Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 65

Tổng truy cập: 1449963

CON ĐƯỜNG CỦA MỌI THĂNG HOA

Con đường của mọi thăng hoa biến thái

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Phêrô đã tuyên xưng, đã công khai xác nhận Đức Giêsu là Đấng Messia. Đức Giêsu biết rõ niềm tin vào Đấng Messia có thể tự nhiên phát sinh thế nào trong tâm trí các tông đồ, các ông dễ sa vào nguy cơ trông đợi nơi Chúa một vương quốc thần kỳ, dẫu theo chế độ giáo quyền nhưng sẽ thiết lập trên thế gian. Phêrô, Giacôbê và Gioan được Chúa mời gọi cùng đi với Người đến nhà ông Jairô, sau này Chúa cũng mời gọi họ làm chứng nhân -nhưng than ôi, là những chứng nhân bị động– để tận mắt thấy Chúa trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu. Chúa muốn mạc khải cho ba ông biết công cuộc cứu độ của Người sẽ hoàn tất thế nào. Người sẽ được quang vinh nhưng chỉ sau khi sống lại, trước đó chúa phải vượt qua giai đoạn đau khổ và chết. Chúng ta ghi nhận, thánh Luca mô tả sự biến hình của Chúa không phải do tác dụng một nguồn sáng từ bên ngoài thấm vào cơ thể Chúa, nhưng là do một thực tại từ bên trong tràn ra, toả ra ngoài. Dung nhan Chúa ra khác. Ba môn đệ lúc đó mi mắt nặng trĩu trong cơn thèm ngủ, nghe thấy Chúa đàm đạo với hai tiên tri Môsê và Êlia, nhưng không đủ tỉnh để có phản ứng. Các ông sửng sốt thấy Chúa sáng láng giữa Môsê và Êlia. Như tỉnh như mê, Phêrô đề nghị dựng ba căn lều. Ý Chúa rõ rệt là muốn cho ba môn đệ ý thức có một liên hệ giữa đau khổ và chết với sống lại và vinh quang. Chừng nào tới ngày thương khó, các ông dĩ nhiên sẽ hoang mang bối rối nhưng không thể quên lời Chúa hứa, các ông sẽ không đến nỗi hoàn toàn tuyệt vọng…

Chúng ta chú ý đến tiếng phán từ đám mây: “Người là Con Ta, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hay nghe lời Người”.

1) Phẩm vị của Đức Giêsu được mạc khải. Đấng Messia đến thực thi những điều mà lề luật và các ngô sứ Môsê và Êlia tiên báo. Người là Chúa Con, kẻ được chọn, được Chúa Cha rất mực yêu dấu. Dường như ngay từ lúc đó Chúa Cha muốn chữa lành đau khổ của thế gian bằng đau khổ của Chúa Con. Muốn trông thấy vinh hiển của vũ trụ qua vinh hiển của Chúa Con. Thiên Chúa nhìn đau khổ và cái chết của chúng ta qua đau khổ và cái chết của Đức Giêsu, nghĩa là hứa cho chúng ta sẽ được sống lại và cứu rỗi. Về phần mình, chúng ta nhìn Thiên Chúa qua thiên tính rất hiền dịu của Đức Giêsu.

2) Các ngươi hãy nghe lời Người… và chỉ rao giảng về Người. Sứ điệp gửi đến nhân loại phải là dư âm lời của Đức Giêsu mới có giá trị. Thiên Chúa đòi hỏi một điều quá khó, cho nên nghe Lời Chúa có thể là rất khó, mang Lời Chúa đến cho người khác còn khó hơn. Chẳng ai muốn nghe nói đến đau khổ chết chóc xảy đến cho mình hay cho kẻ khác, dẫu phía sau cái chết có một niềm hy vọng. Tuy nhiên ý nghĩa bí tích thanh tẩy là gì, nếu chẳng là cùng với Chúa chết và sống lại? Tham gia vào cuộc Vượt qua kéo theo những hệ quả rõ rệt là xác định vị trí người Kitô hữu như là một dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Dẫu sao, tín đồ nào của Đức Kitô chấp nhận sứ điệp tới cùng, nghe tới cùng, người ấy cũng là một con người đôi phen được thăng hoa biến thái.

 

48. Qua thập giá đến vinh quang.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Năm 1982, các nữ tu Dòng Con Đức Bà Phù Hộ, quen gọi là Dòng nữ Salêsiên ở Cáp bên Haiti, muốn thuê nhà điêu khắc Pêrikhêt làm một cây thánh giá lớn để đặt trong nhà thờ mới của các chị. Nhưng lúc đó, ông Pêrikhêt đã bị ung thư nặng.

