Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1443319

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG

CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ SỐNG

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Con đường của Con Người…

Đáp lại câu hỏi Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ "trong miền Xêrarê Philip" trước khi lên đường đi lên Giêrusalem: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô đã trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho: "Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.

Đến đây Matthêu lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: "Từ thời gian này..." đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.

2. Thông báo lần đầu về khổ nạn

Những kẻ theo Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc: "Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại."

Thông báo lần đầu trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem 17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông "kéo Đức Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường "cứu thế" theo ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong "Jesus, l'histore vraie" Centurion 1994, trang 334-335)

"Satan, lùi lại đàng sau Thầy". Đức Giêsu đã đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin, nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của "ý tưởng loài người", mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của Đức Kitô ("L'evangile de Matthieu" (Centurion 1991, trang 181).

3. Đường của các môn đệ

Và để cất đi mọi ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập gia. "Nếu ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp theo đều xây dựng trên từ "mạng sống" sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. "Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ - đầy tớ giống như sư phụ – đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ. Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà "xác thịt và máu huyết" có thể nghĩ ra, hình dung được.

BÀI ĐỌC THÊM

1. Theo Đức Giêsu (Mgr. Daloz trong cuốn "Le Règlle des cieux s'est approehé" desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của "sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính "người được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. "Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình". Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. "Yêu là cho tất cả là trao ban chính bản thân mình", thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân... cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải đi: Ai muốn theo tôi... Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe doạ đâu, mà là một lời hứa. "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: "Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban.

2. Biểu trưng của thập giá (D.Ponnau, Giám đốc trường Louvre, trong tạp chí "Le Monde de la Bibbe" số 97, trang 5)

Biểu tượng của Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người "phương Đông" ở mặt đất, ở trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã nói: "Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa, mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm Người - Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống - nhìn ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.

 

61. Chú giải của Noel Quession

Ông Si-mon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”

Trang Tin Mừng hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô. Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được "mạc khải" ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!

Tuy nhiên khi kết thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

Tại sao Người bắt các tông đồ giữ kín bí mật đó?

Phần tiếp theo bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.

Từ lúc đó...

Matthêu qua những chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc "tuyên xưng đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn thay đổi phương hướng.

Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.

Từ mấy tuần nay, Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.

Quyết định này, Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!

Trong đời sống chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!

Từ ngữ ấy, trong Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.

Từ ngữ "Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong một lúc.

Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

Từ ngày đó, Đức Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23; 20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư...", mọi viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó khăn.

Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."

Phêrô bị kết án là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu "Xatan hư hại!"

Qua tiếng kêu ấy của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý định khôn dò của Chúa Cha.

“Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy mạnh mẽ biết bao.

Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.

Chúng ta khám phá suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua "quan điểm con người" để chấp nhận "quan điểm của Thiên Chúa".

Thời đại của chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ "giản lược" cả những vấn đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.

Người ta từ đó đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.

Nhưng lúc đó, chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.

Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo..."

Chúng ta chớ lướt qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.

Tất cả tâm thức hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: "Tôi muốn sống đời sống của tôi! ".

Nhưng Đức Giêsu đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu nói: "phải từ bỏ chính mình". Không có tình yêu thương chân thật nếu không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả giá.

Như Phêrô, vào thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ "phải nộp thân mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”

Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?

Đây là nghịch lý của Đức Giêsu: Phải "mất" để “được".

Công thức điên rồ chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.

Bất chấp vẻ bề ngoài, đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa".

Không, Đức Giêsu không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần nhất.

Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.

Đức Giêsu nói về sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.

 

62. Theo Chúa, phải từ bỏ mình và vác thập giá.

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Đọc báo chí hay coi tin tức truyền hình hằng ngày, ta thấy đầy dẫy những câu chuyện tang thương, những cảnh khổ đau, buồn tủi của loài người. Mặc dầu loài người cố thoát khỏi đau khổ, đau khổ vẫn đến với loài người.

