượt Qua ấy nhờ Chúa Thánh Thần là Đấng quy tụ dân mới của Thiên Chúa và ban cho họ những đặc sủng để làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh là Đấng Cứu Độ mọi người. 

Bật lên vài tia sáng khi chờ đợi 

Quả thật nhóm Xađốc vô tình đã nêu vấn đề hết sức quan trọng đối với Đức Giêsu, đó là sự sống lại. Vấn đề ấy sẽ được Người trả lời đầy đủ bằng chính sự chết và sự sống lại của Người trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Trong khi chờ đợi, Đức Giêsu chỉ bật lên vài tia sáng giúp ta khỏi lạc đường mà thôi. 

+ Một là lập trường của phe Xa-đốc đối với sự sống lại dựa trên cơ sở sai lầm. Họ cần loại bò ý nghĩ về sự sống lại như việc phục hồi điều kiện thể lý của người quá cố. Đúng hơn, họ phải quan niệm tình trạng của người được Chúa cho sống lại sẽ giống như các thiên thần (c.36) nên không còn cưới vợ lấy chồng nữa (c.35). 

+ Hai là phải cẩn thận đọc lại Kinh Thánh. Đức Giêsu trích dẫn sách Xuất Hành 3,6 để nói rằng "Thiên Chúa của Tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của Tổ phụ I-xa-ác, Thiên Chúa của Tổ phụ Gia-cóp…" có nghĩa là Thiên Chúa của kẻ sống (c.38). Người Do Thái vẫn tin rằng thân xác cần cho sự sống và hạnh phúc của con người. Vậy nói tới sự sống mà các Tổ phụ Do Thái sở hữu sau khi các vị ấy qua đời và trước khi các vị ấy sống lại, thì hiểu rằng sự sống ấy là do sự kết hợp mật thiết của các vị ấy với Thiên Chúa toàn năng. Cho nên đối với Thiên Chúa, các vị ấy "đều đang sống" hay các vị ấy đều "sống nhờ Thiên Chúa" (c.38): Cả hai cách dịch đều quy về sự toàn năng của Thiên Chúa là cơ sở của sự sống của những người đã chết. 

+ Cũng sự toàn năng đó của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Giêsu sống lại thì cũng sẽ làm cho những ai được Thần Khí của Đức Giêsu cư ngụ sống lại với Người (Rm 8,11; 1Co 6,14; 2Co 4,14). 

Quả thật, còn phải chờ cho cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu đạt tới đích là "Người được rước lên trời" (Lc 9,51), toàn bộ mạc khải về sự sống lại của loài người mới được sáng tỏ nơi Đức Giêsu. Khi ấy tông đồ Phaolô mới có thể khẳng định như trên. 

Trong khi chờ đợi, vấn đề kẻ chết sống lại do nhóm Xa-đốc nêu lên chưa được nêu đúng lúc. Ta hãy còn như ở dưới hầm nơi chú lính Đức mới giết người lính Pháp rồi chợt nhìn thấy người ấy dưới ánh sáng mới trong cuốn tiểu thuyết Mặt Trận Phía Tây Hoàn Toàn Yên Tĩnh. Chính Đức Giêsu phục sinh bước ra khỏi mồ chôn Người, mới cho ta thấy trọn vẹn sự thật về loài người được cứu.

 

 

 

 

 
Nguồn : gxta

home Mục lục Lưu trữ