Các chị nhờ một nữ tu cùng dòng đến gặp nhà điêu khắc để nói về ý định này. Hôm đó viên bác sĩ của ông cũng có mặt, ông nói với chị nữ tu:

– Lẽ ra chỉ phải đến đây sớm hơn. Rất tiếc là bây giờ căn bệnh ung thư của ông Pêrikhêt đã quá nặng rồi. Im một lát, bác sĩ quay sang nói với nhà điêu khắc:

– Ông là người có đức tin, vậy ông cứ tiếp tục hy vọng dù có điều gì xảy ra đi nữa.

Từ ngày đó, nhà điêu khắc Pêrikhêt chẳng muốn cầm bút để rèn tác phẩm nghệ thuật nào nữa.

Vài ngày sau, một nữ tu lại đến gặp ông và năn nỉ:

– Ông Giovani Pêrikhêt à, các nữ tu ở nhà thờ mới tại Cáp mong muốn ông làm cho các chị ấy một cây thánh giá thật đẹp, dài hai mét. Họ biết tài năng của ông mà. Trước khi trả lời dứt khoát cho họ, tôi muốn hỏi ý kiến ông một lần nữa.

Nhà điêu khắc trầm ngâm suy nghĩ và cầu nguyện, rồi ông bình thản nói với chị nữ tu:

– Tôi xin nhận lời. Cây thánh giá này sẽ là tác phẩm cuối cùng, tôi sẽ làm cây thánh giá nầy để chuẩn bị chết, và xin Chúa thương xót tôi.

Thế là nhà điêu khắc bắt tay vào công việc với tất cả tâm hồn của một người mong gặp được Chúa Giêsu. Đây thật là một công việc nặng nhọc vì bệnh tình của ông. Nhưng ông cảm thấy một điều thật lạ lùng, mỗi nhát búa đập trên thanh sắt nóng đỏ, thay vì làm cho ông mệt mỏi thêm, thì lại làm cho ông cảm thấy như được bồi dưỡng sinh lực trở lại. Ông tiếp tục làm việc ngày qua ngày, và khi ông hoàn thành cây thánh giá thật đẹp, ông cảm thấy như khoẻ hẳn. Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi căn bệnh quái ác.

Ngày nay, cây thánh giá do ông thực hiện vẫn còn được treo ở nhà thờ thánh phố Cáp và tiếp tục thu hút nhiều tín hữu: người lành mạnh cũng như kẻ yếu đau đến kính viếng thường xuyên.

Anh chị em thân mến,

Nhà điêu khắc Giovani Pêrikhêt tưởng rằng cây thánh giá ở nhà thờ thành phố Cáp ấy sẽ là tác phẩm cuối cùng. Ông dùng cây thánh giá ấy để chuẩn bị chết. Nhưng với niềm tin và lòng hăng say rèn cây thánh giá, Pêrikhêt đã được Chúa thương cách đặc biệt và chữa cho khỏi bệnh ung thư. Đó là hình ảnh ơn cứu độ mà Thánh giá Chúa Kitô đã, đang và sẽ còn đem đến cho nhân loại. Chính vì để củng cố niềm tin của chúng ta vào ơn cứu độ và niềm hy vọng vào sự sống vinh quang ngang qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô, mà hằng năm, vào Chúa Nhật 2 Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cho nghe bài đọc Tin Mừng tường thuật cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu, nhờ đó người Kitô hữu ý thức rằng sự Chết và Phục Sinh, thập giá và vinh quang là hai mặt của cùng một thực tại cứu độ không thể tách rời nhau. Vinh quang mà không có khổ nạn chỉ là vinh quang của thế tục, sẽ nhạt nhoà theo năm tháng; ngược lại, khổ nạn mà không có vinh quang thì vô nghĩa và là một thất bại hoàn toàn. Do đó, sống tinh thần Mùa Chay có nghĩa là gắn bó chặt chẽ với cái Chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô: chết đi cho con người cũ và tội lỗi, chết đi cho con người đối nghịch với Thập giá để cùng sống lại với Đức Kitô, Đấng có thể “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Bđ. 2)/

Đây chính là một quá trình lột xác đầy gian khổ nhưng cũng tràn ngập vinh quang mà sự kiện Chúa biến hình được gợi lại trong Chúa nhật hôm nay, đã trở nên như một lời loan báo và một lời động viên khích lệ tín hữu. Loan báo điểm tới là Phục Sinh đang ở phía trước, đồng thời động viên khích lệ người Kitô hữu hãy can đảm tiếp tục cuộc hành trình dù lắm gian nan.