Phúc âm hôm nay, cũng như Phúc âm Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B theo thánh Marcô, và Phúc âm Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C theo thánh Luca có nội dung và lời lẽ giống nhau hầu như đồng nhất. Trong cả ba Phúc âm nhất lãm, Đức Giêsu bầy tỏ cho thánh Phêrô và các tông đồ thấy điều nghịch lý của Kitô giáo. Chúa đến làm đảo ngược những giá trị của loài người. Phúc Âm mang ý nghĩa đối nghịch với những ai muốn biến đạo Kitô giáo thành chủ nghĩa nhân bản. Kitô giáo không phải là đạo sống theo sở thích cá nhân và tìm thoả mãn tính ích kỷ. Để nhấn mạnh và bàn sâu rộng về mỗi ý tưởng của lời Chúa, vào Chúa nhật 24 Năm Phụng vụ B, ta sẽ suy niệm về ý nghĩa lời Chúa: Con Người phải chịu đau khổ nhiều (Mc 8:31). Sang Chúa nhật 12 Năm Phụng vụ C, ta sẽ suy niệm về lời Chúa: Ai liều mạng sống vì Thầy, thì sẽ cứu được mạng sống mình (Lc 9:24).

Hôm nay ta cùng suy niệm về lời Ngài: Ai muốn đi theo Thày, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo (Mt 16:24). Từ bỏ chính mình, vác thập giá là điều kiện để làm môn đệ Chúa. Ta không thể theo Chúa mà không từ bỏ. Vậy từ bỏ chính mình có nghĩa là gì? Đứng trước những lựa chọn, ta không thể chọn hết. Chọn vật này thì phải bỏ vật kia. Từ bỏ chính mình là từ bỏ ý riêng, từ bỏ những xu hướng cá nhân và từ bỏ cái tôi. Từ bỏ cái tôi để Chúa có thể vào nhà mình. Khi cái tôi lớn quá thì không còn chỗ cho Chúa vào. Từ bỏ mình để Chúa được tăng trưởng như thánh Gioan tiền hô đã đề xướng: Người phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi (Ga 3:30).

Từ bỏ mình để có thể vác thập giá. Nếu không từ bỏ thì không thể vác thập giá. Vậy vác thập giá mình có nghĩa là gì? Vác thập giá là chấp nhận những đau khổ, khó khăn trong cuộc sống vì yêu mến Chúa. Nói chung, vác thập giá là chấp nhận những giới hạn và hoàn cảnh mình đang sống. Có một câu hỏi mà người chịu khổ thường thắc mắc là câu hỏi tại sao? Tại sao Chúa để tôi chịu đau khổ? Tại sao Chúa gửi thánh giá đến cho tôi và gia đình tôi? Đa số lòai người, trừ trẻ nhỏ, phải mang những thánh giá của bệnh tật, đau khổ phần xác hay phần hồn, thánh giá của cảnh lo âu, sợ hãi, cô đơn, tẩy chay, thất vọng, thánh giá của cảnh gia đình đổ vỡ, chia ly, phân tán. Có những người phải mang thánh giá kéo dài suốt cả cuộc sống. Bài trích sách ngôn sứ Giêrêmia cho thấy vị ngôn sứ phải rơi lệ khi thành Giêrusalem thất thủ, và dân chúng phải rơi vào cảnh lưu đầy. Mặc dầu bị dân chúng tẩy chay và chống đối vì thái độ chủ bại, vị ngôn sứ vẫn trung thành với sứ mạng..

Đức tin vào Chúa không bảo đảm cho ta một đời sống miễn trừ khỏi bệnh tật, đau khổ và thánh giá hay khỏi những khủng hoảng và trắc trở của cuộc sống. Như vậy thì người có đức tin hay không có đức tin cũng có thể phải mang bệnh tật và đau khổ như nhau. Điều khác biệt ở đây là: người có đức tin không chịu khổ vì khổ như một đường cùng không lối thoát. Họ có Chúa là bạn đồng hành trên đường đau khổ thánh giá. Người có đức tin chịu đau khổ, vác thánh giá vì lòng yêu mến Chúa để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa.

Chúa không bảo ta đi tìm đau khổ và thánh giá. Chúa chỉ bảo ta vác thập giá mình. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều khi người ta tự chuốc lấy đau khổ và thánh giá cho mình. Ta phải mang bệnh tật đau khổ vì nghiện ngập, hút sách, không biết giữ gìn sức khoẻ hay không biết kiêng cữ. Ta phải chịu cảnh tù đày vì không tôn trọng luật pháp. Ta phải chịu đau khổ về tâm linh, về tình cảm vì tạo ra những mối tình ngang trái, tạm bợ. Và khi phải cắt đứt những mối tình tạm bợ và ngang trái, ta sẽ bị héo hắt tâm can.

Chìa khoá để mở cửa cho sự hiểu biết và đương đầu với đau khổ là ý nghĩa và mục đích. Chúa đến để đem lại ý nghĩa và mục đích cho đau khổ và sự chết. Ta không chuốc lấy đau khổ chỉ vì muốn khổ, như là một đường cùng không lối thoát. Nếu dừng lại ở đau khổ và thánh giá là ta chọn đi con đường cụt và ta sẽ bị bế tắc. Nói như vậy có nghĩa là khi gặp bệnh hoạn tật nguyền, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị. Bác sĩ và thuốc men là dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Đôi khi Chúa còn chữa trị loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ hay thuốc men. Cách thế chữa trị như vậy, được gọi là phép lạ. Vậy khi gặp đau khổ và sau khi đã tìm cách chữa trị, mà vẫn không thuyên giảm, ta cần học chịu đựng vì yêu mến Chúa, để chia sẻ vào cuộc khổ nạn của Chúa, thì việc chịu đựng mới mang lại ơn ích thiêng liêng. Ta cũng cần tiếp tục cầu nguyện, xin Chúa ban thêm đức tin và sức mạnh để ta có thể chịu đựng vì yêu mến Chúa.

Mang lấy gánh nặng của cuộc sống đòi hỏi người tín hữu một đức tin kiên trì và một tâm hồn tín thác vào Chúa. Chỉ bằng việc suy niệm về nỗi khổ nạn của Chúa, bằng kinh nghiệm đau khổ cá nhân, và bằng lời cầu nguyện, ta mới có thể cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: Hỡi những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11:28).

Lời nguyện xin cho được biết tử bỏ mình, vác thập giá:

Lạy Chúa, con xin cảm tạ đội ơn Chúa

đã đến chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người.

Xin tha thứ những lần con phàn nàn kêu trách Chúa

vì những đau khổ thánh giá con phải mang vác.

Xin ban ơn nhẫn nại để con biết từ bỏ mình, vác thánh giá.

Xin Chúa là sức mạnh và là niềm an ủi

khi con phải mang vác thánh giá của cuộc sống.

Xin dạy con thánh giá là dụng cụ biến đổi ở đời này

và là dụng cụ cứu rỗi đời sau. Amen.

 

63. Từ bỏ mình để được tự do thi hành sứ vụ

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Được sinh ra làm người là một hồng ân. Được làm con Chúa là một hạnh phúc. Nhưng, khi lớn lên, hồng ân và hạnh phúc đó phải được triển nở không ngừng trong tương qua với Thiên Chúa và tha nhân. Tuy nhiên, để hoàn thiện, cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.

Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ theo mình để được hạnh phúc trọn vẹn. Con đường mà Ngài mời gọi lại không phải là con đường dễ dãi, thênh thang, mà là con đường hẹp. Con đường đó là "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Tại sao vậy? Thưa! Vì đây là ý định cứu độ của Thiên Chúa muốn Đức Giêsu thi hành. Quả thật, Đức Giêsu đã đón nhận cũng như thi hành cách trung thành và trọn vẹn trên con đường ấy. Đến lượt chúng ta, phần vì muốn được cứu độ; phần vì muốn cộng góp với Đức Giêsu trên hành trình cứu độ nhân loại, hẳn chúng ta không còn con đường nào khác là con đường: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”(Lc 16,24).

1. Từ bỏ mình, có mất tự do không?

Tin Mừng kể lại: sau khi Đức Giêsu tỏ cho các môn đệ biết về sứ mạng Thiên Sai của Ngài là phải chết để cứu chuộc con người. Song song với việc tiên báo đó, Đức Giêsu lên tiếng mời gọi các môn đệ cũng đi vào con đường của Ngài để cùng chung chia sứ mạng mà Ngài đang thực hiện. Tuy nhiên, điều kiện rất quan trọng mang tính quyết định, đó là: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24).

Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Vì tại sao Đức Giêsu lại muốn các môn đệ đánh mất sự tự do, từ bỏ cái tôi, tức là hủy mình ra không!!! Điều đáng nói là chính Thiên Chúa đã trao ban cho con người tự do, và Ngài chấp nhận con người dùng tự do theo ý hướng của họ. Vậy thì đòi hỏi này của Đức Giêsu có nghịch lý chăng?

Để trả lời cho câu hỏi trên, chúng ta cùng nhau khám phá ý nghĩa đích thực của nó dựa trên mặc khải của Thánh Kinh.