Để có thể trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã sống và vạch ra, người Kitô hữu không thể coi nhẹ hay dửng dưng với tâm tình cầu nguyện. Chính trong giây phút cầu nguyện, chìm sâu trong cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã đón nhận kế hoạch cứu độ của Cha như lẽ sống của đời mình, đây cũng là lúc Ngài biến hình vinh quang; được tỏ lộ khi Ngài chấp nhận cái chết như một phương thế tuyệt hảo để tỏ lòng vâng phục Cha và yêu thương nhân loại đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình. Vì thế, trong cuộc sống còn lắm vất vả bon chen và không hề thiếu vắng những cạm bẫy thử thách hôm nay, chỉ có sự chuyên cần cầu nguyện, thường xuyên đón nhận ánh sáng soi dẫn, và sức mạnh đỡ nâng của Chúa, người Kitô hữu mới thoát khỏi sự hoang mang sợ hãi hay trạng thái mê ngủ, trốn tránh thực tại trần thế với những bổn phận và trách nhiệm phải thi hành. Đành rằng quê hương vĩnh cửu ở trên trời nhưng đường lên trời lại khởi đi từ mặt đất, từ chính cuộc sống mà chúng ta phải xây dựng và làm cho phát triển mỗi ngày.

Anh chị em thân mến,

Một khi đã chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô trên núi biến hình như Phêrô, Giacôbê và Gioan rồi, thì việc còn phải làm là đi theo Ngài trên con đường khiêm tốn phục vụ anh em và không vắng mặt trên các nẻo đường tiến lên đỉnh Golgotha, những nẻo đường đau thương và tử nạn thập giá với Ngài, với niềm xác tín rằng Đức Kitô Phục Sinh sẽ chia sẻ vinh quang cho các tín hữu trung thành.

Ước gì Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa chúng ta lãnh nhận trong thánh lễ hôm nay sẽ bổ sức, giúp chúng ta mạnh mẽ bước vào lòng đời để sống cho Chúa và hiến mạng vì anh em trong một cuộc sống lắm hy sinh gian khổ, nhưng cũng không kém vinh quang, vinh quang thấp thoáng hôm nay sẽ bộc lộ trọn vẹn mai sau.

 

49. Chúa biến hình – McCarthy

Suy Niệm 1. THOÁNG HIỆN CỦA VINH QUANG

Trên Núi Tabo, ánh sáng của Thiên Chúa toả ra từ cơ thể của Đức Giêsu, và Người được biến hình. Cả ba Tông đồ đều loá mắt trước vẻ đẹp và sự chói chang của ánh sáng này. Ánh sáng này không ở trên bề mặt, nhưng chiếu toả ra từ bên trong. Nói tóm lại, Thiên Chúa ở trong Đức Giêsu.

Chúng ta cũng có nét rạng ngời của thần tính nơi chúng ta, bởi vì chúng ta được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta cũng có thể có những giây phút biến bình. Van Gogh nói “Người tiều phu hoặc thợ mỏ nghèo nàn nhất, vẫn có thể có những giây phút đầy xúc động và cảm hứng, giúp cho người đó được một cảm giác về một quê hương vĩnh cửu, mà họ đang ở gần”.

Có một người nghèo khổ đang sinh sống ở một trại tế bần, dành cho những kẻ vô gia cư ở Dublin, đã kể lại câu chuyện sau đây: Ngày kia, anh ta đang đi bộ dọc theo một con đường ở Dublin. Đến một lúc nào đó, anh phát hiện ra rằng mình đang ở bên ngoài một nhà thờ. Trước khi nhận ra điều này, thì anh đã ở bên trong đó rồi. Anh không thể nhớ lại được rằng mình có đọc bất cứ lời cầu nguyện nào hay không. Nhưng linh hồn của anh được tràn ngập ánh sáng. Nỗi phiền muộn của anh được cất đi, và một sự bình an đến với anh. Sau đó, anh mới cảm thấy rằng mình thuộc về trái đất này. Anh cảm thấy gần gũi với Thiên Chúa, và được Người yêu thương.

Dường như cảm nghiệm này diễn ra được một lúc lâu, tuy nhiên, anh vẫn có cảm giác rằng có thể nó chỉ kéo dài trong vài phút. Nhưng anh nói rằng anh sẵn sàng vui mừng dùng cả cuộc đời của anh, để đổi lấy vài giây phút đó. Điều làm cho cảm nghiệm này quá tuyệt vời đến thế, là do anh nhận ra rằng mình tuyệt đối không hề xứng đáng được như vậy. Đó thuần tuý là do ân sủng của Thiên Chúa đối với anh. Trong một giây phút ngắn ngủi, anh cảm nếm được vinh quang.

Tuy nhiên, sau giây phút đó kết thúc, một lần nữa, anh nhận thấy mình lại đang ở trên những con đường, và cứ đi dọc theo đó một cách vô định, giống như lúc trước. Những hiệu quả của cảm nghiệm đó mờ nhạt đi. Mặc dù anh đã trở lại ngôi nhà thờ đó nhiều lần, nhưng anh không bao giờ có thể tìm lại được giây phút ấy.