Theo lối hiểu của Kinh Thánh và ý muốn của Đức Giêsu thì sự đòi hỏi này mang tính tích cực cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc.

Khởi đi từ câu hỏi rất thân tình: “Ai muốn theo Thầy?”. Khi hỏi các môn đệ như thế, Đức Giêsu muốn các ông bước đi trong tinh thần thanh thoát, nhẹ nhàng chứ không phải vì nặng nề, mất tự do. Một lời mời gọi rất thân tình, làm cho người được mời gọi cảm thấy an vui, bình an và hạnh phúc khi tự mình quyết định lựa chọn lối sống mới theo tinh thần Tin Mừng.

Khi mời gọi như thế, Đức Giêsu muốn người môn đệ tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, thích ăn trên ngồi trước, thích được người khác phục vụ..., để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi cho phần rỗi của mình và niềm vui, hạnh phúc của kẻ khác.

Thật thế, con đường mà Đức Giêsu muốn cho môn sinh của mình đi không phải là con đường nhung lụa, thênh thang, cũng không phải con đường dễ dãi, bằng phẳng, mà là con đường hẹp, gồ ghề và chông gai... Con đường đó là con đường của từ bỏ: "... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24). Trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

2. “Từ bỏ mình vác thập giá mà theo” có ý nghĩa gì?

"... từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy” (Lc 16,24), tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường khó khăn, thiệt thòi, con đường của hy sinh, tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.

Từ bỏ chính mình là một điều khó. Khó vì nhiều lý do: ai sinh ra trên trần gian này cũng đều là một cá thể riêng biệt, độc đáo, không ai giống ai. Ai cũng muốn khẳng định tôi là tôi chứ không phải ai khác. Khi khẳng định như thế, chủ thể tôi cũng muốn xác định lập trường của mình rằng: không ai có quyền lấy đi hay bắt buộc tôi phải từ bỏ những ý định riêng tư mang tính cá biệt của chính tôi.

Xét theo tâm lý học hay triết học thì đây phải chăng là một đòi hỏi vô lý và một lựa chọn tiêu cực. Nhưng với người môn đệ của Đức Giêsu thì khác! Theo Chúa và từ bỏ ý riêng không có nghĩa là đánh mất mình; nhưng còn được tất cả. Hay nói cách khác, từ bỏ mình để kết hợp hay tháp nhập vào với Chúa là trở về với chính mình cách trọn vẹn nhất. Bởi vì ngay từ đầu, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, nay ta tháp nhập với Ngài, thì ta trở về với chính nguồn cội nơi ta phát xuất ra. Được như thế là ta trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.

Từ bỏ chính mình cũng là thể hiện một sự dấn thân cách trọn vẹn. Thật vậy: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3).

Từ bỏ chính mình là thể hiện sự quyết tâm, sự hy sinh để sống triệt để cho đức vâng lời.

Từ bỏ chính mình là một cách minh nhiên cho thấy ta sẽ ưu tiên cho việc đi theo Chúa hơn là công việc của Chúa.

Nếu không từ bỏ chính mình, thì hẳn ơn gọi và sứ vụ của người môn đệ không thể hướng tha, mà chỉ là quy về mình và sống trong sự ích kỷ, vụ lợi mà thôi.

Nếu theo Chúa mà cồng kềnh thì khó lòng vượt qua những khó khăn thử thách, và cái tôi của mình là một rào cản lớn có tầm ảnh hướng đến việc được hay mất.

Đức Giêsu không muốn các môn đệ đi theo mình với những nỗi niềm chờ mong sai lạc, nhưng Đức Giêsu muốn họ vui chọn cuộc sống thiếu thốn và cực khổ vì hạnh phúc của kẻ khác, biết từ bỏ cái tôi xác thịt, ham muốn hưởng thụ riêng mình mà chọn lấy niềm vui khi chia sẻ với người khác.

3. Người Kitô hữu là người được gọi và bước theo Đức Giêsu

Mỗi người Kitô hữu, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều được mời gọi trở nên giống Đức Giêsu và được mời gọi đi theo Ngài trên con đường mà chính Ngài đã đi.