Người đàn ông vô gia cư kia mong muốn duy trì được cảm nghiệm đó. Anh ta cứ muốn quay trở lại, thay vì tiến lên phía trước, tuy anh ta vẫn có thể sử dụng cảm nghiệm vừa qua, để soi sáng cảnh tối tăm trong cuộc đời anh, và tiến lên phía trước một cách đầy hy vọng và can đảm hơn.

Phêrô cũng phạm phải cùng một khuyết điểm đó. Ông cứ muốn được ở lại trên đỉnh núi, muốn được khư khư giữ lấy ân sủng của cảm nghiệm này. Ông không muốn quay trở lại với cuộc sống hằng ngày và những thứ thông thường nữa, nhưng cứ muốn được mãi mãi ở lại trên vùng đất đầy niềm say mê phấn khích đó. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi ông xuống núi, và đối diện với tương lai. Cảm nghiệm này không có ý tạo ra một sự trốn thoát khỏi cuộc đấu tranh đang nằm ở phía trước, nhưng là để giúp Người sẵn sàng đương đầu với cuộc đấu tranh đó. Giây phút đầy ánh sáng, là để giúp Người đương đầu với giây phút đầy bóng tối.

Tuy nhiên, rõ ràng là có một điều gì rất tuyệt vời của ngày hôm đó vẫn còn ở lại với Phêrô, và soi sáng cuộc sống của ông, bởi vì nhiều năm sau, ông đã viết “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người… khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến” (2P 1,17-18).

Chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút đầy ánh sáng và niềm vui hiếm hoi đó. Chúng ta đã được thoáng nhìn thấy miền đất hứa, mà chúng ta đang hướng tới trong lòng tin. Trong tình yêu dành cho chúng ta, Thiên Chúa cho phép chúng ta cảm nếm được ngay tại thế này, về những niềm vui của thế giới sắp tới. Nhưng chúng ta được ban cho những giây phút biến hình này, để củng cố chúng ta trong những bổn phận hằng ngày, và để mang lại cho chúng ta khả năng để đương đầu với thánh giá sẽ đến với từng người, dưới những hình thức hoặc hình dạng khác nhau. Giây phút vinh quang không tồn tại vì mục đích riêng của nó. Giây phú này tồn tại để khoác lên cho những sự vật thông thường một vẻ chói sáng, mà trước đây chúng chưa bao giờ có.

Lời cầu nguyện và đạo giáo không phải là sự trốn thoát, mà là những phương tiện để giúp đỡ chúng ta đương đầu với cuộc sống, với tất cả những khó khăn và thử thách của nó, để chúng ta nắm giữ được những giây phút cao cả lẫn thấp hèn của cuộc đời, cả đỉnh đồi cao lẫn tận dưới hố sâu.

Suy Niệm 2. GIAO ƯỚC

Có sự khác biệt lớn giữa Giao Ước và hợp đồng. Giao Ước thì dựa trên tình yêu thương và sự thân thiện, trái lại, hợp đồng là một sự sắp xếp công việc kinh doanh một cách chặt chẽ. Xã hội của chúng ta không còn có nhiều Giao Ước nữa, nhưng hầu hết mọi việc thường được xúc tiến bằng hợp đồng. Hợp đồng bị vi phạm, và mất đi sức mạnh ràng buộc của nó, khi một trong hai bên đối tác không thực hiện được phần việc của mình, theo như đã thương lượng với nhau. Thiên Chúa không ký kết hợp đồng với con người; nhưng người đã thực hiện một Giao Ước với chúng ta.

Thiên Chúa là Thiên Chúa của sức mạnh. Nhưng Người cũng là Thiên Chúa của tình yêu và lòng thương xót. Trong cách cư xử với chúng ta, Thiên Chúa chọn lựa đi theo con đường của tình yêu, hơn là con đường của sức mạnh. Thiên Chúa muốn được chúng ta yêu mến, chứ không phải là sợ hãi. Nếu bạn yêu mến một người nào đó, bạn nhường chỗ cho người đó, và tạo cho họ có quyền được là chính bản thân họ. Nếu bạn muốn có quyền lực trên người nào, thì bạn cứ cố gắng kiểm soát người đó, và buộc họ phải làm theo ý thích của bạn, mặc dù họ muốn hoặc không muốn. Nhưng bạn không thể đồng thời vừa yêu thương vừa sử dụng quyền lực, hai yếu tố này xung khắc với nhau.

Để yêu và được yêu, Thiên Chúa phải ban cho chúng ta phạm vi để chọn lựa. Người không thể giành lấy tất cả mọi quyền lực, và không để lại chút gì cho chúng ta. Giao Ước giữa Thiên Chúa và nhân loại phải có gì nhiều hơn là chủ đề về một Thiên Chúa toàn năng ban bố Lề Luật. Đây phải là sự thoả thuận một cách tự do giữa hai bên đối tác tự do.

Nếu chúng ta vâng phục Thiên Chúa, bởi vì chúng ta e sợ Người, bởi vì quá bị quyền lực của ngài áp đảo, đến nỗi chúng ta không dám phản kháng, thì Người chỉ có sự vâng phục của chúng ta, chứ không có được tình yêu của chúng ta.

Bài đọc 1 nói về Giao Ước long trọng mà Thiên Chúa đã thực hiện với Ápraham. Sau câu chuyện cuộc sáng tạo, đây là giây phút chủ yếu rong Cựu Ước. Có thể nói rằng câu chuyện cứu độ của chúng ta được bắt đầu ở đây. Thiên Chúa không từ bỏ dân tộc đã bị sa ngã của Người, nhưng thông qua Ápraham, Người đã đi vào một tương quan đặc biệt với họ. Mối tương quan này không giống như mối tương quan tồn tại giữa các bên đối tác trong kinh doanh, mà tương tự như mối tương quan tồn tại giữa vợ chồng. Có thể tóm tắt mối tương quan này trong một công thức, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Cựu Ước: “Các ngươi sẽ là dân của Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”.

Không phải Ápraham, mà là chính Thiên Chúa, đã đi bước đầu trong mối tương quan này. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Người cũng hứa rằng dòng dõi của ông sẽ có một vùng đất riêng của họ, và nói rằng thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Mêsia sẽ đến từ dòng dõi của ông.

Mặc dù con người đã vi phạm Giao Ước của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn không từ bỏ họ. Thay vào đó, thông qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô, Người đã tự ràng buộc mình vào gia đình nhân loại một cách gần gũi hơn, bằng một sự ràng buộc không bao giờ có thể bẻ gãy được.

Lời hứa của Thiên Chúa với Ápraham đã được nên trọn nơi Đức Giêsu. Chính thông qua Người, mà tất cả các dân tộc trên trái đất đều được chúc phúc. Đức Giêsu đã hàn gắn lại Giao Ước bằng chính máu của Người. Thông qua Người, chúng ta được gần gũi hơn bao giờ hết với Thiên Chúa. Chúng ta không chỉ là dân Thiên Chúa, mà còn là những con trai và con gái của Người, chúng ta thuộc về gia đình của Người.

Đức Giêsu là người đứng đầu trong Dân Tộc mới của Thiên Chúa. Vùng đất mà Người đang đưa dẫn chúng ta hướng tới không phải là vùng đất nào đó ở trên trái đất, nhưng là vùng đất của sự sống đời đời.

CÂU CHUYỆN KHÁC: Tabo và Canvê

Không có gì lạ lùng khi sự biến hình của Đức Giêsu diễn ra trên một đỉnh một ngọn núi có một nét gì đó, nó mang lại cho chúng ta một tầm nhìn rộng rãi hơn và bao trùm lên tất cả. Ngọn núi cũng giúp chúng ta nhìn thấy khuôn mẫu của các sự việc, và đặt chúng vào một viễn cảnh. Ngọn núi còn nâng tâm hồn chúng ta lên. Chúng ta được ở trong sự hiện diện của sự uy nghiêm và nét đẹp vĩ đại. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy mình đang được ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trên Núi Tabo, bầu trời trong sáng. Đức Giêsu đang cầu nguyện. Trong khi Người cầu nguyện, khuôn mặt của Người toả sáng, và quần áo Người trắng như tuyết. Đứng bên cạnh Người, có Môsê –người ban bố luật vĩ đại. Phía bên kia, có Êlia –vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ. Một đám mây chói sáng bao phủ họ, tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ được nghe thấy giọng nói của Chúa Cha phát ra qua đám mây, với những lời đầy yêu thương: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người”. Phêrô thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Thầy muốn, con sẽ dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Êlia, và một cho Môsê”.

Phêrô cứ muốn được ở lại trên núi. Ông muốn xây dựng một thiên đàng an toàn tại đó, cách xa khỏi tất cả những rắc rối và nguy hiểm. Nhưng mục đích của cuộc biến hình này không phải để khuyến khích họ trốn thoát thực tại, mà để khích lệ và củng cố Đức Giêsu và các Tông đồ nữa, để họ có khả năng quay trở lại, hầu đương đầu với những rắc rối và nguy hiểm mà họ đã để lại phía sau.