Muốn đi theo Chúa, chúng ta cũng không thể nào mang trên mình và trong tâm trí nhưng thứ cồng kềnh như: quyền lực; tiền bạc; danh lợi; ý riêng; tự kiêu; bảo thủ… Bao lâu ta còn luyến tiếc những thứ đó, thì bấy lâu ta đặt ý ta hơn ý Thiên Chúa, và ta không thể nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa để thi hành.

Mặc lấy Đức Giêsu tức là ta trở nên giống Ngài. Nên giống Ngài là gì nếu không phải là từ bỏ ý riêng của mình để thay vào đó là ý Chúa như Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa Cha đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Mặc lấy Đức Giêsu cũng là lúc phải ra khỏi những định kiến riêng tư để biết cảm thông và có tinh thần phục vụ như Đức Giêsu khi xưa bằng một tình yêu hy hiến trong tình huynh đệ.

Nếu từ bỏ chính mình là thể hiện một sự quyết tâm, sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, thì vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa chính là đón nhận mọi thử thách, chết cho thế gian, để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Vác thập giá hằng ngày chính là chu toàn chính bổn phận của mình cách trung thành và hợp lý.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi chúng ta xác định thật rõ căn tính của mình là thuộc về Đức Giêsu, một Đức Giêsu đã từ bỏ ý riêng, để sống cho Thiên Chúa và yêu thương con người cách trọn vẹn qua cái chết và phục sinh của Ngài.

Đến lượt chúng ta là những người mang trong mình hình ảnh, tâm tư của Đức Giêsu, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường từ bỏ, tự huỷ để đón nhận thập giá hằng ngày và chu toàn cách trung thành, ngõ hầu chỉ sống cho Thiên Chúa cách trọn vẹn và yêu thương anh chị em đồng loại bằng một tình yêu của Chúa và như Chúa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết tìm thánh ý Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa trong cuộc sống. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.

 

64. Con đường vinh quang ngang qua Thập Giá

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất

Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, thì Người bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người sắp đi lên Giê-ru-sa-lem để qua đau khổ thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh. Ông Phêrô lên tiếng khuyên can nhưng đã bị Người nặng lời quở trách, vì ông đã suy nghĩ theo kiểu loài người. Rồi Đức Giêsu dạy môn đệ phải làm theo thánh ý Thiên Chúa là từ bỏ bản thân, vác thập giá mình mà đi theo Người.

CHÚ THÍCH:

- C 21: + Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ…: Đức Giêsu mặc khải việc Người sắp trải qua cuộc khổ nạn thập giá rồi mới vào trong vinh quang phục sinh tại núi thánh Xi-on của Thiên Chúa, tức là thành thánh Giê-ru-sa-lem, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã tiên báo (x. Tv 2,6). Đức Giêsu lần lượt loan báo 3 lần về cuộc thương khó Người sắp trải qua để đánh dấu từng chặng đường tiến về thành Giê-ru-sa-lem, và cũng để chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ khỏi bị bất ngờ khi thấy sự việc xảy ra.

- C 22-23: + Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!: Phêrô không muốn Thầy phải bị thua kẻ thù, để mặc chúng bắt bớ giết hại cách nhục nhã trên cây thập tự rồi mới phục sinh vinh quang! Tại sao Thầy không dùng quyền năng để chiến thắng kẻ thù ngay lập tức? + Xa tan, lui lại đàng sau Thầy!: Xa-tan theo nguyên nghĩa là “Tên cám dỗ” hay “Kẻ cản trở”. Lời can ngăn của Phêrô gợi lại cơn cám dỗ của Xa-tan với nguyên tổ A-đam E-và khi xưa (x. St 3,4-5). Câu này tương tự như câu Đức Giêsu xua đuổi ma quỷ cám dỗ sau khi Người ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4,10). Ở đây Đức Giêsu chỉ buộc Phêrô lui lại vị trí người môn đệ, nghĩa là phải đi phía sau Thầy (x. Mt 16,24; Ga 21,22b). + Anh cản lối Thầy: hoặc “anh làm cớ cho Thầy vấp phạm”. Cớ vấp phạm hay là một cái bẫy (x. Tv 124,7), một hòn đá cản đường khiến người ta bị vấp ngã (x. Is 8,14-15; Rm 9,32-33). Vì suy nghĩ theo tình cảm tự nhiên và vì lòng mến Thầy, Phêrô đã vô tình cản lối Người đi khi ông yêu cầu Người bỏ con đường cứu độ đã được Chúa Cha đặt định là “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26). Trước đó, Phêrô vừa được khen là có phúc vì đã tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng giờ đây ông lại bị Thầy trách là tên cám dỗ, và là viên đá gây vấp ngã cho Thầy! + Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người: tương tự như lời tuyên sấm của ngôn sứ I-sai-a: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55,8-9).

- C 24-25: + Ai muốn theo Thầy: Ai tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu, sẵn sàng cộng tác vào công việc xây dựng Nước Trời với Người. Câu này chứng tỏ Đức Giêsu luôn tôn trọng tự do của con người. + Từ bỏ chính mình: Điều kiện để làm môn đệ Đức Giêsu là phải loại bỏ những trở ngại bên ngoài như tình thân gia đình và cản trở bên trong như các thói hư tội lỗi và cách suy nghĩ theo tính xác thịt của mình. + Vác thập giá mình mà theo: Họ cũng phải chấp nhận những đòi hỏi của Tin Mừng, phải chịu đựng những nỗi vất vả và các cơn bách hại do thế gian và các thế lực thù địch với Thiên Chúa gây ra. + Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất: Lời tuyên bố có tính nghịch lý theo kiểu Do thái, dựa trên lòng tin vào một đời sống mới vĩnh hằng sau khi chết. Ai muốn cứu mạng sống thể xác bằng cách bỏ đạo để khỏi bị giết hại thi sẽ bị mất luôn sự sống thiêng liêng ở đời sau. + Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy: Người khôn là người biết chọn sống cuộc đời tạm này thế nào, để sau khi chết sẽ được sống lại và được sống đời đời. Đức Giêsu đưa ra con đường dẫn tới sự sống đời đời là phải sẵn sàng chấp nhận sự hy sinh thiệt thòi, ngay cả mất mạng sống của mình. Ngoài con đường này không còn con đường nào khác để đón nhận được ơn cứu độ.

- C 26-27: + Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi ích gì?: Câu này lặp lại tư tưởng của câu trên. + Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người: Giá trị của cuộc sống thực sự chỉ tỏ hiện trong cuộc chung thẩm vào ngày tận thế. + Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm: Sự thưởng phạt công minh là động cơ khiến người ta sẵn sàng chấp nhận đi con đường hẹp là bỏ mình và vác thập giá đi theo Chúa ngay đời này. Đức Giêsu quả quyết chính Người sẽ ngự đến vào ngày tận thế để xét xử mọi người tùy theo các việc tốt họ đã làm hay không làm khi còn sống.

CÂU HỎI:

1) Tại sao Đức Giêsu phải cho các môn đệ biết về các biến cố Người sắp trải qua tại Giê-ru-sa-lem? Người tiên báo phải chịu khổ nạn thập giá rồi mới vào vinh quang Phục Sinh ba lần nhằm mục đích gì? 2) Tại sao tông đồ Phêrô lên tiếng can gián Thầy và ông đã bị Thầy quở trách như thế nào? 3) Bỏ mình và vác thập giá mình hằng ngày đối với mỗi tín hữu hôm nay cụ thể là bỏ và làm những gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Sức mạnh của cây Thánh Giá

Một người đàn bà đạo đức kia phát hiện mình có khối u ở ngực nhưng lại không dám đến bệnh viện mổ vì sợ mình không thể chịu nổi cơn đau khi mổ. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà đâm hoảng mới chấp nhận mổ, hy vọng sống thêm được một thời gian. Bà có một cậu con trai trong tuổi thanh niên. Khác hẳn bà mẹ, anh con trai này tỏ ra khô khan các việc đạo đức và đã bỏ đến nhà thờ từ khá lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà mẹ yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được đứng bên giúp bà thêm sức chịu đựng cơn đau lúc đang mổ và yêu cầu của bà đã được bác sĩ chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua cơn đau khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con!”. Trườc cảnh tượng mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt ra những lời phàn nàn trách móc Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt và nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn nâng đã an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê, làm dịu đi cơn đau khủng khiếp mà bà đã và đang phải chịu đựng.

Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho con trai và dặn rằng: “Con ơi! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong cuộc đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông ơn Chúa giúp mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.