Họ cần có thật nhiều sức mạnh! Bởi vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi khác, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu, sẽ đầm đìa mồ hôi và máu. Quần áo của Người sẽ không còn chói sáng nữa, mà sẽ bị lột khỏi thân mình Người. Đức Giêsu sẽ có hai tên trộm cướp làm bạn đồng hành. Sẽ không có tiếng nói phát xuất từ trời nữa, nhưng chỉ có những giọng nói chế giễu và nhạo báng mà thôi. Các môn đệ sẽ bị tản mác, và không muốn tham dự vào những sự việc đang diễn ra.

Điều duy nhất vẫn còn, đó là một lần nữa, Đức Giêsu sẽ lại cầu nguyện. Từ hình ảnh này, rõ ràng là điều giúp cho Người vẫn chịu đựng được, cả trong những giây phút sáng sủa lẫn tối tăm ảm đạm, đó là nhờ ở mối tương quan đặc biệt của Người đối với Chúa Cha.

Hy vọng rằng tất cả chúng ta đều có thể có được một số kinh nghiệm về Núi Tabo, ngọn núi của niềm vui mừng và hớn hở. Nhưng chắc hẳn chúng ta quen thuộc với Núi Canvê hơn. Chúng ta có khuynh hướng đi từ ngọn núi này sang ngọn núi kia. Trên Núi Tabo, chúng ta được thoáng thấy vẻ đẹp của Thiên đàng: do được khích lệ, được phấn chấn, có thể chúng ta đã nghĩ rằng “Thật tốt đẹp khi được ở đây”. Thật ra chúng ta lại bị đắm chìm trong nỗi đau khổ của Núi Canvê. Trên Núi Canvê, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể học hỏi được cách nói rằng “Mọi sự sẽ hoàn tất”. Đây có thể là một phương pháp tốt, dành cho một bài giảng để chia sẻ. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách đặt ra câu hỏi như “Ngày nào hoặc kinh nghiệm nào là hạnh phúc nhất trong cuộc đời của bạn? Ngày buồn thảm hoặc tối tăm nhất trong cuộc đời bạn là gì?”

 

50. Đỉnh núi vinh quang.

(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)

Đây là một trụ mốc khác trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúng ta nên nhớ rằng Ngài đang sửa soạn lên Giêrusalem và lên thập giá. Chúng ta đã chiêm ngưỡng giờ phút quan trọng khi Ngài hỏi các môn đệ xem họ nhận thức Ngài là ai để Ngài khám phá xem ai có hiểu được Ngài chưa. Nhưng có một điều Chúa Giêsu không bao giờ làm –Ngài không bao giờ thực hiện điều gì nếu không được sự chấp thuận của Chúa Cha. Trong khung cảnh này, đó là điều mà chúng ta thấy Ngài đang tìm kiếm và đang nhận lãnh. Những gì xảy ra trên Núi Biến Hình, chúng ta không bao giờ có thể biết được, chỉ biết rằng có một sự lạ lùng đáng sợ đã xảy ra. Chúa Giêsu đã đi đến đó để tìm kiếm sự chấp thuận của Chúa Cha cho bước quyết định mà Ngài sắp thực hiện. Tại đó có Môsê và Êlia hiện đến với Ngài, Môsê là nhà lập pháp lớn nhất của dân tộc Do Thái. Êlia là người lớn nhất trong các ngôn sứ. Việc này chẳng khác nào các thủ lãnh của dân Israel về đời sống, về tư tưởng, về tôn giáo cùng đến bảo Chúa Giêsu cứ tiến bước. Bây giờ Chúa Giêsu có thể tiến lên Giêrusalem vì biết rằng có một nhóm người đã hiểu biết Ngài là ai, biết công việc Ngài đang làm gồm tất cả đời sống, tư tưởng và hành động của dân tộc Ngài, và biết rằng Chúa Cha đã ưng thuận bước đường Ngài đang đi.

Có một câu rất linh động ở đây, câu này đề cập đến ba vị tông đồ, “khi tỉnh dậy, các ông đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu”.