2) Thánh giá Chúa ban hợp với khả năng mỗi người:

Cây thánh giá mà chúng ta phải chấp nhận mang vác trong cuộc sống đều hợp với khả năng của mỗi người chúng ta. Câu chuyện ngụ ngôn sau đây nói lên điều này:

Có một người đàn ông kia tuy có đức tin vào Chúa nhưng lại hay than trách Chúa để mặc mình phải mang cây thánh giá quá sức chịu đựng là bà vợ luôn “lắm điều nhiều lời” của ông. Lúc nào bà vợ này cũng càm ràm chê trách ông chồng đủ điều. Vào một đêm kia, ông ta nằm mơ gặp một thiên thần hiện ra phán bảo: “Ta thấy con hay than thân trách phận vì phải mang vác thánh giá nặng nề vượt quá sức con. Vậy hôm nay con hãy theo ta vào trong nghĩa trang, nơi mà những người chết được chôn cất đều để lại cây thánh giá đời họ ngay trên phần mộ. Con hãy chọn một cây thánh giá khác phù hợp thay cho cây con đang phải mang”.

Ông ta liền vui vẻ mang theo cây thánh giá theo thiên thần vào nghĩa trang cách chỗ ở không xa, hy vọng sẽ kiếm ra cây thánh giá khác nhẹ hơn. Đến nơi, ông ta lần lượt đi đến các phần mộ người chết để thử hết cây này đến cây khác nhưng mãi vẫn không tìm ra cây thánh giá ưng ý. Vì cây nào nhẹ thì lại dài quá khổ; cây vừa vặn thì lại xù xì gớm ghiếc; còn cây trơn tru láng đẹp thì lại quá nặng nề… Cuối cùng ông đành thưa với thiên thần: “Thưa ngài. Con tìm mãi mà chẳng thấy cây thánh giá nào hợp với con cả. Con xin chọn lại cây thánh giá con đã mang từ nhà ra đây”.

Trên đường về nhà thiên thần đã nói với ông rằng: “Thiên Chúa luôn trao thánh giá cho mỗi người phù hợp với sức của họ và Người luôn ban ơn giúp họ vác thánh giá cuộc đời đến cùng”. Có điều lạ là từ ngày chấp nhận vác cây thánh giá là chịu đựng các thói hư của vợ, ông lại thấy bà không còn xấu tính khó ưa như trước. Nhờ đó cuộc sống chung giữa hai người hòa hợp hạnh phúc trở lại như hồi mới cưới.

3. SUY NIỆM:

Tin Mừng Mát-thêu đã ghi lại con đường Người sắp trải qua như sau: “Con người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phêrô, một người vừa được Đức Giêsu khen có phúc vì đã tuyên xưng đức tin, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Nhưng ông đã bị Đức Giêsu nặng lời quở trách: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giêsu đã có phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phêrô khi xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ cám dỗ. Về sau Phêrô đã dần dần hiểu được thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng chấp nhận đi con đường thánh giá để được cùng chết và cùng sống lại với Thầy. Trong dịp này, Đức Giêsu cũng cho biết điều kiện để trở thành môn đệ của Người như sau:“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

1) Từ bỏ chính mình:

Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ chính mình, nghĩa là bỏ các trở lực bên ngoài như người thân, nghề nghiệp, nhà cửa, ruộng nương... và cả những trở lực bên trong như các thói hư, tội lỗi, lòng ham mê địa vị quyền hành, lòng tham lam của cải bất chính, thói xấu ích kỷ, thích phô trương thành tích để tìm tiếng khen nơi người đời... Đức thánh Cha Phao-lô VI trong buổi triều yết chung ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được ưa thích nhất trong đời sống công giáo là sự từ bỏ chính mình”. Từ bỏ chính mình nghĩa là phải loại bỏ ý riêng để vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua ý của cha mẹ trong gia đình, thầy cô giáo ở nhà trường, luật pháp trong xã hội, đặc biệt là gương sáng và lời dạy của Chúa Giêsu do các mục tử trong Hội thánh rao giảng.

Quan sát các nhà điêu khắc, ta thấy đàu tiên họ lựa ra một phiến đá cẩm thạch ưng ý rồi chọn kiểu mẫu và sơ phác trên phiến đá. Sau đó họ kiên nhẫn đục đẽo, mài dũa cho tới khi hoàn thành một bức tượng mỹ thuật. Cũng thế, trong việc từ bỏ bản thân, chúng ta cần phải loại trừ lòng tham lam ích kỷ, thanh luyện thói hư và những gì rườm rà để tập trung lo việc nhà Chúa như lời Thánh kinh: ”Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69,10).

2) Vác thập giá mình mà theo Chúa:

Đây là khía cạnh tích cực của việc đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Ngoài việc từ bỏ chính mình, chúng ta còn phải chấp nhận chịu đau khổ là vác thánh giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa. Có hai loại đau khổ cần phải mang vác là thập giá và thánh giá:

Thập giá là khổ hình người Roma dùng để trừng trị nô lệ hay lê dân phạm trọng tội chống lại đế quốc. Đức Giêsu đã bị quan Tổng trấn Rô-ma là Pông-xi-ô Phi-la-tô lên án tử hình thập giá do bị áp lực của người Do thái. Đức Giêsu đã biến khổ hình thập giá trở nên thánh giá để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Người mời gọi các tín hữu chúng ta hãy vác cây thập giá của mình hằng ngày mà theo Người để được hưởng ơn cứu độ như lời thánh Phao-lô đã dạy: “Nếu chúng ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sông với Người” (2 Tm 2, 11).

Ai trong chúng ta cũng đều phải vác thánh giá là các đau khổ gặp phải trong cuộc sống. Giáo lý Công Giáo dạy đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bắt đầu là tội Tổ tông và các tội riêng của loài người. Chẳng hạn: Uống rượu nhiều sẽ gây ra ung thư gan… Chúng ta có thể bị chấn thương sọ não trong tai nạn giao thông do tài xế ngủ gục đâm xe vào giải phân cách… Hoặc do chiến tranh đi đường bị trúng bom đạn hoặc do thiên tai như lũ lụt, lở đất, sóng thần… Tuy nhiên vấn đề nói đây là thái độ chúng ta phải có khi gặp đau khổ: Ta sẽ can đảm chịu đựng phấn đấu vượt qua cơn đau hay chỉ biết than thân trách phận?

3) Vững lòng cậy trông phó thác khi gặp đau khổ:

Các tín hữu thực sự tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau, thì sẽ sẵn sàng chấp nhận thua thiệt mất mát và ngay cả mất mạng sống ở đời này, vì tin rằng Chúa sẽ đoái thương bù đắp gấp bội là hạnh phúc Nước Trời đời sau. Một bạn trẻ muốn lên đại học, nhưng lại thi rớt, cũng đừng nản lòng thất vọng. Hãy chấp nhận thập giá là sự thất bại nhất thời và hy vọng Người sẽ ban một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Một người muốn có một gia đình hòa hợp hạnh phúc và làm ăn tấn tới, nhưng chẳng may gia đình luôn bất hòa và công việc làm ăn không mấy suông sẻ… thì cũng đừng nản lòng, vì Thiên Chúa cha giàu lòng từ bi thương xót có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Người luôn ban ban cho chúng ta những điều tốt lành như lời Chúa Giêsu: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).

Thiên Chúa để cho chúng ta phải chịu các đau khổ trong cuộc sống là để thử thách đức tin của chúng ta. Người muốn chúng ta vui vẻ đón nhận những điều trái ý cực lòng để chúng ta học tập nơi Đức Giêsu: Luôn vâng theo ý Cha như Người đã cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

Thánh Phao-lô tông đồ cũng chia sẻ kinh nghiệm chịu đau khổ như sau: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái “dằm” đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh. Vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuôi, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9-10).

4. THẢO LUẬN: 1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ hôm nay? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác theo chân Chúa là những gì? 3) Gặp một người đau khổ tuyệt vọng vì bị thất bại tán gia bại sản không còn thiết sống, bạn sẽ động viên họ thế nào để vui sống trở lại?

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa luôn có thái độ bình thản trước cuộc khổ nạn sắp xảy đến. Chúa đã vui lòng chấp nhận thua thiệt để nêu gương can trường cho chúng con. Hiện nay, vẫn đang có nhiều tu sĩ nam nữ tận hiến phục vụ những người bệnh tật, đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.

- Lạy Chúa Giêsu. Khi nhìn lại bản thân, chúng con cảm thấy xấu hổ khi thấy mình quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến bản thân và bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh gần bên. Xin Chúa giúp chúng con biết luôn “bỏ mình”: nghĩa là bỏ đi cái tôi ích kỷ tự mãn, để khiêm tốn phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ. Xin cho chúng con chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và bước theo chân Chúa lên Núi Sọ, để cùng chịu chết, cùng được an táng với Chúa và ngày thứ ba sẽ được cùng sống lại với Chúa trong vinh quang.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