  1. Trong cuộc sống, chúng ta mất mát quá nhiều vì tâm trí chúng ta mê ngủ. Có nhiều điều thường làm cho trí chúng ta mê ngủ.
  2. Thành kiến. Chúng ta có thể bị đóng khung trong tư tưởng đến nỗi trí chúng ta khép kín lại. Một ý tưởng mới đến gõ cửa lòng chúng ta, nhưng như người ngủ mê, chúng ta không muốn thức dậy.
  3. Tê liệt tâm hồn. Nhiều người không thích cố gắng suy nghĩ. Plato nói “Một đời sống thiếu suy nghĩ là một cuộc đời không đáng sống”. Nhưng mấy ai trong chúng ta chịu khó suy nghĩ mọi việc cho đến cùng? Đôi khi chúng ta lười biếng đến nỗi không còn muốn đối diện với các vấn đề và các nghi hoặc của mình.
  4. Thích an toàn. Có một thứ tinh thần tự vệ trong chúng ta khiến chúng ta tự nhiên đóng cửa lòng lại trước bất cứ tư tưởng rắc rối nào. Người có thể phục thuốc mê cho tâm trí mình tới độ nó ngủ say.
  5. Nhưng đời sống cũng chứa đầy những sự việc có tính chất làm tỉnh thức chúng ta.
  6. Sự đau buồn. Elgar đã nói về một ca sĩ trẻ tuổi, có tài năng, nhưng thiếu sức truyền cảm trong giọng ca: “Nàng sẽ nổi tiếng như cồn khi nào có một biến cố khiến lòng nàng tan vỡ”. Thường nỗi đau buồn có thể làm con người sực tỉnh, lúc ấy, qua mắt, người đó sẽ thấy được vinh hiển.
  7. Tình yêu. Browing viết về hai người phải lòng nhau. Nàng nhìn chàng, chàng nhìn nàng bằng trái tim chan chứa tình yêu “và bỗng nhiên đời sống bừng tỉnh dậy”. Tình yêu thật khiến chúng ta thức tỉnh trước những chân trời mới mà chúng ta chưa bao giờ mơ tưởng đến.
  8. Sự cảm biết nhu cầu. Có thể có một người đã sống khá lâu trong thói quen, nên đã như nửa tỉnh nửa mê, thế rồi bỗng đâu xảy đến trong đời người đó nan đề, một vấn nạn không thể giải đáp, một cám dỗ không thể lướt thắng, một tiếng gọi vượt xa quá khả năng mình. Lúc đó, người ấy không còn biết làm gì hơn là “kêu khóc nắm lấy vạt áo trời”. Và sự cảm biết nhu cầu như vậy thức tỉnh người đó đến với Chúa. Chúng ta phải cầu nguyện rằng “Lạy Chúa xin giữ con luôn tỉnh thức với Ngài”.

 

51. Chúa Giêsu hiển dung – Hugues Cousin

Cảnh này hiển nhiên là một trong những lời đáp chủ chốt cho câu hỏi khúc mắc của Hêrôđê. Liên hệ của nó với lời tuyên xưng của Phêrô không phải nhỏ: sau lời loan báo gây hoang mang về cuộc thụ nạn của Con Người (c,22), Phêrô và hai người bạn được củng cố khi mặc khải về vinh quang của Đấng Phục Sinh. Hơn nữa, cảnh này được gắn liền rõ rệt với cảnh trước (khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy (c.28) và thực hiện một phần những gì Chúa Giêsu vừa mới hứa (9,27). Cuối cùng nó khai mở một cách rõ rệt con đường hướng về Giêrusalem đối tượng cho phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.

Thể văn khác biệt một cách sâu sắc với những gì chúng ta đã gặp cho tới bây giờ: chuyện phép rửa của Chúa Giêsu cũng là một dịp cho một cuộc hiển linh, một cuộc Thiên Chúa bày tỏ mình. Tuy nhiên ở đây, việc hiển linh cho ta nghe (cc.34-35), lại theo sau một loại hiển linh của Chúa Giêsu cho ta nhìn thấy (cc. 29-33). Như trong cuộc hiển linh ở phép rửa, chính căn tính của Chúa Giêsu là vấn đề được đặt ra từ đầu đến cuối.

Phần nhập đề (c.28) gồm hai nét cho thấy, nơi Luca, tính cách quan trọng của hoạt cảnh và sự gần gũi của Chúa Giêsu với Cha Ngài: núi và việc cầu nguyện (x. 6,12). Việc chọn Phêrô, Gioan và Giacôbê được giải thích bởi sự kiện họ đã từng là nhân chứng việc chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự chết (8,31-35).

Chính trong khi cầu nguyện ban đêm mà dung mạo Ngài bỗng đổi khác (c.29) và ba môn đệ nhìn thấy vinh quang của Ngài (c. 32). Khác với Maccô, Luca không dùng từ “biến đổi” hình dạng những vẫn ở trên một bình diện; đó là một trong những cách diễn tả theo một vài phái của Do Thái giáo, niềm tin vào sự sống lại của những người công chính. Sau ngày phán xét “vẻ huy hoàng của những người công chính sẽ chói ngời khi được biến đổi: gương mặt họ sẽ biến đổi thành một vẻ đẹp sáng ngời để họ có thể chiếm hữu thế giới không hề chết… Họ sẽ giống như các thiên thần, họ sánh được với các tinh tú. Họ sẽ mang lấy tất cả mọi dáng vẻ tuỳ theo ý họ, từ cái đẹp đến vẻ huy hoàng, từ ánh sáng đến chói ngời vinh quang” (Khải huyền Syria của Baruch, 51 –cuối thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên ta). Mặc lấy vinh quang đó là tham dự ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa hằng sống, được nâng lên tới một phẩm giá tuyệt vời, còn y phục trắng tinh, chói loà, nó cũng nói lên rằng Chúa Giêsu đang đi vào lĩnh vực thiên giới. Bằng cách đó, Chúa Giêsu như đã mặc lấy, bằng việc tham dự trước và một cách tạm thời, vinh quang vượt qua mà Ngài sẽ thừa hưởng như Đấng Phục Sinh. Nhưng có lẽ Luca cũng nghĩ rằng vinh quang này đã ngự trị nơi Chúa Giêsu trước lễ Vượt Qua, và rằng, do hiệu quả của lời cầu nguyện, Ngài không thể ngăn cản nó chiếu toả ra từ thân xác Ngài.

Môsê và Êlia từ nay cũng thuộc về thế giới thiên quốc (cc.30-31). Hai nhân vật ngôn sứ này tượng trưng cho Luật và các ngôn sứ, hai cánh cửa chính của Thánh Kinh trong đó đã loan báo Chúa Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài (24,26-27). Các ông không bày tỏ với Chúa Giêsu về cuộc xuất hành sự việc thụ nạn và lên trời của Ngài –những điều mà Thầy vừa nói với các kẻ thuộc về Ngài (9,22). Các ông bày tỏ cho Ngài thấy rằng những điều đó phù hợp với chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông cũng tiết lộ cho Chúa Giêsu và cho độc giả, nhưng không cho các môn đệ, vai trò trung tâm của Giêrusalem trong chương trình cứu độ ấy. Giấc ngủ mà ba môn đệ thoát ra được cách khó khăn muốn nói lên rằng họ thoáng nhận ra được cuộc mặc khải –Phêrô biết được lai lịch của các người nói chuyện- nhưng không đón nhận được hoàn toàn. Bài đọc Kinh Thánh về cuộc thụ nạn họ không hiểu nổi; họ còn phải đợi Chúa Giêsu mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (22,44-45). Họ chỉ thấy vinh quang, mà không hiểu rằng phải qua đau khổ mới có thể đạt tới được (x.24,26). Và việc Môsê và Êlia ra đi cho thấy cuộc thị kiến làm họ hứng khởi sắp kết thúc, người phát ngôn mới tìm cách kéo dài giây phút ưu đãi này bằng lời đề nghị dựng lên những cái lều, là đặc điểm của Lễ Lều (Lv 23,33-36). Với tính cách Mêsia của nó, lễ này là thời gian vui mừng, như một tham dự trước vào thời tận cùng của lịch sử. Khi Phêrô ước mong cuộc hiển linh này kéo dài, ông không biết mình đang nói gì; chắc chắn viễn ảnh cuộc thụ nạn chưa ở trong tầm nhìn của ông.

Đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa (x. Ds 9,15-22) –điều này giải thích sự hoảng sợ thánh xâm chiếm các môn đệ. Trái với lần hiển linh ở phép rửa, khi ấy tiếng nói của Thiên Chúa phán bảo với Chúa Giêsu (3,22), ở đây chính ba ông được mặc khải rằng Chúa Giêsu là Con tiền hữu của Thiên Chúa (x.1,35): “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn; hãy vâng nghe Lời Ngài”. Tiếng nói ấy quy chiếu về Israel, đầy tớ được Thiên Chúa tuyển chọn (Is 42,1), và đặc biệt là quy về vị ngôn sứ giống như Môsê (Đnl 18,15); để được thuộc về dân Chúa cứu độ, từ nay chính Chúa Giêsu mà họ phải nghe lời bởi vì Ngài nói với một uy thế lớn hơn Môsê và Êlia (x. trích dẫn Đnl trong Cv 3,22-23). Trình thuật không dạy rằng tước hiệu “Con” là tước hiệu duy nhất thích hợp với Chúa Giêsu, ngay lúc nói lên tước hiệu đó, Luca cũng làm nổi bật con người ngôn sứ của Chúa Giêsu. Cùng với tước hiệu đó, cũng trong Lc 9, còn có tước hiệu Kitô và Con Người đau khổ. Nói Chúa Giêsu là ai thực ra đòi hỏi người ta không được chỉ dừng lại ở một kiểu nói. Chỉ còn thấy một mình Chúa Giêsu. Ghi chú này nhắc ta dù có những câu 34-35 rằng chính Chúa Giêsu chứ không phải các môn đệ là nhân vật chính của trình thuật. Về vinh quang thần linh giải toả từ Chúa Giêsu, thì chưa phải lúc để ba nhân chứng phổ biến, phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần đến và khi Giáo Hội đã được thành lập.

 

home Mục lục Lưu trữ